Phát triển các hình thức liên doanh với nước ngoài trong sản xuất hàng xuất khẩu ở Nghệ An MỞ ĐẦU



tải về 1.54 Mb.
trang10/15
Chuyển đổi dữ liệu19.08.2016
Kích1.54 Mb.
#24490
1   ...   7   8   9   10   11   12   13   14   15

Nếu ta lấy xe máy làm giá đơn vị thì ở Việt Nam sản xuất 1 tấn lạc mất 5/30 xe máy = 1/6 xe máy, và ở Thái lan là 4/20 xe máy = 1/5 xe máy như vậy sản xuất lạc ở Việt Nam rẻ một cách tương đối hơn so với Thái lan (khi so sánh với xe máy) [ 22]

Nếu ta lấy lạc làm giá đơn vị thì ở Việt Nam sản xuất 1 chiếc xe máy mất 30/5 tấn lạc = 6 tấn lạc và ở Thái lan mất 20/4 = 5 tấn lạc, sản xuất xe máy ở Việt Nam đắt hơn so với Thái lan (trong thực tế theo giá bằng đô la Mỹ thì xe máy Việt Nam cũng đắt hơn nhiều). Như vậy nếu Việt Nam chuyên môn hóa việc sản xuất lạc để xuất khẩu lạc sang Thái lan và nhập xe máy từ Thái Lan về sẽ có lợi hơn nhiều là cả sản xuất lạc và sản xuất xe máy.

Đây chính là động lực thúc đẩy các quốc gia chuyên môn hóa sản xuất và xuất khẩu các mặt hàng có lợi thế và là một hình thức tham gia vào phân công lao động quốc tế trong xu thế toàn cầu hoá kinh tế hiện nay. Đối với Việt Nam mà đặc biệt là Nghệ An sản xuất, chế biến và xuất khẩu các mặt hàng nông sản hải sản là các mặt hàng có lợi thế phát triển. Nhưng do quá chú trọng vào việc bảo hộ hàng sản xuất trong nước nên thời gian vừa qua Việt Nam đã dùng hàng rào thuế quan và phi thuế quan để hạn chế nhập khẩu ô tô, xe máy, hàng điện tử và một số mặt hàng tiêu dùng có chênh lệch giá cao và tạo điều kiện cho các xí nghiệp LDVNN sản xuất và tiêu thụ trong nước, trong khi chính sách hỗ trợ và ưu đãi cho sản xuất hàng xuất khẩu hầu như chưa đáng kể. Vì vậy, động lực để đầu tư mở rộng sản xuất và phát triển xuất khẩu các mặt hàng nông sản ở nước ta phần nào đó đã bị triệt tiêu. Đó là lý do tại sao cho đến nay hầu như chưa có một nhà đầu tư nước ngoài nào vào đầu tư về lĩnh vực sản xuất hàng nông sản xuất khẩu mà chỉ tập trung chủ yếu vào đầu tư sản xuất hàng thay thế nhập khẩu như ô tô, xe máy, bia...

Vào năm 1998, để tháo gỡ những khó khăn trong việc thanh toán hàng xuất nhập khẩu qua biên giới của một số địa phương nước ta và các doanh nghiệp của Lào, và một số quốc gia lân cận, Chính phủ đã cho phép các doanh nghiệp xuất khẩu các loại hàng nông sản, hải sản được nhập khẩu các loại xe máy, phân bón và một số hàng tiêu dùng cao cấp khác theo phương thức "hàng đổi hàng". Đây chỉ là một giải pháp tình thế nhưng đã làm cho kim ngạch xuất khẩu của một số địa phương này tăng vọt lên. Riêng Nghệ An kim ngạch xuất khẩu tăng vọt từ 28.939.000 USD năm 1997 lên 42.621.000 USD vào năm 1998. Hàng nông sản tăng từ 18.843.000 USD lên 28.081.000 USD, hàng thủy sản tăng từ 25.000.000 USD lên 56.000.000 USD [70]. Tuy phương thức này còn rất nhiều hạn chế như hành vi gian lận thương mại của các doanh nghiệp khi khai khống số lượng và giá trị hàng xuất khẩu qua biên giới, phát sinh các chi phí tiêu cực khi làm thủ tục khai báo Hải quan và xin chỉ tiêu nhập khẩu nhưng nó đã thực sự tạo ra động lực thúc đẩy sản xuất hàng nông sản, hải sản xuất khẩu phát triển. Bộ Thương mại cần kết hợp với các ngành Hải quan, Ngân hàng, Tài chính để xây dựng thành một quy chế thống nhất, ổn định và áp dụng rộng rãi với nhiều mặt hàng xuất nhập khẩu và nhiều thị trường đồng thời quản lý một cách chặt chẽ để hạn chế những tiêu cực xảy ra.

