Xã hội mở Cải cách chủ nghĩa tư bản toàn cầu



tải về 1.75 Mb.
trang23/25
Chuyển đổi dữ liệu05.08.2016
Kích1.75 Mb.
#13428
1   ...   17   18   19   20   21   22   23   24   25

Viện trợ nước ngoài

Khi tôi chủ trương can thiệp mang tính xây dựng vì mục đích kiến thiết các xã hội mở, tôi chủ trương viện trợ nước ngoài. Theo một nghĩa, đó là việc các quỹ của tôi làm, và đó là điều tôi chủ trương cho một liên minh các xã hội mở.

Viện trợ nước ngoài đã mang tiếng xấu, và đúng thế. Nó là một hành động khởi nghiệp, về nhiều mặt, khó hơn việc điều hành một doanh nghiệp vì lợi nhuận, thế mà nó lại được rút gọn thành một bài tập quan liêu. Các bộ máy quan liêu hay quan tâm đến việc tự duy trì hơn là đến việc thực hiện sứ mệnh của mình. Trách nhiệm giải trình là một nét cốt yếu của nền dân chủ, nhưng nó khuyến khích hành vi phòng ngự, đoán theo, và buộc tội lẫn nhau. Chúng ta bắt các công chức theo các tiêu chuẩn cao hơn các nhà doanh nghiệp. Chúng ta chịu thiệt hại trong kinh doanh nhưng không chịu trong viện trợ nước ngoài. Chẳng ngạc nhiên là những người chịu trách nhiệm tránh rủi ro ngay cả với cái giá: Tránh luôn cả thành công.

Trong lí lẽ ủng hộ viện trợ nước ngoài, tôi đi ngược dòng. Thuyết thị trường chính thống tìm cách giải thoát các hoạt động kinh tế khỏi bất kể loại can thiệp chính thống nào, và phải thừa nhận là nó đã tạo ra một số kết quả tuyệt vời bằng cách tháo năng lực sáng tạo của trí tuệ con người ra. Và ở đây, tôi thử áp đặt ảnh hưởng nặng nề của bộ máy quan liêu.

Đó không phải là điều tôi bênh vực. Tôi công nhận các giá trị của một nền kinh tế thị trường. Tôi tin chúng dựa chính xác vào sự giải phóng các năng lực sáng tạo, chứ không vào việc tạo ra cân bằng. Nhưng động cơ lợi nhuận là không đủ để duy trì xã hội. Nền kinh tế thị trường chỉ là một phần của xã hội mở. Phải có nỗ lực nào đó để cổ vũ sự phát triển của các xã hội mở, và nó phải có một thành phần mang tính xây dựng, bởi vì những trừng phạt, bản thân chúng không thể làm được việc; chúng cũng chẳng thể được biện minh về mặt đạo đức. Điều đó có nghĩa rằng: Chúng ta phải tiến hành viện trợ nước ngoài với ý thức đầy đủ về sự bất hoàn hảo của nó.

Tôi tin việc sáng tạo trong sự theo đuổi các mục tiêu xã hội ngang như sáng tạo trong sự theo đuổi lợi nhuận là không vượt quá năng lực trí tuệ con người.

Tôi đã cố chứng minh điều này trong các hoạt động từ thiện của riêng tôi. Tôi đã tạo ra cái tôi gọi là một “phiên bản fractal[1] của xã hội mở, thiết lập một mạng lưới các quỹ được hội đồng, gồm những người dân của các nước mà chúng phục vụ, cai quản. Tôi dựa vào họ để quyết định quỹ nên làm cái gì, và họ chịu trách nhiệm về các hành động của họ. Tôi thường ngạc nhiên bởi việc họ làm. Một số chương trình hay nhất là những chương trình tôi chẳng bao giờ hình dung ra. Phải thừa nhận nó là chuyện hú hoạ. Chúng tôi đã có một số thành công lớn, một số kết quả xoàng xoàng, và thi thoảng những thất bại, đòi hỏi phải thay nhân sự.

Tôi muốn cách tiếp cận này có thể được lặp lại ở một qui mô lớn hơn, nhưng tôi nhận ra rằng: Nó không thể được thực hiện. Thật vậy, mạng lưới quỹ của riêng tôi đã đạt đến qui mô mà ở đó, nó mất một số tính uyển chuyển xưa kia của nó và bắt đầu mang tính cách của một bộ máy quan liêu. Tuy nhiên, tôi là một tác nhân độc lập. Tôi có đủ khả năng để thừa nhận và sửa các sai lầm của tôi; đó là lí do vì sao, các nỗ lực của tôi đa phần đã thành công. Các nhà chính trị và các công chức không được hưởng sự xa xỉ như vậy, vì họ phải biện minh hành động của họ trong con mắt không thân thiện của công chúng. Điều này làm cho họ không ưa rủi ro trong các tình huống, nơi khó tạo ra các kết quả tích cực, mà không đảm nhận rủi ro.

