Xã hội mở Cải cách chủ nghĩa tư bản toàn cầu



tải về 1.75 Mb.
trang22/25
Chuyển đổi dữ liệu05.08.2016
Kích1.75 Mb.
#13428
1   ...   17   18   19   20   21   22   23   24   25

Sự tan rã của Nam Tư

Kể từ lần xuất bản đầu tiên của cuốn sách này, khủng hoảng ở Kosovo đã trở nên nguy kịch hơn. Sự can thiệp của NATO tạo thành một tiền lệ quan trọng, trong đó, một liên minh các quốc gia dân chủ đã can thiệp vào một cuộc xung đột nội bộ trong phạm vi một quốc gia có chủ quyền, nhân danh các nguyên lí phổ quát, cho dù các nguyên lí đó đã không được xác định một cách thích đáng.

Sự can thiệp đã thành công, nhưng đúng là sát nút, và gây nên nhiều vấn đề rắc rối. Cảnh tượng các máy bay NATO bỏ bom từ trên cao đã gây nhiều bối rối, và về nhiều mặt, đã trực tiếp phản tác dụng. Can thiệp của NATO đã đẩy nhanh sự thanh lọc sắc tộc mà nó nghĩ là phải ngăn chặn; nó tạm thời làm câm lặng sự phản đối nội địa đối với Slobodan Milosevic; nó đã chia rẽ hơn là thống nhất thế giới lại đằng sau các nguyên lí phổ quát mà nó viện dẫn đến. Kết quả cuối cùng đã làm nhẹ bớt một số tác động xấu này, và thật quá cám dỗ để quên các vấn đề rắc rối và tuyên bố thắng lợi. Nhưng điều đó không được tình trạng hiện thời biện minh.

Những hi vọng gắn với can thiệp NATO đã không được thoả mãn. Milosevic vẫn nắm quyền ở Nam Tư. Sự phục hồi luật và trật tự ở Kosovo đã chậm chạp và không đầy đủ. Xung đột sắc tộc đang diễn ra, do Milosevic cổ vũ, trực tiếp làm lợi cho ông ta. Căng thẳng tăng lên giữa Serbia và Montenegro. Tất cả các diễn tiến này chứng tỏ rằng: Các thành viên NATO đã thất bại khi tiếp tục cuộc giao chiến với sự cam kết xây dựng. Các thành viên NATO cần đưa quá trình tan rã đến kết thúc bằng cách hội nhập khu vực vào cộng đồng kinh tế và chính trị của Châu Âu. Nhu cầu đã được các nhà lãnh đạo chính trị nhận ra; bây giờ, vấn đề là thực hiện. Tôi hi vọng: Ðến khi cuốn sách này được xuất bản, sẽ có tiến bộ đáng kể. Số phận của Nam Tư trước đây và số phận các nước láng giềng của nó tạo thành một trường hợp thử thách cho xã hội mở.

Hãy xem lại sự tan rã của Nam Tư. Tôi có một số hiểu biết trực tiếp về chủ đề này. Tôi có các Quỹ tài trợ Xã hội Mở hoạt động ở tất cả các nước trong khu vực Balkan, trừ Hi Lạp và Thổ Nhĩ Kì. Trước khủng hoảng Kosovo, chúng tôi đã có các chi nhánh của Quỹ Nam Tư ở Kosovo và Montenegro; các chi nhánh này bây giờ được biến thành các quỹ độc lập.

Tôi đã ở Belgade trong tháng Tư 1990 và đã gặp thủ tướng Ante Markovic đúng vào ngày ông công bố thành lập một đảng liên bang, đảng sẽ tranh cử ở mỗi nước cộng hoà. Chúng tôi đàm phán về việc thiết lập một Quỹ Xã hội Mở mà chính phủ liên bang sẽ cung cấp vốn đối ứng. Lúc đó, Nam Tư có tình hình kinh tế tốt hơn Ba Lan nhiều. Nó đã cởi mở hơn và thịnh vượng hơn Ba Lan suốt thời kì cộng sản. Cả hai nước đã mắc căn bệnh siêu lạm phát, và cả hai đã đưa ra chương trình ổn định hoá do IMF tài trợ - chương trình được biết đến nhiều hơn như “vụ nổ lớn” - vào 1 tháng Giêng 1990. Nam Tư đã có lợi thế về việc các chuyên gia được đào tạo bởi các định chế tài chính quốc tế ở Washington, và chương trình đã tiên tiến hơn nhiều so với ở Ba Lan. Giá thực tế rớt vào tháng Tư - đó đã là lí do vì sao Ante Markovic chọn đưa đảng của ông ra lúc đó. Sau đó, Milosevic bị thâm hụt ngân sách lớn ở Serbia, làm sụp đổ chương trình ổn định hoá và thắng các cuộc bầu cử ở Serbia.