Ngoài ra cần có những chính sách hỗ trợ thích đáng để tạo điều kiện hạ giá thành sản xuất và chế biến hàng nông sản xuất khẩu như hạ lãi suất đến mức thấp nhất trong điều kiện có thể được, đồng thời đơn giản hoá các thủ tục cho nông dân vay vốn để sản xuất hàng nông sản; xây dựng các công trình hạ tầng như mương máng thủy lợi các trạm tưới tiêu, giao thông nông thôn bằng nguồn vốn vay ngân sách hoặc nguồn vốn vay ODA; miễn giảm thuế và các loại phí đối với nông dân (hiện nay một số vùng ở Nghệ An nông dân phàn nàn hàng năm các loại thuế và phí như phí thủy lợi, đê điều, an ninh qua cao chiếm gần 50%giá thành sản phẩm... sản xuất 1 tấn lạc chỉ còn lại 5 tạ); cung cấp giống và hướng dẫn áp dụng các quy trình chăm bón tiên tiến để nâng cao năng suất; trợ giá trong thu mua nông sản, đầu tư xây dựng kho tàng bảo quản, trợ giá vận chuyển đối với các loại nông sản từ các vùng miền núi và các vùng nông thôn xa trung tâm đô thị...

Thứ hai, hoạt động của hệ thống ngân hàng và chính sách tiền tệ và cần phải tạo điều kiện cho việc phát triển và nâng cao hiệu quả hoạt động của các dự án đầu tư trong nước và nước ngoài cho SXHXK.

Hiện nay, khó khăn lớn nhất cho các doanh nghiệp ở Nghệ An là việc huy động các nguồn vốn để tự đầu tư hoặc liên doanh SXHXK, nhất là các doanh nghiệp ngoài quốc doanh. Thứ nhất là lãi suất quá cao; thứ hai là thời hạn vay không đủ dài; thứ ba là các thủ tục thế chấp và bảo lãnh của ngân hàng chưa thuận lợi. Đối với các địa phương mà hệ thống doanh nghiệp sản xuất kinh doanh quy mô và năng lực sản xuất còn hạn chế như Nghệ An, để có thể đẩy mạnh tốc độ hình thành các LD và rút ngắn thời gian đưa dự án vào hoạt động cần có sự hỗ trợ hết sức tích cực của hệ thống ngân hàng. Quan trọng nhất là việc thẩm định tính khả thi của dự án, còn vốn pháp định do các bên đóng góp chỉ cần chiếm 30% tổng mức đầu tư là thành lập được các LD. Số vốn còn lại ngân hàng có thể chấp nhận cho các LD vay thực hiện trên cơ sở thế chấp bằng tài sản hình thành mới nhưng yêu cầu các bên đối tác phải thực hiện đầy đủ các bước theo quy chế của quản lý đầu tư xây dựng.

* Ngoài ra, hoạt động của hệ thống ngân hàng cần được cải tiến để bảo đảm các yêu cầu sau:

- Giảm tối đa chi phí quản lý và rủi ro để đảm bảo mức chênh lệch giữa lãi suất huy động vốn và lãi suất cho vay đầu tư, tạo điều kiện cho các dự án có thể sản xuất kinh doanh có hiệu quả.

- Các thủ tục của ngân hàng cần phải được đơn giản hóa, nhanh gọn và chính xác, giảm các loại lệ phí và thủ tục phí của ngân hàng.

- Ngân hàng cần tham mưu trực tiếp cho các doanh nghiệp khi ký kết các hợp đồng mua bán thiết bị và chuyển giao công nghệ với nước ngoài theo đúng quy định của pháp luật và phù hợp với các điều kiện thanh toán quốc tế, bảo đảm khả năng rủi ro là thấp nhất.

- Ngân hàng phải chịu hoàn toàn trách nhiệm về tính chính xác của tín dụng thư được mở và hợp đồng đã được các bên ký kết. Trong thực tế đã có nhiều trường hợp các điều khoản của tín dụng thư hoàn toàn sai với các điều khoản của hợp đồng mua bán hàng hóa nhưng phía ngân hàng từ chối trách nhiệm hoặc tín dụng thư phải điều chỉnh lại nhiều lần làm cho doanh nghiệp tốn rất nhiều phí và kéo dài thời gian thực hiện.

- Ngân hàng phải là người đầu tiên thay mặt người mua yêu cầu phía người bán thực hiện đầy đủ trách nhiệm của họ theo quy định của hợp đồng và tín dụng thư, đồng thời thực hiện việc kiểm tra một cách chính xác bộ chứng từ giao hàng trước khi thanh toán.

- Hệ thống ngân hàng và các tổ chức tài chính khác trong nước cần có sự phối hợp hoạt động và thống nhất với nhau để giảm bớt những thủ tục phiền hà cho các doanh nghiệp. Trong nhiều trường hợp, dự án đầu tư được Nhà nước ghi chỉ tiêu vốn tín dụng đầu tư, hợp đồng tín dụng đã được ký kết nhưng ngân hàng mở tín dụng thư bắt buộc chủ đầu tư phải thực hiện ký quỹ ít nhất là 50% giá trị của hợp đồng. Thông thường thời gian từ khi mở tín dụng thư đến khi thanh toán hết hợp đồng phải kéo dài hàng năm, làm cho doanh nghiệp phải chịu nhiều lãi suất (trong dự án sản xuất bao bì xuất khẩu ở Nghệ An hợp đồng nhập khẩu thiết bị trị giá 34 tỷ, nguồn vay của cục đầu tư trước đây, mở L/C qua ngân hàng Công thương Nghệ An, toàn bộ lãi suất trong thời gian vay trước để ký quỹ, lệ phí và thủ tục phí mở và điều chỉnh L/C, chênh lệch tỷ giá lúc thanh toán và lúc giải ngân vốn... gần 2 tỷ đồng chiếm gần 6% tổng mức vay).