Viện trợ nước ngoài chính thức có lẽ không thể có hiệu quả như nỗ lực từ thiện của tôi (mặc dù nó có thể bù lại bằng số lượng, cái nó thiếu về chất lượng). Thế mà, chúng ta không thể làm mà không có nó, nếu chúng ta muốn xây dựng một xã hội mở toàn cầu. Cùng lí lẽ đó áp dụng cho các hình thức can thiệp chính thức khác: Sự thực rằng nó không hiệu quả, không có nghĩa rằng nó không cần thiết; nó có nghĩa là chúng ta phải cố làm cho nó hiệu quả hơn. Các khuyến khích dựa vào quy tắc hợp hơn với các chương trình do chính phủ quản lí. Đó là lí do vì sao cấu trúc chính trị và tài chính toàn cầu trở nên quan trọng đến vậy. Nhưng ngay cả trong các chương trình được quản lí, phải có thể giải phóng năng lực sáng tạo của những người quan tâm - chẳng có lí do vì sao tinh thần kinh doanh lại phải hạn chế ở việc theo đuổi lợi nhuận.




Hiệp ước ổn định cho Đông Nam Âu

Điều này kéo chúng ta lại vùng Balkan. Tôi đã nói về sự tan rã của Nam Tư như một tình huống vô vọng, nơi chẳng gì có kết quả cả. Sau can thiệp của NATO, tình hình đã thay đổi. Một cơ hội nảy sinh để vạch ra một kết quả tích cực, và chúng ta bắt buộc phải nắm lấy. Tôi không phải là người duy nhất bàng hoàng sâu sắc bởi các vấn đề đạo đức do việc ném bom của NATO gây ra. Ai cũng cảm thấy rằng: Sự dính líu của châu Âu ở Balkan đã là quá rụt rè và mang tính phản ứng lại. Liên hiệp châu Âu cần phát triển một chính sách tích cực, ngừa trước đối với khu vực, điều sẽ ngăn ngừa khủng hoảng hơn là phản ứng lại với chúng. Vấn đề được Janvier Solana, tổng thư kí NATO lúc đó, nêu ra lần đầu tiên với tôi, trước khi NATO can thiệp. Mạng lưới quỹ của tôi bắt đầu thực hiện một chương trình toàn diện cho khu vực, song Trung tâm Nghiên cứu Chính sách châu Âu (CEPS), một think-tank (nhóm quân sư) ở Brussels, những người được Romano Prodi, chủ tịch được Uỷ ban châu Âu bầu ra, hậu thuẫn, đã đi trước chúng tôi. Thay cho phát minh lại chiếc bánh xe, chúng tôi đã chấp nhận kế hoạch đó như cơ sở cho tư duy của mình. Chúng tôi đã tổ chức một cuộc hội thảo của hai mươi lăm viện chính sách từ khu vực ở Ljubljana từ 18 đến 20 tháng Bảy 1999, và đưa ra một tuyên bố, là dự thảo tỉ mỉ của kiến nghị CEPS.

Ý tưởng then chốt là kéo các nước trong khu vực lại gần nhau hơn và kéo họ lại gần châu Âu hơn. Liên hiệp châu Âu có thể hoạt động như một cái nam châm vì nhân dân trong khu vực được hút vào nó. Đạp vỡ các rào cản thuế quan ngăn cách các nước với nhau và với Liên hiệp châu Âu sẽ loại bỏ một nguồn chủ yếu của tham nhũng và can thiệp chính trị. Các nước Đông Nam Âu sẽ nhận được hỗ trợ ngân sách, có thể làm cho họ có khả năng sử dụng đồng euro như đồng tiền của mình. Sự hỗ trợ ngân sách sẽ có các điều kiện chính trị, tạo nền móng cho xã hội mở. Viện trợ được phân phát trên cơ sở khu vực hơn là cơ sở song phương. Các nước tham gia sẽ buộc phải cạnh tranh vì tài trợ đầu tư và trợ giúp kĩ thuật thay cho việc có khả năng kiểm soát luồng tiền và khai thác nó vì lợi ích cá nhân và chính trị.

Đây là một kế hoạch toàn diện, có thể tránh việc lặp lại các sai lầm đã xảy ra ở Bosnia. Sự tái thiết Bosnia đã thất bại vì hai lí do chính: Lãnh thổ quá nhỏ, và các nhà chính trị đã thò bàn tay nhơ bẩn của họ vào mọi miếng bánh. Cách tiếp cận khu vực sẽ loại bỏ cả hai nhược điểm. Một thị trường chung và một đồng tiền chung, trụ đỡ vào kết cấu hạ tầng của nền kinh tế thị trường, sẽ cho phép việc phát triển kinh tế. Còn rất nhiều việc phải làm, về mặt xã hội và chính trị, và để hoà giải với những tội lỗi và thương tổn của quá khứ, nhưng con đường hướng đến một tương lai tốt đẹp hơn đã được vạch ra rõ ràng.