Tháng Sáu 1991, tôi cũng đã ở Belgrade, ngay trước khi chiến sự nổ ra ở Slovenia và Croatia. Tôi đã ăn sáng với Đại sứ Hoa Kì Warren Zimmerman, người nói với tôi rằng Bộ trưởng Ngoại giao James Baker vừa thăm Belgrade và bảo các nhà lãnh đạo quân đội Nam Tư rằng: Hoa Kì không phản đối nếu họ tuyên bố tình trạng khẩn cấp, đảm bảo các đường biên giới, và tiến hành bầu cử liên bang với sự giám sát quốc tế trong vòng sáu tháng. Tôi cũng đã gặp Bộ trưởng Ngoại giao Leko Loncar, người nói với tôi rằng: Cộng đồng Châu Âu đã đề nghị một khoản cho vay 3 tỉ ecu, một số tiền không nhỏ, nếu liên bang Nam Tư không tan rã, nhưng ông ta không hi vọng. Hơn nửa ngân sách liên bang dùng để chu cấp cho quân đội, chủ yếu dưới sự chi phối của người Serb; hơn nửa ngân sách liên bang là từ thuế quan, thu được ở Slovenia. Không ngạc nhiên là quân đội lo để đảm bảo nguồn thu nhập chủ yếu của nó và Slovenia đã không sẵn lòng cung cấp. Khi xung đột vũ trang xảy ra, nước đi đầu tiên của quân đội Nam Tư là cố chiếm các cứ điểm biên giới ở Slovenia, nhưng những người Slovenia đã quyết tâm hơn và đã thắng.

Khi liên bang Nam Tư tan rã, tôi lập các quỹ ở mỗi nước cộng hoà kế tục. Tôi cứ tiếc mãi là đã làm chậm quá trình với hi vọng đảm bảo được vốn đối ứng từ chính phủ liên bang. Đã có một nhóm các nhà trí thức cam kết để biến đổi Nam Tư thành một nền dân chủ, những người tìm sự ủng hộ của tôi; tôi trao trách nhiệm cho họ điều hành các quỹ. Họ đã phản đối những xúc cảm dân tộc chủ nghĩa ngày càng trở nên chi phối khi sự tan rã của Nam Tư tiếp diễn và các hành động tàn bạo tăng lên. Họ vẫn háo hức hợp tác với nhau; họ thấy xung đột không phải ở dạng của những người Serb, Croat, Bosnia, và Albani mà là ở dạng của xã hội mở đối lại xã hội đóng. Điều này làm cho họ bất hoà, không chỉ với chế độ cai trị mà, trong trường hợp của Bosnia, với xã hội nói chung. Quỹ ở Croatia đã có nguy cơ bị giam cầm trong khu ghetto do nó tự tạo ra, và tôi đã miễn cưỡng thay ban lãnh đạo để cho quỹ có thể được một mảng rộng hơn của xã hội chấp nhận.

Khi khủng hoảng Bosnia nổ ra và Sarajevo nằm dưới sự bao vây, tôi đã cam kết tặng 50 triệu $ cho Cao uỷ Người Tị nạn Liên Hiệp Quốc (UNHCR). Đó là vào tháng Mười Hai 1992. Suy nghĩ của tôi: Bằng cách ủng hộ các tổ chức tự nguyện đi vào nước đó, tôi cũng có thể kéo lực lượng gìn giữ hoà bình LHQ vào để bảo vệ họ, việc đó sẽ giúp ngăn chặn các hành động tàn ác. Đây hoá ra là một đường đi sai. Tuy nhiên, tôi vẫn giữ được một mức độ kiểm soát nào đó đối với quà biếu của tôi, và tiền được tiêu đặc biệt khéo. Dưới sự lãnh đạo của một nhà tổ chức cứu trợ tài ba, Fred Cuny, người sau đó bị giết ở Chechnya, thêm một hệ thống cung cấp nước được thiết lập, đưa điện đến qua một đường hầm, một đơn vị sản xuất plasma được lắp đặt ở bệnh viện, phân phát hạt giống cho người dân để trồng rau ở các miếng đất nhỏ hay trên ban công, v. v. Tuy vậy, tôi coi quà của tôi là một sự thú nhận thất bại: Có thể tốt hơn nhiều nếu khủng hoảng đã có thể được ngăn chặn và tiền được tiêu trong các nước không bị phá huỷ.