* Về chính sách tiền tệ.

Xác định rõ quan điểm về chính sách tiền tệ là phải đảm bảo sự ổn định tiền tệ để tạo vốn cho tăng trưởng theo hướng CNH, HĐH phải định ra giới hạn sao cho nó không phải phá hoại cơ sở của tăng trưởng nhanh bền vững.

Giải quyết tốt mối quan hệ lãi suất trong việc giải quyết yêu cầu cặp đôi nhưng vận động ngược chiều nhau là tăng mức huy động vốn và khuyến khích đầu tư. Hướng tới một cơ cấu lãi suất và tín dụng hợp lý. Lãi suất phải được quy định trên cơ sở mức độ rủi ro và tương quan cung - cầu về vốn. Chính sách cho vay phải kịp thời, thời hạn đủ dài, căn cứ vào hiệu quả sử dụng vốn và đảm bảo không phân biệt đối tượng vay vốn là doanh nghiệp LD hay các hình thức doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế khác.

Có phương hướng giải quyết mềm dẻo hơn mối quan hệ giữa lãi suất và tỷ giá hối đoái trên cơ sở trên định hướng rõ ràng và ưu tiên trong tương quan giữa xuất nhập khẩu. Khâu trung tâm là hạn chế mức chênh lệch quá đáng giữa tốc độ lạm phát và mức điều chỉnh tỷ giá hối đoái. Cần luận chứng nguyên tắc can thiệp của Chính phủ vào mức tỷ giá hối đoái, xác định rõ cơ chế thực hiện sự can thiệp đó một cách hiệu quả.

* Về thuế: nguyên tắc chung mà chính sách thuế phải hướng tới là đơn giản hệ thống thuế nhất là thuế xuất nhập khẩu, tạo ra sự rõ ràng và hạ thấp mặt bằng thuế suất. Bằng cách đó, tạo điều kiện cho hoạt động của doanh nghiệp nắm vững các quy định về thuế, giảm phức tạp trong hoạt động thu - nộp thuế. Mở rộng việc thu thuế, hạn chế tình trạng buôn lậu và trốn tránh thuế, tăng phần tích lũy cho doanh nghiệp, trong đó có doanh nghiệp LD.

Trong quá trình thực hiện, cần phải hạn chế tối đa việc tùy tiện định mức thuế, giá tính thuế và áp dụng mã số thuế. Tránh tình trạng vận dụng mỗi nơi mỗi khác gây nhiều tiêu cực và khó khăn cho doanh nghiệp, phức tạp nhất là hiện nay việc áp mã số thuế nhập khẩu cho các phụ tùng linh kiện rời và các loại hóa chất, đây là những vật tư nguyên liệu cần thiết mà các LD phải thường xuyên nhập khẩu để phục vụ cho quá trình sản xuất.

Các cơ quan thuế của địa phương cần phải thực hiện một cách nghiêm túc, nhanh gọn và đầy đủ việc hoàn thuế đầu vào trong thuế giá trị gia tăng và hoàn thuế nhập khẩu thiết bị, vật tư, nguyên liệu cho các doanh nghiệp SXHXK. Trong thực tế hiện nay ở Nghệ An, đối với hệ thống các doanh nghiệp ngoài quốc doanh, nhất là các doanh nghiệp nhỏ, cơ quan thuế chỉ quan tâm đến việc thu thuế đầu ra, việc hoàn thuế đầu vào của các doanh nghiệp cực kỳ khó khăn. Thực tế này hiện nay đang gây cản trở cho việc thực hiện thuế giá trị gia tăng và không khuyến khích các doanh nghiệp tổ chức hạch toán sản xuất kinh doanh một cách lành mạnh.

* Các quy định về thương mại và xuất nhập khẩu:

Các quy định về thương mại phải đi đến hạn chế dần mức độ phân biệt đối xử giữa các thành phần kinh tế, phải thể hiện được các yếu tố cơ bản của mô hình mậu dịch quốc tế mà nước ta theo đuổi lâu dài. Hiện nay, ngoài ý tưởng chiến lược và đẩy mạnh xuất khẩu, mô hình này chưa định hình rõ đường nét cấu trúc. Phải có hướng rõ ràng về thị trường mục tiêu và có đối sách để tiếp cận nhanh đến nó.

Từng bước mở rộng quyền tiếp cận thị trường quốc tế trong các doanh nghiệp. Đổi mới và thực thi giải pháp ưu tiên cho các doanh nghiệp sản xuất hàng xuất khẩu. Mức độ ưu tiên được quy định tùy theo trật tự ưu tiên về cơ cấu. Phải có biện pháp chế trị nghiêm minh trong trường hợp doanh nghiệp không thực hiện cam kết về tỷ lệ xuất khẩu.