Không khó để tạo sự ủng hộ ở địa phương cho kế hoạch này, vì châu Âu rất hấp dẫn với khu vực. Mạng lưới quỹ của tôi huy động xã hội dân sự hậu thuẫn nó. Các chính phủ khác nhau (hiển nhiên, ngoại trừ chính phủ của Milosevic) hăm hở mong hợp tác. Cũng có nhiều ủng hộ trong nội bộ Liên hiệp châu Âu. Ngoài Romano Prodi ra, các quan chức chính phủ Đức, Ý, Anh, và các nước khác đã phát biểu cùng theo đường hướng này. Chính phủ Hoa Kì cũng ủng hộ, đặc biệt bởi vì chi phí chủ yếu do Liên Hiệp châu Âu gánh chịu.

Mặc dù kế hoạch gợi nhớ lại kế hoạch Marshall, chi phí sẽ khá khiêm tốn vì khu vực là nhỏ xíu về mặt kinh tế, nhỏ hơn cả Hà Lan. Tuy nhiên, tiền là một vấn đề. Các nước thành viên phản đối mạnh mẽ việc tăng ngân sách của Liên hiệp châu Âu; họ muốn duy trì sự kiểm soát ngân quỹ của họ bằng cách đi qua các hội nghị tài trợ. Điều này phá hoại một trong các ý tưởng chính của kế hoạch: Các nước trong khu vực phải cạnh tranh vì trợ giúp, hơn là các nước tài trợ cạnh tranh nhau và cho phép những kẻ gác cổng điều động ngân quỹ cho các mục đích riêng của họ.

Một vấn đề khác: Tổ chức. Trong việc chuyển ý niệm thành thực tế, các bộ trưởng ngoại giao của các nước Liên hiệp châu Âu đã nghĩ ra Hiệp ước Ổn định, chẳng có gì khác hơn là một khung khổ rỗng đợi nhồi nội dung vào; các bộ trưởng tài chính không thích khung khổ này và từ chối cấp ngân quỹ. Các nhà quan liêu của Liên hiệp châu Âu cũng chẳng thích nó. Họ đã quen với các thoả thuận song phương, giữa chính phủ và chính phủ; con đường ưa thích của họ là kí kết cái gọi là các Thoả ước Ổn định và Liên kết với từng chính phủ. Kết quả là, cách tiếp cận khu vực, không phải chính phủ, có thể mất đi.

Khi có các thực thể quan liêu khác nhau kéo theo các hướng khác nhau, giải pháp thường là tạo ra một thực thể mới để điều phối chúng. Kết quả thuần là sự sinh sôi nảy nở của các tổ chức. Đó là điều đã xảy ra ở Kosovo. Quyền lực được chia giữa quân đội do NATO dẫn đầu (KFOR) và nhà chức trách dân sự do LHQ dẫn đầu (UNMIK). Nhà chức trách dân sự lại có bốn trụ cột: UNHCR cho công việc nhân đạo; LHQ cho chính quyền dân sự lâm thời; OSCE cho sự xây dựng các định chế chính trị; và Liên hiệp châu Âu cho việc tái thiết kinh tế. Làm cho tình hình tồi hơn, tổng hành dinh LHQ ở New York muốn thực thi kiểm soát chi tiết với UNMIK.

Kết quả thật tai hại. Sáu tháng sau khi giải quyết khủng hoảng Kosovo, trật tự không được vãn hồi và người dân không cảm thấy an toàn. Các đội quân KFOR đã thành công trong việc bảo vệ bản thân mình, chứ không phải việc bảo vệ được dân cư dân sự. LHQ đã không có khả năng đưa ra một lực lượng công an thoả đáng. Tình hình đã được cải thiện từ khi đó, nhưng sự thiệt hại không hề được tháo gỡ. Dân cư người Serb phải trốn tránh trong các vùng bị bao quanh, những người di gan bị xua đuổi, và dân cư Albani sống trong sợ hãi.

Thiếu ngân quỹ và sự lẫn lộn của các nhà chức trách đã làm chính quyền LHQ thất bại ở mọi bước. Nó không thể trả lương cho giáo viên và các viên chức dân sự khác, phục hồi các dịch vụ công thiết yếu, thiết lập cơ sở sơ đẳng cho hệ thống tư pháp, hoặc thậm chí cung cấp các tài liệu đăng kí dân sự. Nhằm tăng nguồn thu, nó đưa ra thuế quan đối với hàng hoá đến từ Macedonia - một bước thụt lùi, tạo ra sự chậm trễ méo mó và tham nhũng trắng trợn và mâu thuẫn trực tiếp với mục tiêu làm giảm tầm quan trọng của các đường biên giới.