Tháng Mười Một 1993, tôi thăm Sarajevo, bay trên một chiếc Ilyushin, một trong những máy bay lớn nhất trên thế giới, chở ống gas mà Fred Cuny dùng để mở rộng hệ thống cung cấp hơi đốt tự nhiên. Đó là một chuyến đi kinh hoàng, với phi hành đoàn Ukraina siết chặt hay nới lỏng các dây đai giữ các ống lại với nhau khi máy bay nghiêng sang bên này hay bên kia; chúng tôi ngồi trên một ghế băng dọc theo các ống, chúng tôi có thể bị đè nát nếu dây đai bị tuột. Ở Sarajevo, tôi được yêu cầu dự cuộc khánh thành hệ thống cung cấp nước. Cany đã xây dựng một « nhà máy tiền chế » làm sạch nước và thuê chở nó sang từng mảng. Chúng nằm vừa vặn bên trong chiếc Ilyushin và có thể được dỡ ra khỏi khoang trong vòng tám phút - thời gian bốc dỡ được phép ở Sarajevo. Chúng được lắp bên trong một đường hầm dọc con sông; nước được hút từ sông và được lọc sạch. Cuny thậm chí đã tìm thấy một bể chứa bị bỏ phế ở sườn đồi bên cạnh, xây từ thời quân chủ Áo-Hung, nơi có thể chứa nước và phân phối nhờ trọng lực. Đáng tiếc, các nhà chức trách địa phương đã không cho phép nối nước vào. Chúng tôi chẳng bao giờ tìm ra được vì sao - hoặc là vì nó có thể gây trở ngại cho mánh lới phân phối nước, hay vì chính phủ cần đến những hình ảnh đẫm máu trên CNN, cho thấy cảnh tượng người dân bị giết trong khi chờ lấy nước. Tôi đã phải đe doạ: Sẽ công khai đưa ra sự phản đối của mình, trước khi được cấp giấy phép.

Quỹ Xã hội Mở ở Bosnia và Herzegovina đã có một nét riêng biệt, tách khỏi hoạt động cứu trợ nhân đạo. Mục tiêu của nó là hỗ trợ xã hội dân sự, và nó giữ khoảng cách với các nhà chức trách. Nó duy trì tinh thần phản kháng, kêu gọi lương tâm của thế giới. Nó chắc chắn đã kêu gọi lương tâm của tôi. Cuộc viếng thăm của tôi đơn thuần xác nhận điều mà tôi đã nhận biết từ xa: Sự cam kết anh dũng của họ cho các giá trị của xã hội mở.

Trên đường quay về, tôi dừng ở Zagreb và đã có một cuộc gặp duy nhất với Tổng thống Franjo Tudjman. Ông lên án tôi ủng hộ những kẻ phản bội đất nước của ông và truyền bá tư tưởng mới, nguy hiểm, được gọi là xã hội mở. Quỹ tiếp tục chịu sự thù địch từ phía chính phủ, do nó ủng hộ các phương tiện truyền thông đại chúng độc lập. Sự kiểm soát các phương tiện truyền thông đại chúng là toàn diện hơn ở Croatia so với ở Nam Tư, và, vì có các mối liên hệ tôn giáo và lịch sử, nên ít bị Châu Âu lăng nhục hơn. Nó làm cho quỹ bị cô lập và bị rủi ro một chút.

Tôi cũng dính líu sâu vào Macedonia. Hi Lạp đã áp đặt việc cấm vận lên Macedonia, trong tranh chấp về tên, điều đó phá vỡ nền kinh tế Macedonia một cách nghiêm trọng. Macedonia ở giữa đất liền và được Hi Lạp cung cấp dầu. Đầu năm 1993, tôi đã cho Macedonia vay 25 triệu $ để nước này có thể mua đủ dầu để vượt qua mùa đông. Macedonia là một xã hội đa sắc tộc với nhóm thiểu số Albani lớn. Nó có thể tồn tại như một nước độc lập chỉ nếu khi nó coi mọi công dân của mình ngang nhau, và chính phủ dường như nhận ra sức thuyết phục của lí lẽ này. Đó là lí do vì sao tôi đã cảm thấy rất quan trọng để vội vã giúp họ. Chính phủ đã trả món vay, nhưng về mặt khác, nó đã không hoàn toàn giữ lời hứa. Có lẽ nó đã cố gắng, nhưng vấp phải nhiều sự phản đối từ giới trí thức Macedonia. Đặc biệt, không được phép dạy bằng tiếng Albani ở trường đại học. Khi một trường đại học Albani bất hợp pháp được dựng lên ở Tetovo, tôi đã khẩn cầu Tổng thống Kiro Gligorov đừng phẫn nộ trước sự khiêu khích, nhưng vô ích: Máu đã chảy. Khi tôi công khai bày tỏ sự thất vọng của mình, chính phủ xem tôi như một persona non grata (người không được chấp nhận). Ðối lại, tôi cũng có cảm giác tương tự. Tôi đã đau khổ thấy đạo đức công xấu đi dần dần. Trong những ngày đầu độc lập và trong thời gian cấm vận của Hi Lạp, tôi đã cảm thấy khá rõ tinh thần vì công việc chung, thậm chí cả chủ nghĩa lí tưởng, được chính phủ thể hiện. Khi Nam Tư bị cấm vận, tình hình đã thay đổi. Buôn lậu và các hoạt động lậu truyền bá tham nhũng. Đã có mưu toan ám sát Tổng thống Gligorov, trượt sát mục tiêu. Tôi thấy rằng các quan chức chính phủ trung thực trước kia đã từ bỏ cuộc chiến đấu, trở nên ích kỉ và tham nhũng.

