Phát triển các hình thức liên doanh với nước ngoài trong sản xuất hàng xuất khẩu ở Nghệ An MỞ ĐẦU



tải về 1.54 Mb.
trang1/15
Chuyển đổi dữ liệu19.08.2016
Kích1.54 Mb.
#24490
  1   2   3   4   5   6   7   8   9   ...   15



Luận văn

Phát triển các hình thức liên doanh với nước ngoài trong sản xuất hàng xuất khẩu ở Nghệ An MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài

Nghệ An là một tỉnh nông nghiệp miền Trung không có nhiều những tài nguyên khoáng sản lớn như dầu mỏ hoặc các loại quặng kim loại cần thiết, Nghệ An cũng không phải là một trung tâm thương mại hay công nghiệp, nhưng điều kiện tự nhiên và lao động thuận lợi để phát triển các mặt hàng nông sản, hải sản, vật liệu xây dựng và các ngành như dệt may, giày da, tiểu thủ công nghiệp phục vụ xuất khẩu. Trong những năm vừa qua do những khó khăn về vốn đầu tư, công nghệ và những hạn chế về công tác thị trường, về trình độ kỹ thuật và quản lý chỉ đạo sản xuất kinh doanh nên sản xuất hàng hóa nói chung và SXHXK nói riêng kém phát triển, kim ngạch xuất khẩu bình quân trên đầu người hàng năm thấp hơn rất nhiều so với bình quân chung của cả nước

Với quan điểm đổi mới của Đảng và từ khi có Luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam được ban hành vào tháng 12/1987, các hình thức đầu tư và LDVNN tại Nghệ An đã được quan tâm phát triển và có những đóng góp nhất định cho nền kinh tế và cho SXHXK, tạo ra nhiều việc làm cho người lao động và sản xuất được một khối lượng hàng hóa đáng kể, góp phần thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu và tăng nhanh tốc độ tăng trưởng của các ngành kinh tế nhất là sản xuất công nghiệp và xuất khẩu.

Tuy nhiên, bên cạnh những thành tích đạt được, quá trình phát triển các hình thức LDVNN ở Nghệ An vẫn còn rất nhiều vấn đề nổi cộm: Đó là tốc độ tăng trưởng vốn đầu tư nước ngoài vẫn còn rất chậm, số lượng dự án ít nhưng phần lớn gặp khó khăn thua lỗ nhiều, thậm chí có những dự án phải ngừng sản xuất. Các hình thức LDVNN mới chỉ chú trọng đến vấn đề sản xuất hàng thay thế nhập khẩu, tiêu thụ nội địa hoặc khai thác các nguồn tài nguyên sẵn có như gỗ và các loại khoáng sản khác. Các dự án LDVNN đầu tư vào lĩnh vực sản xuất và chế biến hàng nông sản, hải sản cho xuất khẩu hoặc để phát triển các ngành công nghiệp dệt may là những ngành mà Nghệ An có lợi thế và tiềm năng phát triển hầu như chưa có. Tình trạng này không phải chỉ riêng ở Nghệ An, mà cả ở những địa phương khác trong cả nước cũng tương tự, nhất là các địa phương thuộc vùng nông nghiệp khó khăn như khu vực khu bốn cũ, Tây Nguyên, các tỉnh miền núi vùng Tây Bắc, đồng bằng sông Cửu Long. Nguyên nhân của nó không những ở những điều kiện khó khăn khách quan mà còn do quá trình vận dụng, tổ chức thực hiện của các ngành, các địa phương, một phần khác là ở hệ thống chính sách kinh tế vĩ mô, nhất là chính sách ưu đãi và thu hút đầu tư vào các vùng kinh tế khó khăn và các lĩnh vực sản xuất và chế biến hàng nông sản xuất khẩu..

Vì vậy, tác giả chọn đề tài nghiên cứu "Phát triển các hình thức liên doanh với nước ngoài trong sản xuất hàng xuất khẩu ở Nghệ An" nhằm đưa ra được những quan điểm giải pháp về quá trình tổ chức thực hiện và những kiến nghị về chính sách kinh tế vĩ mô để thúc đẩy phát triển các hình thức LDVNN trong SXHXK ở Nghệ An, đồng thời có thể vận dụng cho các địa phương có điều kiện tương tự.