Hậu quả của khủng hoảng Kosovo đã tiết lộ một sự khác biệt kinh khủng giữa các nguồn lực có thể được huy động cho hành động quân sự và nguồn lực sẵn có cho các mục đích xây dựng. Trong trường hợp Hoa Kì, ngân sách quốc phòng là 260 tỉ $, viện trợ nước ngoài 13 tỉ $. NATO chi 2 đến 4 tỉ $ cho việc ném bom Nam Tư, nhưng các nước NATO gặp khó khăn trong việc tìm ra 50 triệu $ để giúp Montenegro tiến hành các cải cách kinh tế. Tuy nhiên, nếu chế độ Djukanovic ở Montenegro có thể duy trì sự ổn định kinh tế còn đồng dinar của Nam Tư mất giá trị, thì chế độ Milosevic chắc chắn bị bất ổn định hơn là do mọi cuộc ném bom. Sự chậm trễ về huy động nguồn lực làm trầm trọng thêm các khó khăn về cam kết xây dựng.

Sự khác biệt giữa ý định và thực tế là đủ rộng để tạo ra tình huống xa cân bằng. Nó sẽ được giải quyết ra sao? Phần nhiều phụ thuộc vào sự cân đối - không chỉ số phận của Nam Tư trước đây mà cả tương lai của Liên hiệp châu Âu và tính hiệu lực của khái niệm về xã hội mở. Vùng Balkan không phải là lĩnh vực có vấn đề duy nhất trên thế giới - có quá nhiều để liệt kê: Indonesia (có thể là Nam Tư rất rõ ràng), Chechnya, Thung lũng Ferghana, Congo, Angola, Kashmir, Đài Loan, và v. v. Tuy nhiên, số phận của Balkan đặt ra một thách thức trực tiếp cho NATO. Nếu chúng ta không muốn cam kết một cách xây dựng, thì chúng ta không có quyền gì để can thiệp trừng phạt; và nếu chúng ta không sẵn lòng can thiệp vào công việc nội bộ của một quốc gia có chủ quyền nhưng áp bức, thì chúng ta không thể hi vọng về một xã hội mở.

Có những giây phút nào đó, lịch sử đã để ngỏ hơn những lúc khác. Chúng ta đã không lợi dụng được giây phút như vậy ở Liên Xô năm 1989; chúng ta đang có những giây phút như vậy ở Balkan vào đầu thế kỉ mới. Chúng ta chẳng có thể làm được mấy ở Chechnya: Chúng ta càng phản đối, chúng ta càng nuôi dưỡng tâm trạng dân tộc chủ nghĩa cay đắng ở Nga. Nhưng, việc làm thay đổi diễn tiến của các sự kiện, để chúng trở nên tốt hơn ở Balkan, hoàn toàn trong năng lực của chúng ta.

Tôi rất hi vọng, rằng ý tưởng về xã hội mở sẽ qua được thử thách lần này. Có nhiều nhân tố ủng hộ nó. Ðiều gì đó giống một kế hoạch Marshall cho Balkan đang được thảo luận, và nó được sự ủng hộ của những người có vị trí có trách nhiệm: Điều này chứng tỏ chúng ta có tiến bộ. Tôi không cảm thấy cô đơn như tôi đã thấy sau sự sụp đổ của Liên Xô. Tuy nhiên, sự ủng hộ công khai đang yếu đi. Khi NATO bắt đầu ném bom Nam Tư, Kosovo nằm ở trung tâm sự chú ý của thế giới; bây giờ, nó bị các cuộc khủng hoảng khác thế chỗ. Trách nhiệm của các hành động của chúng ta vẫn còn đó. Các chính phủ dân chủ đáp lại ý chí của nhân dân; trừ phi nhân dân cam kết cho các nguyên lí của xã hội mở, chúng ta không thể kì vọng xã hội mở thắng thế. Chúng ta phải theo đuổi đến cùng, vì cho chính chúng ta.

Chương 12: Liên minh xã hội mở

Tiến từ cái đặc thù sang cái chung, bây giờ tôi muốn tạo dựng sự biện hộ cho một xã hội mở toàn cầu. Tôi đã kiến nghị một liên minh của các nước dân chủ với mục tiêu kép: Cổ vũ sự phát triển của xã hội mở trên khắp thế giới, và thiết lập một số qui tắc nền tảng để chi phối hành vi của các quốc gia đối với công dân của chúng và giữa các quốc gia với nhau. Liên minh Xã hội Mở sẽ phải được các nền dân chủ phát triển lãnh đạo; cho nên tôi sẽ bắt đầu bằng việc khảo sát tình hình hiện tại ở Hoa Kì và Liên hiệp châu Âu - việc thảo luận các vấn đề của Nhật Bản sẽ đưa chúng ta đi quá xa. Liên minh sẽ có một thành phần quân sự cũng như thành phần phát triển; cho nên tôi sẽ khảo sát NATO trước khi thảo luận bản thân Liên minh. Liên minh sẽ có khả năng hoạt động trong hoặc ngoài khuôn khổ LHQ; cho nên tôi sẽ khảo sát các triển vọng cải cách LHQ trước khi tôi đưa ra lí lẽ cuối cùng, ủng hộ việc thành lập Liên minh.