Quỹ của chúng tôi ở Nam Tư đúng là đã luôn luôn bất hoà với chế độ, nhưng nó đã tìm được cách bén rễ mạnh trong xã hội dân sự. Bên cạnh việc nó ủng hộ các phương tiện truyền thông đại chúng độc lập và cung ứng các khoản trợ cấp khác làm cho chính phủ phẫn nộ, quỹ còn tiến hành nhiều hoạt động nữa - đặc biệt về y tế công cộng, giáo dục, văn hoá, và hỗ trợ những người tị nạn - mà chính phủ không thể công khai phản đối. Tại một điểm, việc đăng kí của quỹ bị thu hồi, nhưng nó vẫn tiếp tục hoạt động, và cuối cùng việc đăng kí được phục hồi. Sau đó khi tôi thăm quỹ vào tháng Sáu 1997, tôi được Milan Milutinovic, khi đó là Bộ trưởng Ngoại giao, tiếp. Chúng tôi, nói theo ngôn ngữ ngoại giao, đã có một cuộc thảo luận thẳng thắn.

Quỹ ở Nam Tư có các chi nhánh ở Vojvodina, Montenegro, và Kosovo. Chi nhánh Kosovo ủng hộ hệ thống giáo dục song hành mà dân cư Albani đã thiết lập khi bị loại bỏ khỏi hệ thống chính thức. Mặc dù hầu hết sự trợ giúp của quỹ là cho sự nghiệp của người Albani - bao gồm các phương tiện truyền thông đại chúng tiếng Albani - nó không hoạt động theo các phương châm sắc tộc, và khi tôi thăm Kosovo năm 1997, tôi gặp tại quỹ những người từ mọi thành phần của xã hội dân sự. Thành viên người Albani của hội đồng quản trị của quỹ, Veton Surroi, đã - và vẫn - là một tiếng nói quan trọng cho lí trí và sự điều độ. Ông đã đóng vai trò then chốt trong việc cứu vớt Hội nghị Rambouillet (6 đến 23 tháng Hai, 1999), xảy ra trước sự can thiệp quân sự vào Kosovo, khỏi thất bại hoàn toàn.

Tôi cũng phải nhắc đến sự dính líu của tôi ở Albania và Bulgaria. Ở Albania, tôi đã tiến hành tái thiết các trường học về mặt vật chất. Đây là một sự đi trệch khỏi cách tiếp cận thông thường của chúng tôi, tức là chỉ hạn chế ở những điều xảy ra bên trong các trường học, nhưng sự thực, khi chế độ cộng sản bị lật đổ, rất nhiều trường học đã bị phá huỷ, khiến việc tái thiết trở nên cần thiết. Chúng tôi đã tìm được cách thiết lập hoạt động xây dựng hiệu quả, không có tham nhũng, và kéo các cộng đồng tham gia tái thiết. Tôi biết là chúng tôi thành công khi một nhà thầu xây dựng biếu tiền để xây lại trường ở làng của ông ta. Sau đó, khi chế độ Berisha bị lật đổ bằng bạo động năm 1997, nhiều toà nhà lại bị phá huỷ, nhưng không có toà nhà nào của chúng tôi bị đụng đến. Máy tính của chúng tôi bị cướp từ kho hàng, chứ không phải từ các trường học. Các sự kiện đó đã dạy tôi rằng: Những người Albani có các tiêu chuẩn đạo đức mạnh, và việc không thừa nhận chính phủ không được đánh ngang với sự thiếu đạo đức công. Nhìn tổng thể, tôi đã có kinh nghiệm rất tích cực ở Albania, và quỹ được ủng hộ và tôn trọng rộng rãi. Cũng đúng thế ở Bulgaria.