Việc duy trì ổn định môi trường thương mại là hết sức cần thiết để phát triển các doanh nghiệp. Sự thay đổi quá nhanh và nhiều các quy chế về xuất nhập khẩu có thể gây ra tác hại lớn hơn là lợi ích thu được. Bởi vậy, trong trường hợp phải thay đổi, cần thông báo công khai trước để cách chuẩn bị phương án thích nghi, tránh cho chúng cũng như nền kinh tế vấp những tổn thất không đáng có.

Khuyến khích việc nắm bắt kịp thời và đầy đủ thông tin về thị trường thế giới. Nhà nước cần có biện pháp hỗ trợ, giúp đỡ các doanh nghiệp trong nước, kể cả LD trong việc thu thập thông tin, tiếp cận thị trường thế giới.



Tạo điều kiện cho các doanh nghiệp chủ động và dễ dàng hơn trong việc sử dụng các quyền đối với đất đai. Giảm dần và đi đến xóa bỏ sự phân biệt về các quyền thực tế đối với đất đai giữa các thành phần. Cụ thể vấn đề liên quan đến giá thuê đất, sử dụng các quyền đối với đất, đến các quy chế xét duyệt để cấp mặt bằng kinh doanh... Điều chỉnh theo hướng hạ thấp một cách thích hợp giá thuê đất đối với các doanh nghiệp sao cho mặt bằng giá không làm giảm sút sức thu hút đầu tư của ta so với các nước khác. Việc cấp đất cho các dự án phải tính đến hàng loạt yếu tố khác bảo đảm cho dự án hoạt động có hiệu quả như quy hoạch đô thị, khả năng cung dịch vụ công nghiệp, dịch vụ sinh hoạt, khả năng đảm bảo nguồn nhân lực... Giải pháp này nhằm tính đến lợi ích lâu dài, hạn chế các rủi ro, tổn thất không đáng có cho doanh nghiệp và cũng là tăng sức hấp dẫn của môi trường đầu tư nói chung.

Tạo điều kiện thuận lợi về cơ sở hạ tầng cho việc phát triển các doanh nghiệp trong nền kinh tế. Tập trung thích đáng vào việc phát triển cơ sở hạ tầng (theo hình thức LD với các đối tác nước ngoài và sử dụng vốn ODA) để cải tạo, nâng cấp và mở rộng hệ thống giao thông, vận tải, thông tin, liên lạc và các cơ sở hạ tầng khác.



3.3.3.3. Đảm bảo ổn định chính trị và tiến bộ xã hội.

Bảo đảm môi trường chính trị ổn định lâu dài, hạn chế đến mức tối đa những rủi ro đầu tư cho sự bất ổn về chính trị và biến động xã hội mới thực sự tạo ra được môi trường đầu tư hấp dẫn đối với các công ty và các tổ chức kinh tế nước ngoài.

Nhưng ổn định không có nghĩa là trì trệ mà phải thường xuyên thực hiện một cách có hiệu quả công cuộc đổi mới, kết hợp chặt chẽ đổi mới kinh tế với đổi mới chính trị, lấy đổi mới kinh tế làm trọng tâm đồng thời từng bước đổi mới chính trị.

Tôn trọng và bảo đảm quyền dân chủ của người lao động nhưng đồng thời bảo đảm mọi hành vi của xã hội phải được quản lý bằng pháp luật và từng bước thực hiện nhà nước pháp quyền. Phát huy cao độ tính năng động sáng tạo và tính tự chủ của mọi doanh nghiệp, mọi tổ chức kinh tế và thành viên kinh tế trong xã hội, nhưng cần phải kiên quyết loại bỏ những hiện tượng được gọi là "kinh doanh cơ chế" hay "nền kinh tế quan hệ" đang làm sai lệch đường lối phát triển nền kinh tế vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước theo định hướng CNXH của Đảng ta.

Xác lập mối quan hệ chặt chẽ giữa Đảng, Nhà nước và nhân dân, đẩy lùi và khắc phục có hiệu quả quan liêu, cửa quyền, tham nhũng. Các ngành, các địa phương thường xuyên phải quán triệt: Đảng ta là Đảng cầm quyền, Đảng lãnh đạo toàn diện nhưng không có nghĩa là các cơ quan Đảng tham gia quá sâu vào công việc quản lý nhà nước của chính quyền, vào những công việc có tính chất chuyên môn, nghiệp vụ của các doanh nghiệp, các dự án đầu tư LD.

Gắn liền thúc đẩy tăng trưởng kinh tế với tiến bộ và công bằng xã hội.