Hoa Kì

Hoa Kì là siêu cường duy nhất còn lại, và tính ưu việt quân sự của nó lớn hơn bao giờ hết. Nó có thể ở vị thế để tạo ra một xã hội mở, nếu giả như nó có một tầm nhìn rõ ràng về nó nên như thế nào. Đáng tiếc, Hoa Kì không có cái nhìn rõ ràng về vai trò của nó trên thế giới, hoặc, chính xác hơn, các quan điểm của nó không nhất quán về nội tại. Hoa Kì đang bị một cuộc khủng hoảng về bản sắc mà thậm chí nó không nhận ra.

Đã luôn có hai chủ đề chính trong chính sách đối ngoại Mĩ: chủ nghĩa hiện thực địa chính trị, và cái có thể gọi là “chủ nghĩa lí tưởng xã hội mở”. Hoa Kì là ngoại lệ giữa các Cường Quốc của lịch sử về việc cam kết của nó cho các nguyên lí phổ quát nào đó, được phát biểu chói lọi trong Tuyên ngôn Độc lập và được tái khẳng định trong Hiến chương Đại Tây Dương (được phản ánh trong Lời nói đầu của Hiến chương LHQ). Ngay cả Henry Kissinger cũng thừa nhận cái ông gọi là “chủ nghĩa ngoại lệ Mĩ: American exceptionalism”. [2]

Hai xu hướng thường bất hoà với nhau. Có thể nói Theodore Roosevelt đã dùng cách tiếp cận địa chính trị, còn Woodrow Wilson dùng tầm nhìn xã hội mở. Cân đối lại, chủ nghĩa lí tưởng hay thua các nhóm dân tộc, chế định, và quyền lợi khác, song các chính sách phải được diễn đạt bằng ngôn từ đạo đức nhằm thoả mãn công luận. Kết quả thuần là một yếu tố đạo đức giả trong chính sách đối ngoại của Hoa Kì.

Trong Chiến tranh Lạnh, Hoa Kì đã hưởng một cuộc đời tốt đẹp nhất có thể có trên trần gian: Nó đã có thể vừa là cả siêu cường lẫn người lãnh đạo thế giới tự do. Chính sách đối ngoại Mĩ cũng đã được lợi từ sự ủng hộ của hai đảng. Sự hài hoà này bị Chiến tranh Việt Nam phá vỡ, khi chính sách đối ngoại và chính trị đối nội trở nên mâu thuẫn trực tiếp với nhau. Sự phản đối trong nước cuối cùng đã làm cho Hoa Kì không thể theo đuổi Chiến tranh Việt Nam. Kinh nghiệm để lại các vết thương hằn sâu và những kí ức chua xót.

Chiến tranh Lạnh kết thúc với sự sụp đổ nội bộ của hệ thống Soviet và sự nổ tung đế chế Soviet. Điều này được xem là một chiến thắng lớn cho Hoa Kì. Nhưng bản chất của chiến thắng chưa bao giờ được hiểu đúng, vì hai vai trò - siêu cường và lãnh đạo thế giới tự do - bị lẫn lộn. Cũng đã chẳng rõ là thế giới tự do có nghĩa là gì: Chủ nghĩa tư bản hay xã hội mở. Phải chăng sự sụp đổ là do sự theo đuổi hung hăng Sáng kiến Phòng thủ Chiến lược (cái gọi là sơ đồ Chiến tranh các Vì sao), do tính ưu việt của chủ nghĩa tư bản, hay do sự khao khát tự do trong nội bộ đế chế Soviet gây ra? Phản ứng với sự sụp đổ cũng bị lẫn lộn hệt như vậy.

Chính sách đối ngoại của Hoa Kì vẫn bị lẫn lộn suốt từ đó. Không nghi ngờ gì, chúng ta thích là siêu cường duy nhất còn tồn tại. Song chúng ta cũng muốn là người lãnh đạo thế giới tự do, như trong Chiến tranh Lạnh, và đó là nơi sự lẫn lộn lẻn vào bức tranh. Trong Chiến tranh Lạnh, chính sự tồn tại của thế giới bị đe doạ, và nó đã tìm sự bảo vệ của một siêu cường. Các nền dân chủ phương Tây tập họp trong NATO, dưới sự chi phối của Hoa Kì. Song Chiến tranh Lạnh đã qua, và mối đe doạ đã được loại bỏ. Các nước khác chẳng còn cùng lí do để chịu qui phục ý chí của một siêu cường. Cho nên, để vẫn là người lãnh đạo thế giới tự do, chúng ta phải thay đổi cách ứng xử của mình. Chúng ta phải lãnh đạo bằng cách xây dựng một hội đối tác (partnership) chân thật và chịu theo các qui tắc mà chúng ta tìm cách áp dụng cho những người khác.