Tôi đưa những chi tiết này ra, một phần để xác lập chứng chỉ tín nhiệm của tôi và một phần để nói rõ viễn cảnh (thiên kiến) của tôi. Các quỹ của tôi đấu tranh cho một xã hội mở, nhưng vô ích. Tuy nhiên, tôi tin rằng: Ðáng chiến đấu, dù bị đánh thua; tôi cũng tin rằng: Nếu giả như các cường quốc phương Tây được các nguyên lí của xã hội mở chỉ dẫn thì đã có thể thắng trận đánh. Không thích hợp khi nêu chi tiết những cuộc tiếp xúc của tôi với các nhà hoạch định chính sách phương Tây; là đủ để nói rằng tôi thường phê phán các chính sách phương Tây cả công khai lẫn kín đáo, và những tuyên bố công khai của tôi giúp tôi có được điều trần riêng. Thí dụ, tôi đã có dăm ba cuộc thảo luận với Tổng thư kí LHQ khi đó, Buotros Boutros-Ghali, và tôi đã lí luận rằng: Ông ta nên từ chức hơn là chấp nhận một sứ mệnh gìn giữ hoà bình cái không thể thực hiện được - nhưng từ chức là chuyện xa vời nhất trong suy nghĩ của ông. Tôi đã ủng hộ một phương án mạnh mẽ, chống lại cả Milosevic và Tudjman, và tôi đã cảm thấy ý thức trách nhiệm cá nhân mạnh, khi cuối cùng, tôi lấy một phương án mạnh mẽ ở Kosovo - không phải vì tôi được tham vấn (tôi đã không được hỏi) mà bởi vì tôi ủng hộ nó.

Tôi không muốn nêu chi tiết các sự kiện ở Nam Tư, chỉ nêu vài nhận xét chung. Thứ nhất, các nền dân chủ phương Tây - Châu Âu và Hoa Kì - đã dính líu sâu sắc. Tôi đã nhắc tới cuộc viếng thăm của Bộ trưởng Ngoại giao Baker và sự chào mời khoản cho vay 3 tỉ ecu của Châu Âu. Tôi có thể lí luận rằng: Thậm chí, sự dính líu lẽ ra đã phải bắt đầu sớm hơn, khi Milosevic huỷ bỏ sự tự trị của Kosovo và Vojvodina hay khi ông ta làm tan vỡ chương trình cải cách kinh tế, và nó phải dựa vững chắc hơn vào các nguyên lí của xã hội mở. Sự dính líu quốc tế không thể bắt đầu đủ sớm, nhưng ngay cả khi đó, thành công cũng không được đảm bảo.

Thứ hai, không nền dân chủ Tây phương nào có lợi ích quốc gia bị đe doạ, nhưng Châu Âu và Hoa Kì đã có lợi ích chung trong những sự kiện xảy ra ở Nam Tư. Có lẽ vì lẽ đó, mà mục đích chính sách của Phương Tây thiếu sự thống nhất và rõ ràng. Phần lớn thời gian, mục tiêu nhằm duy trì hiện trạng -status quo - và tránh xung đột vũ trang. Điều này đúng vào tháng Sáu 1991, khi Bộ trưởng Ngoại giao James Baker đồng ý với việc tuyên bố tình trạng khẩn cấp; nó đã đúng ở Bosnia, nơi các cường quốc phương Tây chọn can thiệp nhân đạo thay cho can thiệp vũ trang - theo Điều 6 về gìn giữ hoà bình thay cho Điều 7 về kiến tạo hoà bình trong Hiến chương LHQ. Điều này đã đúng trong khủng hoảng Kosovo, trong đó Hoa Kì đã khai phá mọi đại lộ cho Milosevic. Vào mùa thu 1998, khi Milosevic tiến hành chiến dịch chống nổi dậy với qui mô lớn, chống lại Quân đội Giải phóng Kosovo (KLA), di dời khoảng 400.000 dân làng người Albani sống ở Kosovo, đặc sứ Hoa Kì Richard Holbrooke đã đạt một thoả thuận với Milosevic để đưa các nhà quan sát không vũ trang từ Tổ chức An ninh và Hợp tác Châu Âu (OSCE) vào Kosovo. Các quan sát viên được rút đi và Hội nghị Rambouillet được dàn xếp chỉ sau khi Milosevic đã phá vỡ thoả thuận và cho phép các hành động tàn bạo tiếp tục trước sự hiện diện của các quan sát viên. Việc nghiên cứu kĩ các sự kiện dẫn tôi đến kết luận rằng: Milosevic đã muốn bị bỏ bom nhằm tiến hành sự thanh lọc sắc tộc qui mô lớn, đã được chuẩn bị kĩ càng, việc có thể chuẩn bị cơ sở cho sự phân chia de facto - thật sự - của Kosovo.

Nói chung, các nền dân chủ phương Tây đã tương đối không nhạy cảm với tình hình chính trị nội bộ ở các nước cộng hoà khác nhau; họ bị ảnh hưởng nhiều hơn bởi những cân nhắc tôn giáo, lịch sử, và dân tộc. Thí dụ, nước Đức khăng khăng đòi công nhận Croatia và Slovenia như các nước độc lập mà không đưa ra các điều khoản thoả đáng để bảo vệ những người Serb thiểu số. Pháp, Hi Lạp, và ở mức độ ít hơn, Vương Quốc Anh đã có thiện cảm với những người Serb. Thành kiến chống những người Hồi giáo đã phổ biến ở Châu Âu. Hoa Kì kí kết Hiệp ước Dayton mà không giải quyết các vấn đề đang mưng mủ của Kosovo. Nhà lãnh đạo của những người Albani Kosovo, Ibrahim Rugova, tin vào sự phản kháng bất bạo động, đặt số phận của mình vào các nền dân chủ Tây phương; sau hiệp ước Dayton, ông bắt đầu mất ảnh hưởng, và KLA lấn sân. Không ngoa để nói rằng: Khủng hoảng Kosovo năm 1999 là hệ quả trực tiếp của Hiệp ước Dayton năm 1995.