3.3.3.4. Cải tiến và nâng cao chất lượng công tác quản lý nhà nước của các ngành kinh tế ở địa phương đối với các dự án LDVNN

Quá trình vận dụng và tổ chức thực hiện của chính quyền địa phương cũng rất quan trọng trong việc tạo lập môi trường kinh tế cho đầu tư phát triển SXHXK. Ở Nghệ An, trong thời gian vừa qua việc hỗ trợ cấp vốn đầu tư, cấp vốn lưu động và phân bổ các chỉ tiêu nhập khẩu hàng hóa khi được Bộ Thương mại cấp rất ít gắn với việc thúc đẩy SXHXK. Việc cấp vốn đầu tư cho các doanh nghiệp xuất nhập khẩu trong tỉnh đáng lẽ phải nhằm vào mục đích phát triển các cơ sở chế biến, bảo quản hàng xuất khẩu. Nhưng trong thực tế "mạnh ai nấy chạy", doanh nghiệp nào giỏi quan hệ thì được cấp. Từ năm 1996 đến hết năm 1999, trong gần 70 tỷ tiền vốn cấp cho các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh hàng xuất nhập khẩu trên địa bàn (kể cả doanh nghiệp làm ngân sách đảng) thì hầu hết đều được cấp để xây dựng khách sạn, nhà hàng, siêu thị. Việc cấp vốn, hỗ trợ vốn để đầu tư mở rộng sản xuất và chế biến hàng xuất khẩu hầu như không có.

Trong thời gian tới, để tạo ra môi trường đầu tư thuận lợi nhằm phát triển và nâng cao các hình thức LDVNN, các ngành kinh tế và chính quyền địa phương cần quan tâm những mặt sau:

Dựa trên chiến lược đầu tư tổng thể về kinh tế xã hội của cả tỉnh và tiềm năng triển vọng phát triển các mặt hàng xuất khẩu, xây dựng chương trình phát triển các dự án đầu tư sản xuất và chế biến hàng xuất khẩu để làm cơ sở gọi vốn LD.

- Mở rộng hoạt động đối ngoại, xúc tiến mạnh công tác thị trường tạo mọi điều kiện cho các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế tiếp cận với những thị trường có triển vọng qua các chuyến tham quan khảo sát, tham gia hội chợ triển lãm, hội nghị khách hàng.

- Cải tiến và nâng cao chất lượng công tác thẩm định và phê duyệt các dự án đầu tư, đơn giản thủ tục và rút ngắn thời gian thẩm định phê duyệt. Ủy ban nhân dân tỉnh là người phê duyệt cuối cùng nhưng đồng thời là người giám sát quá trình thực hiện của các ngành, các cấp để tháo gỡ khó khăn kịp thời cho doanh nghiệp. Bỏ bớt những thủ tục hành chính rườm rà cứng nhắc, chuyển đi chuyển lại nhiều lần giữa các cơ quan chức năng để giải trình và xin ý kiến.

Để nâng cao chất lượng công tác thẩm định, cần thiết phải đào tạo và lựa chọn những công chức có đầy đủ khả năng chuyên môn, trình độ nghiệp vụ và hiểu biết về pháp luật tham gia vào công tác này. Nhưng quan trọng nhất là phải có những quy định cụ thể trách nhiệm về tài sản và hình sự đối với từng ngành, từng người khi thẩm định các dự án hoặc các gói thầu nhất là các gói thầu mua sắm thiết bị và chuyển giao công nghệ, đồng thời cũng phải đưa ra những chế tài để thực hiện nó. Khắc phục tình trạng "trách nhiệm tập thể hiện nay". Với một dự án có nhiều cơ quan, nhiều ngành xét duyệt, thẩm định, nhưng khi dự án đổ bể không có ai chịu trách nhiệm.

Lựa chọn hoặc định hướng cho các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế có đủ năng lực và kinh nghiệm về tổ chức sản xuất kinh doanh các ngành hàng mà các dự án LD triển khai thực hiện.

Tạo điều kiện giúp các doanh nghiệp đào tạo và lựa chọn những cán bộ chủ chốt và những công chức đủ khả năng tham gia vào Hội đồng quản trị và Ban giám đốc tại các doanh nghiệp LD.

- Giám sát, kiểm tra việc chấp hành pháp luật của các doanh nghiệp LD.

- Nâng cao chất lượng công tác giám định giá trị thiết bị và chi phí
xây lắp.

- Kiểm tra và đốc thúc việc thực hiện các nghĩa vụ đối với ngân sách nhà nước và việc chấp hành các quy định về bảo vệ môi trường của liên doanh.

- Kiểm tra quyết toán tài chính hàng năm và kiểm tra mức độ bảo toàn vốn theo định kỳ (khoảng 3 năm một lần) đối với các doanh nghiệp có sử dụng vốn cấp hoặc vốn tín dụng đầu tư của nhà nước.

- Khuyến khích vai trò của công tác kiểm toán trong các doanh nghiệp LD để từng bước thực hiện công khai tài chính, công khai lỗ lãi hàng năm, phát huy hiệu lực của chính sách ưu đãi về thuế thu nhập trong các LD sản xuất hàng xuất khẩu, tạo môi trường cạnh tranh lành mạnh và tạo điều kiện cho doanh nghiệp LD tham gia vào thị trường chứng khoán.

- Kiểm tra việc thực hiện các chế độ đối với người lao động, thời gian lao động, tiền lương tối thiểu, chế độ bảo hiểm và an toàn lao động...