Chúng ta đã chọn con đường khác. Chúng ta cảm thấy: Ở địa vị siêu cường của mình, chúng ta phải được ban các đặc quyền đặc biệt, và khi chúng ta thuộc về các định chế quốc tế nào đó, chúng ta có quyền chi phối chúng. Chúng ta hăm hở mở rộng NATO; chúng ta thuộc về Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO), Quỹ Tiền tệ Quốc tế (IMF), và Ngân hàng Thế giới (WB), nhưng chỉ vì chúng ta có thể chi phối chúng. [3] Chúng ta đã vô cớ đánh mạnh LHQ. Và dưới ảnh hưởng của các nhà lãnh đạo bảo thủ theo đường lối cứng rắn như Nghị sĩ Jesse Helms, chúng ta tuyệt đối phản đối mọi sự vi phạm chủ quyền của chúng ta. Tuy nhiên, chúng ta lại muốn vi phạm chủ quyền của các nước khác, nhân danh nhân quyền và dân chủ. Chúng ta không chịu được các túi xác chết, thế mà chúng ta áp đặt sự trừng phạt thương mại và thả bom từ trên cao để bảo vệ các nguyên lí của chúng ta. Các nguyên lí của chúng ta được cho là có tính hợp lệ phổ quát, tuy thế, chúng ta khăng khăng phán xử: Chúng phải được áp dụng ra sao và khi nào. Có một tiêu chuẩn kép hoạt động, điều có thể xúc phạm phần còn lại của nhân loại, và những người Mĩ thậm chí không ý thức được về nó.

Thái độ của chúng ta có thể được biện minh trên cơ sở tính ưu việt quân sự: Hoa Kì là siêu cường duy nhất, và vì vậy, có thể làm vương làm tướng. Song, điều này không thể dung hoà với sự đòi hỏi của chúng ta muốn là người lãnh đạo thế giới tự do. Đó là chỗ: Vị thế nội tại của chúng ta trở nên không nhất quán. Và trong khi, về phía mình, chúng ta tự cho là mình đúng, những người khác chủ yếu thấy đó là sự ngạo mạn về quyền lực.

Hoa Kì có sự vượt trội về quân sự, nhưng nó lại không sẵn lòng hành động như cảnh sát duy nhất của thế giới. Như thế là tốt hơn, vì Hoa Kì không nhận được đủ lợi ích từ hệ thống tư bản toàn cầu để biện minh cho những hi sinh mà sự duy trì hoà bình một mình có thể gây ra. Chi phối thế giới cũng chẳng dễ dung hoà với xã hội mở.

Nhưng thế giới đúng cần phải có các qui tắc và tiêu chuẩn ứng xử và các phương tiện để thực thi chúng. Thiếu chúng, thì kẻ mạnh sẽ khống chế kẻ yếu, cả về mặt quốc tế và nội bộ. Các qui tắc ứng xử có thể được thiết lập chỉ qua thoả thuận quốc tế. Nếu chúng được một siêu cường đơn phương áp đặt thì sẽ là một ví dụ về kẻ mạnh khống chế người yếu. Đó là nơi mà việc: vừa là một siêu cường vừa đòi hỏi làm lãnh đạo thế giới tự do trở nên mâu thuẫn nhau.

Có thể gây sốc khi nói rằng: Chính Hoa Kì đã trở thành cản trở lớn nhất để thiết lập pháp trị trong các quan hệ quốc tế. Có các chế độ áp bức duy trì sự kìm kẹp chặt chẽ đối với thần dân của mình, nhưng phóng chiếu quyền lực của họ ra nước ngoài, họ ý thức sâu sắc rằng họ có thể đánh thức người khổng lồ đang ngủ. Hoa Kì có thể là bất kể thứ gì, nhưng không áp bức ở trong nước, thế mà nó phô trương quyền lực của nó trên phương diện quốc tế hơn bất kỳ nước nào khác. Nó đôi khi hành động như một kẻ xâm lược, khi nó không thấy mối nguy hiểm của túi xác chết - thí dụ, ném bom một nhà máy dược ở Sudan. Thậm chí, với nét nổi bật hơn, nó mang tính xâm lược trong việc từ chối hợp tác. Nó từ chối trả phí của mình cho LHQ; nó do dự bổ sung cho IMF trong thời gian khủng hoảng tài chính toàn cầu; nó đơn phương áp đặt sự trừng phạt ngay tức khắc hay, chính xác hơn, do sự xúi giục của các cử tri đoàn trong nước. Hoa Kì là một trong vẻn vẹn bảy nước bỏ phiếu chống việc thành lập Toà Hình sự Quốc tế (ICC). Các nước ngoan cố khác là Trung Quốc, Irắc, Israel, Libya, Qatar, và Yemen. Lầu năm góc, phản đối việc nhân viên quân sự Hoa Kì phải chịu dưới quyền phán xử pháp lí quốc tế, đã đi xa đến mức: Chỉ thị cho các tuỳ viên quân sự ở các đại sứ quán Mĩ trên khắp thế giới phải đi tranh thủ các nhà lãnh đạo quân sự của các chính phủ sở tại để vận động hành lang chống lại Toà Hình sự Quốc tế. Đây là một chiến thuật đặc biệt đáng ngờ ở các nước, nơi quyền lực dân sự đối với các lực lượng vũ trang chưa được xác lập vững chắc.