Các nhà hoạch định chính sách Tây phương phải nhận ra rằng: Xung đột ở Nam Tư đã không chỉ là giữa những người Serb, Croat, Bosnia, và Albani, mà cũng là giữa xã hội đóng và xã hội mở. Sự nhận ra này có thể làm cho các nhà hoạch định chính sách nhạy cảm hơn với các vấn đề như thiếu các phương tiện truyền thông đại chúng độc lập và các cuộc bầu cử gian lận. Nó có thể đã làm họ nản lòng, không dựa vào các chế độ đàn áp giống như các chế độ của Slobodan Milosevic, Franjo Tudjman, và ở mức độ ít hơn, của Alija Izetbegovic ở Bosnia; họ có thể đã không bỏ qua các vấn đề ở Kosovo trong suốt cả một thập kỉ.

Thứ ba, sự can thiệp từ bên ngoài rõ ràng đã không thành công. Nó có nhiều dạng, song chẳng hình thức nào hoạt động cả. Ở Bosnia, cộng đồng quốc tế đã can thiệp trong khuôn khổ của LHQ, và kết quả thật tai hại. Học từ bài học đó, ở Kosovo, các cường quốc phương Tây dựa vào NATO, nhưng kết quả chẳng tốt hơn mấy; cuối cùng, phải cầu khẩn đến nhà chức trách LHQ để tạo một sự dàn xếp. Trước đó, LHQ đã áp đặt cấm vận kinh tế với các hệ quả không lường trước. Các nhà doanh nghiệp mờ ám có thể vi phạm sự trừng phạt, với sự giúp đỡ của các nhà chức trách. Điều này dẫn đến những liên minh tội lỗi giữa các chế độ cai trị và các băng nhóm mafia ở Nam Tư và một vài nước láng giềng. Cộng đồng Châu Âu thậm chí đã thử hành động phòng ngừa bằng hứa cho vay nếu các nước trong liên bang Nam Tư ở lại với nhau, nhưng vô ích. Tóm lại, chẳng sự can thiệp nào có kết quả cả. Can thiệp quân sự ở Kosovo có đạt được mục tiêu quân sự trước mắt, song, nó đã không mang lại hoà bình.

[16/17]

© 2004 talawas





[1]Không ngạc nhiên. Với tư cách một sinh viên, tôi đã nghiên cứu chi tiết ảnh hưởng gây mất ổn định của những biến động “tiền nóng” trong thời kì giữa hai cuộc chiến.
[2]Henry Kissinger, Diplomacy (New York: Simon and Schuster, 1995).
[3]Amartya Sen, Development as Freedom (New York: Alfred A. Knof, 1999), bản tiếng Việt: Phát triển là Quyền tự do (Viện Quản lí Kinh tế TW- NXB Thống kê 2002).

Các bài học của Nam Tư

Các sự kiện ở Nam Tư ủng hộ lí lẽ chung của tôi. Can thiệp trừng phạt có khuynh hướng không hiệu quả và nó thường phản tác dụng. Điều này đúng với trừng phạt kinh tế, gìn giữ hoà bình, và hành động quân sự. Ngăn chặn khủng hoảng không thể bắt đầu đủ sớm, và nó phải dựa vào các nguyên lí của xã hội mở. Ngay dù có đúng như thế, cũng không có đảm bảo nào rằng hành động phòng ngừa sẽ thành công; cho nên chúng ta không thể không có những trừng phạt. Các trừng phạt này sẽ được biện minh tốt hơn về mặt đạo đức và chính trị nếu đã vét cạn tất cả các lựa chọn xây dựng.

Ở các giai đoạn sớm, phòng ngừa khủng hoảng là tương đối không đau đớn và rẻ tiền; muộn hơn, thiệt hại và chi phí leo thang theo hàm số mũ. Phiền là, phòng ngừa khủng hoảng, dẫu cho bắt đầu sớm đến đâu, không nhất thiết sẽ thành công. Có một phần của khái niệm về xã hội mở cho rằng: Không phải mỗi vấn đề đều có một giải pháp. Thí dụ, với thiện chí tốt nhất trên đời, chẳng có gì có thể duy trì được hiện trạng ở Nam Tư.