Áp dụng các biện pháp hỗ trợ khuyến khích xuất khẩu, ưu đãi đầu tư, kiểm tra việc thực hiện tỷ lệ sản phẩm xuất khẩu theo đăng ký của LD trong từng giai đoạn. Áp dụng các biện pháp hành chính khi doanh nghiệp LD vi phạm.

Quản lý về môi trường và quy hoạch xây dựng

3.3.4. Phát triển lực lượng sản xuất và nâng cao hiệu quả trong các doanh nghiệp SXHXK ở Nghệ An

Với đặc thù của một tỉnh nông nghiệp nghèo như tỉnh Nghệ An, lực lượng sản xuất kém phát triển và trình độ thấp, đội ngũ doanh nghiệp SXHXK nhỏ bé và kém năng lực. Vì vậy, để có khả năng thu hút các hình thức LDVNN cho sản xuất hàng hóa nói chung và hàng xuất khẩu nói riêng, những giải pháp như ưu đãi về thuế, giảm tiền thuê đất, hỗ trợ xây dựng hạ tầng, hết sức cần thiết nhưng chưa đủ. Để tạo ra những "cơ sở bên trong" có khả năng "lâu dài" thu hút các hình thức LDVNN vào SXHXK, đồng thời để nâng cao "vị thế" của đối tác Việt Nam trong các LD, làm cho các dự án LD thực sự mang lại hiệu quả cho địa phương, một trong những giải pháp hết sức quan trọng là nâng cao trình độ của lực lượng sản xuất, nâng cao năng lực của các doanh nghiệp và cơ sở SXHXK trong tỉnh.

Các giải pháp này có những điểm mới và khác biệt so với các quan điểm truyền thống trước đây. Có thể giải trình sự khác biệt và đổi mới như bảng 3.2.

Bảng 3.2: So sánh các giải pháp tạo lập môi trường đầu tư [90]

Giải pháp

Chỉ tiêu

so sánh

Giải pháp tạo môi trường đầu tư
ở các vùng khó khăn
theo truyền thống


Giải pháp tạo môi trường đầu tư
ở các vùng khó khăn
theo quan điểm mới


1. Nhân tố khó khăn

Sự kém hấp dẫn đầu tư do bất lợi về chi phí sản xuất và chính sách ưu đãi chưa đúng mức

Sự kém hấp dẫn đầu tư do bất lợi về chi phí nhưng chủ yếu là do sự " kém năng lực" của hệ thống doanh nghiệp địa phương trong khả năng triển khai các dự án

2. Đối tượng tác động

Các nhà đầu tư nước ngoài

Các doanh nghiệp " bên trong"

3. Cách thức tác động

Nâng đỡ các yếu tố đầu vào để bù đắp những bất lợi về chi phí sản xuất để tạo ra sức hấp dẫn đầu tư bên ngoài

Tăng cường năng lực phát triển và khả năng nội sinh bên trong từ đó nảy sinh nhu cầu mở rộng và phát triển ra bên ngoài

4. Công cụ tác động

- Ưu đãi về thuế.

- Hỗ trợ xây dựng hạ tầng

- Cân đối ngoại tệ nhập khẩu


- Đổi mới và sắp xếp lại các doanh nghiệp

- Đa dạng hóa các hình thức huy động vốn

- Hỗ trợ về tài chính có lựa chọn.

- Đào tạo nhân sự, nâng cao trình độ của lực lượng sản xuất



5. Thời hạn tác động

Tạm thời, ngắn hạn

- Ổn định và lâu dài

6. Kết quả tác động

Tăng trưởng nông, thiếu cân đối, thiếu bền vững và bị động

Tăng trưởng ổn định, bền vững, có khả năng điều chỉnh nên chủ động và cân đối.

Một số giải pháp cụ thể như sau:

Một là, sắp xếp lại các doanh nghiệp Nhà nước theo hướng giảm số lượng, tăng năng lực sản xuất, đa dạng hóa các hình thức sở hữu, cụ thể như sau:

Một số doanh nghiệp nhà nước có cơ sở vật chất kỹ thuật và dây chuyền thiết bị tương đối hiện đại đã được Nhà nước đầu tư vốn bằng hình thức cấp hoặc cho vay ưu đãi dài hạn, thời gian khấu hao còn ngắn, giá trị còn lại tương đối lớn, khả năng bán cổ phần chỉ thu lại được một tỷ lệ nhỏ vốn đầu tư, nhưng sản xuất kinh doanh kém hiệu quả, thiếu vốn lưu động hoặc thiếu thị trường. Cần thiết sắp xếp lại bộ máy quản lý, bổ nhiệm ngay những người có năng lực, dám chịu trách nhiệm vào các vị trí chủ chốt, quan trọng nhất là giám đốc công ty. Cho phép giám đốc công ty được toàn quyền quyết định các vấn đề về tổ chức kinh doanh của công ty nhưng đồng thời phải chịu hoàn toàn trách nhiệm trước Nhà nước và trước pháp luật về việc thất thoát tài sản và lỗ lãi của công ty. Nếu sản phẩm vẫn có đầu ra ổn định nhưng thiếu vốn sản xuất cần thiết bổ sung vốn để đầu tư mở rộng sản xuất và hỗ trợ vốn lưu động cần thiết cho công ty.