Chí ít, Hoa Kì đã đưa ra lí lẽ có vẻ hợp lí để chống lại ICC, cụ thể là ICC có thể không cung cấp sự bảo đảm cho các công dân Mĩ ngang bằng với Hiến pháp Hoa Kì. [4] Nhưng chẳng có biện minh nào cho sự thất bại của Quốc hội trong việc phê chuẩn các hiệp ước quốc tế không ai bàn cãi như Luật về Qui ước Biển và Qui ước về Đa dạng Sinh học. Hoa Kì là một trong chín quốc gia chưa chịu phê chuẩn Qui ước sau - cùng với Afganistan, Kwait, Liberia, Lybia, Malta, Thái Lan, Tuvalu, và Nam Tư - một toán bầu bạn không thật xuất sắc lắm.

Không nhịn được khi nói rằng Hoa Kì phải hợp tác với những người khác. Những người được chủ nghĩa hiện thực địa chính trị hay thuyết thị trường chính thống hay chủ nghĩa Darwin thông tục chỉ dẫn, những người đánh ngang hàng sự sống sót của kẻ thích hợp nhất với sức mạnh kinh tế và quân sự, có thể không thấy bất kể giới hạn nào cho chủ quyền của nó. Chỉ nếu khi chúng ta muốn sống trong một xã hội mở, thì mới suy ra rằng: Chúng ta phải đặt chủ quyền của chúng ta dưới các qui tắc và các tiêu chuẩn ứng xử có hiệu lực phổ quát. Như tôi đã đau đớn chỉ ra, dính đến sự lựa chọn thật sự: Không nhận thức đầy đủ các hệ luỵ, Hoa Kì đã làm hại sự hợp tác quốc tế trong việc chọn hành sử quyền lực của mình.

Hoa Kì có thể lấy lại địa vị lãnh đạo thế giới tự do bằng cách lập một liên minh của các quốc gia có ý kiến giống nhau, hết lòng thúc đẩy các nguyên lí của xã hội mở về mặt quốc tế và nội bộ ở riêng từng nước. Nhưng điều này đòi hỏi sự thay đổi triệt để về thái độ - từ chủ nghĩa đơn phương hống hách sang một cách tiếp cận hợp tác hơn. Một sự thay đổi như thế là có thể được thực hiện?

Tôi tin là có. Hoa Kì đã duy trì một sự cam kết từ lâu đối với các lí tưởng của xã hội mở, khởi đầu bằng Tuyên ngôn Độc lập. Theo các cuộc thăm dò dư luận, Liên Hiệp Quốc, bất chấp sự tê liệt hiện thời, vẫn được công chúng ưa chuộng hơn Quốc hội hay tổng thống. Ðiều cần phải làm là nắm lại sự ủng hộ tiềm tàng này cho sự hợp tác quốc tế.

Năm 2000, trước các cuộc bầu cử ở Mĩ, một đa số bảo thủ ở Quốc hội kiên quyết chống lại sự hợp tác quốc tế. Lập trường của nó không nhất thiết đại diện cho công luận. Một liên minh rầy rà thịnh hành giữa những người theo thuyết thị trường chính thống và các môn đồ khác nhau của tư tưởng chủ quyền quốc gia, trải từ chủ nghĩa biệt lập của những người tôn giáo chính thống đến cách tiếp cận Mĩ - trước hết của các nghiệp đoàn, và đến chủ nghĩa đơn phương của Jesse Helms. Và mặc dù thống nhất trong sự phản đối của chúng với các định chế đa phương, chúng có các mục tiêu khá khác nhau trong đầu. Những người theo thuyết thị trường chính thống chống sự can thiệp của chính phủ vào nền kinh tế; những người sùng đạo chính thống phản đối các tiêu chuẩn tự do, như quyền phá thai, do nhà nước áp đặt. Những người theo thuyết thị trường chính thống chống sự hợp tác quốc tế vì cùng lí do mà họ không thích chính phủ mạnh: Họ muốn cho kinh doanh bàn tay tự do. Những người theo chủ nghĩa biệt lập, thành viên nghiệp đoàn, và theo tôn giáo chính thống phản đối nó vì lí do ngược lại: Họ bực bội về mối đe doạ mà các thị trường toàn cầu nêu ra đối với các giá trị và lợi ích của họ. Thật hết sức ngạc nhiên là làm sao các nhóm khác hẳn nhau này lại có thể dung hoà những khác biệt của họ bằng cách tập trung vào một kẻ thù chung, cụ thể, là nhà chức trách chính phủ và quốc tế. Tôi cho rằng: Họ sẽ thấy sự thống nhất này ngày càng khó duy trì, khi họ tiến gần hơn đến việc đạt được các mục tiêu của họ.