Vào năm 1989, nếu giả như các nền dân chủ phương Tây đã phản đối khi Slobodan Milosevic huỷ bỏ sự tự trị của Kosovo, có khả năng là Milosevic đã không thể củng cố được quyền lực của ông ta ở Serbia, và do đó, đã có thể có một quá độ hoà bình hơn sang chế độ mới. Nhưng nếu sự can thiệp thất bại, thì hành động quân sự có thể không thể tránh khỏi. Mặc dù thế, hành động sớm có thể ít tốn kém hơn. Thiệt hại có thể đã ít hơn nhiều, nếu giả như NATO đã can thiệp khi hải quân Nam Tư ném bom Dubrovnik vào tháng Mười Hai 1991.

Một trong những trở ngại chính cho can thiệp khủng hoảng sớm là một tỉ lệ rủi ro-phần thưởng nghịch. Chẳng ai được vinh dự do giải quyết các cuộc khủng hoảng vẫn chưa nổ ra; nếu sự ngăn chặn thành công, không khủng hoảng nào xảy ra cả. Chỉ có sự thất bại mới được ghi nhớ. Chính phủ hay các định chế nào lại sẵn lòng chấp nhận sự đánh cược như vậy?

Tôi tin trở ngại có thể được khắc phục với sự giúp đỡ của lí lẽ đạo đức mà tôi đề xuất ở trước: Về vấn đề làm việc đúng, ta phải chuẩn bị chiến đấu các trận có thể bị thua. Tôi muốn làm rõ điểm này bằng cách ngó tới một lĩnh vực khủng hoảng vẫn chưa nổi lên trong ý thức chung: Thung lũng Ferghana.


Thung lũng Ferghana

Thậm chí, có ít người đã nghe nói về Thung lũng Ferghana, nối Uzbekistan, Tajikistan, và Kyrgyzstan. Còn ít người hơn biết rằng: Rắc rối nghiêm trọng đang mưng lên ở đây. Tôi có thể cũng chẳng biết đến nó, nếu giả như tôi không có các quỹ ở các nước đó. Uzbekistan là quốc gia lớn nhất và mạnh nhất trong khu vực, được phú cho nhiều dầu và khoáng sản và phải chịu một chế độ áp bức. Sự đàn áp được chủ yếu hướng về việc chống lại trào lưu Hồi giáo chính thống, và coi mọi biểu hiện của Hồi giáo như biểu hiện của trào lưu chính thống, chế độ có thể trấn áp thoải mái. Kyrgyzstan, nước láng giềng, nhỏ hơn và nghèo hơn nhiều. Nó có một tổng thống có thiên hướng dân chủ nhưng bất lực. Tajikistan bị tàn phá bởi nhiều năm nội chiến, mới được giải quyết gần đây. Các đường biên giới trong Thung lũng Ferghana là khó kiểm soát, và bản thân thung lũng lại dễ tiếp cận từ Afganistan. Thung lũng suy tàn về kinh tế, buôn bán ma tuý và khủng bố ngự trị. Các sự cố vũ trang xảy ra ở Kyrgyzstan nhiều hơn ở Uzbekistan, chính xác vì Uzbekistan độc đoán hơn. Bầu cử tổng thống được dự định ở Kyrgyzstan vào tháng Mười 2000, dự kiến với phe đối lập đáng kể. Dưới áp lực từ mọi phía, chính quyền ngày càng phục hồi các biện pháp trấn áp, hăm doạ các phương tiện truyền thông và bắt giữ các ứng viên tổng thống tiềm năng. Chẳng có lí do gì để tin rằng: Các ứng viên đó sẽ dân chủ hơn chút nào so với người đương nhiệm. Triển vọng ảm đạm.

Sự đàn áp và khủng bố tăng cường lẫn nhau. Chúng ta ở trong giai đoạn đầu của xung đột leo thang. Ở khía cạnh này, tình hình gợi nhớ lại Nam Tư năm 1990. Phải làm gì? Tôi không nhìn thấy một chiến lược để đảo lộn xu hướng thịnh hành, để tôi lại với hai lựa chọn: Tiếp tục làm điều mà quỹ của chúng tôi làm tốt nhất - hỗ trợ giáo dục, xã hội dân sự, và pháp trị - hoặc từ bỏ hoàn toàn nỗ lực. Nỗ lực dường như vô ích, và ở khía cạnh nào đó, nó thậm chí tỏ ra phản tác dụng. Thí dụ, nếu chúng tôi thành công trong việc thực thi pháp trị ở Kyrgyzstan vì tổng thống tương đối khá có chủ ý, thì ông ta có thể thua trong cuộc tranh cử với một nhân vật cứng rắn hơn. Nhưng tôi tin chắc rằng: Rút ra sẽ là một sai lầm.