Nếu doanh nghiệp có nhu cầu mở rộng sản xuất nhưng thiếu mẫu mã sản phẩm được ưa chuộng hoặc thiếu thị trường tiêu thụ có thể xúc tiến việc tìm các đối tác LD. Trong các hình thức LD truyền thống của ta hiện nay, thường bên Việt Nam chỉ góp vốn bằng đất đai, nhà xưởng, phía nước ngoài góp vốn bằng thiết bị công nghệ và sản phẩm chủ yếu tiêu thụ trên thị trường nội địa, tỷ lệ góp vốn của bên Việt Nam chỉ chiếm khoảng 30%. Nhưng trong trường hợp này, cần phải có quan điểm hoàn toàn mới, phía Việt Nam góp vốn bằng thiết bị các tài sản cố định khác, tỷ lệ góp vốn có thể trên 70%. Phía đối tác nước ngoài góp vốn bằng nhãn hiệu, quy cách hàng hóa và thị trường tiêu thụ và cần thiết có thể là kinh nghiệm quản lý và tổ chức sản xuất kinh doanh. Có như vậy mới có thể khai thác được hết năng lực sản xuất hiện có và thúc đẩy SXHXK phát triển được.

Các doanh nghiệp Nhà nước còn lại có thể chia làm hai nhóm:



Nhóm 1: Các doanh nghiệp nhỏ nhưng sản xuất kinh doanh có hiệu quả, tài chính còn lành mạnh, Nhà nước địa phương chỉ nên định hướng và tạo môi trường thuận lợi, còn hình thức đầu tư mở rộng sản xuất như thế nào là do doanh nghiệp tự quyết định: Thực hiện liên doanh liên kết hay cổ phần hóa hoặc tự vay vốn để đầu tư làm sao bảo đảm đúng pháp luật và có hiệu quả là được. Tránh tình trạng thực hiện cổ phần hóa hay liên doanh liên kết theo phong trào mang nặng tính "hình thức" nhưng hiệu quả lại giảm sút, quản lý thiếu tập trung. LD sản xuất máy biến áp ABB là một ví dụ điển hình.

Nhóm2: Các doanh nghiệp làm ăn kém hiệu quả, thua lỗ kéo dài, công nợ dây dưa, mất khả năng thanh toán, người lao động không có việc làm.

Đối với các doanh nghiệp này việc đầu tiên và cần thiết nhất là kiểm toán một cách chính xác giá trị tài sản còn lại của doanh nghiệp, cân đối công nợ và khả năng thanh toán. Công khai toàn bộ tình trạng tài chính của doanh nghiệp cũng như toàn bộ tài sản và bộ máy nhân lực.

Tổ chức bán khoán doanh nghiệp cho bất cứ một công ty hay tổ chức kinh tế nào đủ khả năng tổ chức lại sản xuất, trả nợ và bố trí việc lại cho người lao động. Đối tượng mua có thể là doanh nghiệp nhà nước hoặc doanh nghiệp tư nhân trong nước hay nước ngoài miễn là kinh doanh đúng luật pháp và đúng quy hoạch của địa phương.

Nếu phương thức bán khoán doanh nghiệp không thực hiện được thì kiên quyết tuyên bố phá sản doanh nghiệp, bán đấu giá tài sản và xử lý theo luật phá sản. Không nên để tình trạng thua lỗ kéo dài, gây thiệt hại cho Nhà nước càng ngày càng lớn.



Hai là, tạo điều kiện cho các doanh nghiệp ngoài quốc doanh phát triển.

Về cả chính sách kinh tế vĩ mô cũng như quá trình vận dụng và tổ chức thực hiện của các ngành và địa phương cần phải thiết lập được một "sân chơi phẳng" cho các doanh nghiệp thuộc tất cả các thành phần kinh tế sản xuất kinh doanh, tạo ra sự bình đẳng và cạnh tranh lành mạnh. xóa bỏ sự phân biệt giữa quốc doanh và ngoài quốc doanh.

Hiện nay ở Nghệ An tâm lý giữa trong quốc doanh và ngoài quốc doanh còn rất nặng nề. Vì vậy chính quyền địa phương cần có những giải pháp và bước đi thích hợp mới có thể khuyến khích phát triển và nâng cao hiệu quả hoạt động của các doanh nghiệp ngoài quốc doanh nhằm phát huy tối đa các nguồn lực trong xã hội để thúc đẩy sản xuất hàng hóa nói chung và SXHXK phát triển.

+ Tuyên truyền, giáo dục cho mọi người, mọi tổ chức kinh tế xã hội nhất là lực lượng lao động trẻ nhận thức rằng: kinh tế tư nhân hay các hợp tác xã cũng là một yếu tố cấu thành lực lượng sản xuất của xã hội. Trước mắt cũng như lâu dài, nhà nước không có và sẽ không có bất cứ một sự phân biệt đối xử nào giữa các thành phần kinh tế. Sự tồn tại và phát triển của nó hoàn toàn theo đúng quy luật của thị trường, của sự tiến bộ xã hội và nền văn minh nhân loại.