Sự lựa chọn cốt yếu đối với Hoa Kì là giữa cách tiếp cận đơn phương và đa phương. Cách trước dẫn đến việc tái lập một cân bằng quyền lực và triển vọng đối đầu vũ trang giữa các khối chống đối nhau; cách tiếp cận sau dẫn đến một xã hội mở. Không có khả năng là sự lựa chọn sẽ được trình bày cho các cử tri Mĩ một cách thẳng thắn như vậy trong bầu cử tháng 11- 2000 - chủ nghĩa đa phương là một từ quá dài để là một khẩu hiệu bầu cử. Albert Gore rõ ràng có thiện cảm hơn với ý tưởng so với George W. Bush, song chắc ông ta thấy quá rủi ro để đưa nó ra như một vấn đề bầu cử. Tuy nhiên, chính sách đối ngoại chắc sẽ hiện ra lớn hơn trong cuộc bầu cử năm 2000 so với năm 1992, khi Bill Clinton chủ ý không nhấn mạnh chủ đề, và cảm giác thịnh hành về thịnh vượng kinh tế có thể dễ chuyển thành thiện cảm lớn hơn với hợp tác quốc tế.

Sau bầu cử, có thể có sự một sự tái sắp xếp quang cảnh chính trị trong nước, với những người theo chủ nghĩa quốc tế thuộc các màu sắc khác nhau, cùng ủng hộ một xã hội mở toàn cầu. Nó có thể xảy ra trên cơ sở hai đảng, vì có một số truyền thống trong nội bộ cả hai đảng có thể được phục hồi. Trong Đảng Dân chủ, đó là truyền thống tự do, Chính sách Kinh tế Xã hội mới; trong đảng Cộng hoà, đó là truyền thống quốc tế chủ nghĩa, thị trường tự do. Tất cả cái cần cho những người ủng hộ toàn cầu hoá thuộc Đảng Cộng hoà là nhận ra xã hội mở như một mục tiêu đáng mong muốn. Như sự tán thành một Cơ quan Phát triển Thế giới của Báo cáo Meltzer, tỏ ra rằng: Nó không khó tin như nó có vẻ.

Thường cần đến một khủng hoảng để thúc đẩy một sự thay đổi có ý nghĩa về chiều hướng. Ta có thể đã hi vọng rằng: Các cuộc khủng hoảng ở Kosovo, Đông Timor và châu Phi đã đủ sốc để tập trung trí tuệ. Nếu chúng ta phải đợi một cuộc khủng hoảng có ảnh hưởng xấu đến vị thế của Hoa Kì trên thế giới, thì cơ hội cho Mĩ dẫn loài người đến một xã hội mở toàn cầu có thể mất đi. Cho nên, thật cấp bách để thiết lập xã hội mở như một mục tiêu của chính sách của Hoa Kì, trong khi Hoa Kì đang giữ vững địa vị siêu cường duy nhất.


Каталог: xahoi
xahoi -> TRƯỜng thpt chuyên lê HỒng phong bộ MÔN: Lịch sử
xahoi -> THẢm trạng buôn bán ngưỜi nguyễn Đức Tuyên Tháng 12 2013 NỘi dung
xahoi -> TRƯỜng thpt chuyên lê HỒng phong bộ MÔN: Lịch sử ĐỀ chính thứC
xahoi -> 1. Nơi nóng nhất, sa mạc Lut Desert (Iran), 71 độ C
xahoi -> HƯỚng dẫn học sinh đỌc hiểu văn bản sử thi trong nhà trưỜng người trình bày: Trần Hải Tú
xahoi -> I. infinitives
xahoi -> Tìm hiểu chi tiết nghệ thuật qua các truyện ngắn Việt Nam hiện đại trong chương trình thpt
xahoi -> Phong cách kí hoàng phủ ngọc tưỜng qua “ai đà ĐẶt tên cho dòng sôNG?” A- mở ĐẦU
xahoi -> Tư liệu văn học Ôn thi hsg môn Ngữ Văn nhậN ĐỊnh về VĂn học I. Văn xuôi
xahoi -> R­êng thpt chuyªn Lª Hång pHong Líp 10 Chuyªn ho¸

tải về 1.75 Mb.

Chia sẻ với bạn bè của bạn:
1   ...   17   18   19   20   21   22   23   24   25




Cơ sở dữ liệu được bảo vệ bởi bản quyền ©hocday.com 2024
được sử dụng cho việc quản lý

    Quê hương