Thung lũng Ferghana tiêu biểu cho trường hợp: Nơi xứng đáng để tiếp tục, bất luận kết quả ngắn hạn là gì. Chúng ta đang gieo những hạt giống của xã hội mở, và trong số đó, một vài hạt sẽ bén rễ. Tỉ lệ mất mát sắp tới làm nản lòng, nhưng các hạt giống sống sót có thể trở nên có giá trị cực kì chính xác, vì có quá ít hạt sẽ sống sót. Tôi nhớ là ở Hungary, khi tôi muốn lập một trường kinh doanh, các ứng viên tốt nhất để lãnh đạo nó đã nghiên cứu ở nước ngoài theo học bổng của Quỹ Ford hai mươi lăm năm trước.

Kết luận mà tôi rút ra không hoàn toàn thoả mãn, vì nó không cho một con đường để ra khỏi khủng hoảng hiện thời. Bản thân điều đó xem ra làm xói mòn lí lẽ biện hộ cho việc phòng ngừa khủng hoảng. Chúng ta đã nhận diện ra một khủng hoảng ở giai đoạn tương đối sớm, chúng ta muốn ngăn chặn nó, thế mà chúng ta không tìm được cách làm điều đó. Nhưng đó là thân phận con người: Không phải mọi vấn đề đều có lời giải. Khả năng rằng: Một cuộc khủng hoảng ở Thung lũng Ferghana là không thể tránh khỏi, trên thực tế làm vững mạnh lí lẽ ủng hộ loại công việc mà các quỹ của tôi gánh vác. Tôi đã lí luận rằng: Phòng ngừa khủng hoảng không thể bắt đầu đủ sớm, và rằng: nó được thực hiện đến cùng, tốt nhất bằng cách đặt nền móng cho các xã hội mở. Giả như, nếu chúng ta biết ngăn chặn khủng hoảng thế nào, thì đơn thuốc của tôi có thể quá hoang phí; cứ như tình hình này, nó có thể là sự lựa chọn sẵn có tốt nhất. Và cho dù nó có hoang phí, chắc chắn nó không vô dụng. Có thời kì, khi có thể tìm ra một chiến lược hứa hẹn. Trong các giai đoạn đầu của sự sụp đổ hệ thống Soviet, tôi đã có thể hầu như luôn luôn hình dung được các chiến lược đầy hứa hẹn nào đó, và tôi đã cố gắng ủng hộ chúng, mặc dù không thành công. Có các thời kì khác, khi chẳng có chiến lược nào xem ra hữu hiệu cả, vì xu hướng đã được định rồi. Sự giải tán Nam Tư là một trường hợp như vậy; Thung lũng Ferghana có thể là trường hợp khác nữa. Trong các trường hợp này, chúng ta phải dùng đến đơn thuốc của Sergei Kovalev và tiếp tục chiến đấu các trận thua. Nghịch lí thay, nó sẽ đảm bảo cho thắng lợi cuối cùng, bởi vì những người sẵn sàng chiến đấu các trận thua giữ cho ngọn lửa tự do không ngừng cháy. Xã hội trở nên tiến gần hơn tới lí tưởng xã hội mở, so với xã hội mà ở đó, người dân chỉ theo đuổi tư lợi của mình. Đó là sự biện minh cho việc làm đúng, bất luận những người khác làm gì. 




Каталог: xahoi
xahoi -> TRƯỜng thpt chuyên lê HỒng phong bộ MÔN: Lịch sử
xahoi -> THẢm trạng buôn bán ngưỜi nguyễn Đức Tuyên Tháng 12 2013 NỘi dung
xahoi -> TRƯỜng thpt chuyên lê HỒng phong bộ MÔN: Lịch sử ĐỀ chính thứC
xahoi -> 1. Nơi nóng nhất, sa mạc Lut Desert (Iran), 71 độ C
xahoi -> HƯỚng dẫn học sinh đỌc hiểu văn bản sử thi trong nhà trưỜng người trình bày: Trần Hải Tú
xahoi -> I. infinitives
xahoi -> Tìm hiểu chi tiết nghệ thuật qua các truyện ngắn Việt Nam hiện đại trong chương trình thpt
xahoi -> Phong cách kí hoàng phủ ngọc tưỜng qua “ai đà ĐẶt tên cho dòng sôNG?” A- mở ĐẦU
xahoi -> Tư liệu văn học Ôn thi hsg môn Ngữ Văn nhậN ĐỊnh về VĂn học I. Văn xuôi
xahoi -> R­êng thpt chuyªn Lª Hång pHong Líp 10 Chuyªn ho¸

tải về 1.75 Mb.

Chia sẻ với bạn bè của bạn:
1   ...   17   18   19   20   21   22   23   24   25




Cơ sở dữ liệu được bảo vệ bởi bản quyền ©hocday.com 2024
được sử dụng cho việc quản lý

    Quê hương