+ Tạo mọi điều kiện thuận lợi cho việc thành lập các doanh nghiệp tư nhân, doanh nghiệp cổ phần và công ty trách nhiệm hữu hạn, kể cả việc hỗ trợ một phần chi phí chuẩn bị đầu tư cho việc triển khai các dự án sản xuất kinh doanh mà các công ty tư nhân tiến hành.

+ Việc phân bổ các chỉ tiêu nhập khẩu, quota xuất khẩu không được phân biệt giữa các loại hình công ty mà phải căn cứ vào ngành nghề kinh doanh và hiệu quả sản xuất.

+ Tâm lý nặng nề nhất của người lao động hiện nay đối với doanh nghiệp tư nhân là vấn đề bảo hiểm xã hội. Vì vậy một mặt Chính quyền địa phương cần yêu cầu các doanh nghiệp tư nhân mua bảo hiểm xã hội cho người lao động theo luật định, mặt khác cần hỗ trợ và khuyến khích doanh nghiệp tư nhân mua đủ bảo hiểm cho người lao động được khấu trừ một tỷ lệ nhất định trong thuế thu nhập doanh nghiệp.

+ Tạo mọi điều kiện cho doanh nghiệp tư nhân trong việc thuê đất, mua quyền sử dụng đất, vay vốn tín dụng ưu đãi và dài hạn để phát triển mở rộng sản xuất. Cụ thể là ngoài phần vốn tự có ban đầu khoảng 30% số vốn cần đầu tư, số còn lại doanh nghiệp tư nhân có được sử dụng tài sản hình thành mới để thế chấp, cơ sở để giảm rủi ro tổn thất ở đây chính là chất lượng công tác thẩm định tính khả thi của dự án và quy trình thanh toán chặt chẽ theo thực tế nghiệm thu khối lượng và chất lượng công trình (hiện nay ở Nghệ an hầu như chưa có doanh nghiệp tư nhân nào được vay nguồn vốn này).

+ Hỗ trợ các doanh nghiệp tư nhân trong việc đào tạo công nhân và tuyển dụng lao động.

+ Hỗ trợ trong các dịch vụ cung cấp thông tin kinh tế và thị trường, tạo điều kiện cho các doanh nghiệp tư nhân tiếp cận với thị trường xuất khẩu.

* Đảng bộ và Chính quyền địa phương cần có chính sách thu hút nhân tài, các nhà khoa học, các nhà quản lý, các chuyên gia về kinh tế và kỹ thuật, các kỹ sư và công nhân bậc cao. Đặc biệt chú trọng đến đội ngũ các giám đốc các doanh nghiệp, lực lượng quan trọng hàng đầu trong việc phát triển và nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp (Hiện nay một số địa phương như Đà Nẵng, Bình Dương đã thực hiện chính sách đãi ngộ đặc biệt đối với những cán bộ là tiến sỹ, thạc sỹ hoặc các kỹ sư và chuyên gia cao cấp). Tăng cường công tác đào tạo và quy hoạch cán bộ, đào tạo công nhân lành nghề, đào tạo nghiệp vụ chuyên môn.


Каталог: file -> downloadfile8
downloadfile8 -> Bài Luận Đề tài: Mối lien hệ giữa dân số và môi trường MỤc lụC
downloadfile8 -> Bài 1: ( 5 điểm) A=24,4872 1\ Tính a = 2\ Tính giá trị của biểu thức: B=7,708220309 B= tại X =; z = 4 Bài 2
downloadfile8 -> Đề tài: Kỹ thuật truyền số liệu trong mạng máy tính cục bộ Giảng viên hướng dẫn: Sinh viên thực hiện
downloadfile8 -> CHƯƠng I: TỔng quan về audio- video số TỔng quan về audio số
downloadfile8 -> Lời ngỏ của giáo sư Nguyễn Lân Dũng Cùng bạn đọc
downloadfile8 -> NGƯỜi coi thi đ ĐỀ chính thứC
downloadfile8 -> Đề Tài Liên hệ thực tiễn việc áp dụng các học thuyết Phương Đông ở doanh nghiệp Toyota tại Việt Nam hiện nay
downloadfile8 -> Luận văn TÌnh hình thưƠng mại giữa việt nam và CÁc nưỚc khối nam mỹ
downloadfile8 -> Đề tài Thái độ của người hâm mộ sau khi kết thúc giải bóng đá vô địch quốc gia Việt Nam năm 2012
downloadfile8 -> SỞ gd&Đt quảng ngãi kỳ thi chọn học sinh giỏi cấp trưỜng trưỜng thpt chuyên năm họC 2011-2012

tải về 1.54 Mb.

Chia sẻ với bạn bè của bạn:
1   ...   7   8   9   10   11   12   13   14   15




Cơ sở dữ liệu được bảo vệ bởi bản quyền ©hocday.com 2024
được sử dụng cho việc quản lý

    Quê hương