2. Tình hình nghiên cứu đề tài

Hình thức LD đã có mầm mống từ giai đoạn đầu của phương thức sản xuất TBCN và hiện nay đã trở thành phổ biến trong đời sống kinh tế của các nước. Những mãi trong những thập niên gần đây nó mới được các nhà kinh tế học quan tâm nghiên cứu. Đó là các nghiên cứu của P.A.Samelson và W.D. Nordhaus trong cuốn "Kinh tế học" xuất bản lần đầu năm 1948 tại Mỹ, của Raymond Werlls trong lý thuyết "Chu kỳ sản phẩm", của Dominik Salvatore trong cuốn "Kinh tế học quốc tế" và của các nhà kinh tế khác xuất bản trong những năm gần đây như nghiên cứu của Xavier Ritchet, nhà kinh tế Pháp, trong cuốn "Kinh tế doanh nghiệp" xuất bản bằng tiếng Việt do trung tâm Pháp - Việt về đào tạo quản lý dịch năm 1997, của J.H. Adam trong cuốn "Từ điển tiếng Anh kinh doanh" (Longman Consise Dictionany of Business English - 1992), của Tổ chức hợp tác và phát triển của Liên hiệp quốc (OEDC) trong cuốn "Chính sách cạnh tranh và liên doanh" (Competition policy and Joint Venture) xuất bản năm 1986... Các nghiên cứu trên đã đưa ra khái niệm về LD, lý giải cơ sở, vai trò và những "bất lợi" về LD, song đều viết chung với các vấn đề kinh tế khác mà chưa có công trình nào chuyên nghiên cứu về LDVNN trong SXHXK.

Ở nước ta, vấn đề liên doanh được Đảng và Nhà nước quan tâm từ giữa những năm 80 và đã đưa vào Luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam tháng 12 năm 1987. Đã có những nghiên cứu về vấn đề này đăng trên một số tạp chí và sách chuyên khảo. Đó là cuốn "Thành lập và quản lý công ty, xí nghiệp liên doanh với nước ngoài" do Giáo sư, Tiến sĩ Nguyễn Đình Phan chủ biên, "Những giải pháp chủ yếu nhằm hoàn thiện việc thành lập các xí nghiệp liên doanh với nước ngoài trong công nghiệp Việt Nam", luận án phó tiến sĩ của nghiên cứu sinh Nguyễn Thường Lạng, "Liên doanh với nước ngoài và đầu tư tại Việt Nam" của Hà Thị Ngọc Oanh, Nhà xuất bản Giáo dục, Hà Nội - 1998...

Các nghiên cứu và sách báo trên đã quan tâm đến vấn đề LDVNN trên tất cả mọi lĩnh vực kinh tế. Việc nghiên cứu vấn đề phát triển các hình thức LDVNN trong SXHXK vẫn hoàn toàn mới mẻ.



3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của luận án

- Mục đích của luận án:

Trên cơ sở hệ thống và khái quát một số vấn đề lý luận và thực tiễn về các hình thức LD, luận án đề xuất những quan điểm và giải pháp chủ yếu nhằm thúc đẩy việc phát triển các hình thức LDVNN trong SXHXK ở tỉnh Nghệ An trong thời gian tới.



- Nhiệm vụ của luận án:

+ Phân tích và làm sáng tỏ cơ sở lý luận của việc phát triển các hình thức LDVNN, chỉ rõ xu hướng phát triển và vai trò của nó trong SXHXK.

+ Khái quát kinh nghiệm của một số nước trong khu vực để có thể nghiên cứu, vận dụng vào điều kiện của địa phương.

+ Phân tích và đánh giá thực trạng phát triển các LDVNN trong SXHXK ở Nghệ An, tìm ra những mâu thuẫn, hạn chế và nguyên nhân của nó.

+ Xác định các quan điểm và đề xuất các giải pháp chủ yếu nhằm thúc đẩy sự phát triển các LDVNN trong SXHXK ở Nghệ An thời gian tới.

4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận án

Đối tượng nghiên cứu của luận án: Nghiên cứu những nhân tố tác động đến quá trình hình thành và phát triển các hình thức LDVNN trong SXHXK như chính sách tạo lập môi trường đầu tư, quy trình thành lập, thẩm định và tổ chức thực hiện, những điều kiện thuận lợi và những khó khăn khách quan, nguyên nhân chủ quan, quan điểm và giải pháp khắc phục..

Phạm vi nghiên cứu về không gian và thời gian: Luận án nghiên cứu chủ yếu trong phạm vi tỉnh Nghệ An từ khi Luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam được ban hành (tháng 12/1987) đặc biệt là từ Đại hội đại biểu Đảng toàn quốc lần thứ VII (1991) đến nay.

5. Phương pháp nghiên cứu

Luận án sử dụng phương pháp duy vật biện chứng và duy vật lịch sử làm phương pháp luận và các phương pháp có tính chất chuyên ngành như điều tra, thống kê, so sánh, khảo sát, khái quát, phân tích, tổng hợp và suy luận...



6. Đóng góp mới của luận án

- Trên cơ sở khái quát những cơ sở lý luận và thực tiễn về hình thức LD, luận án đưa ra khái niệm mới có tính chất tổng hợp và phù hợp với xu thế hiện nay, đồng thời chọn lọc một số kinh nghiệm có thể vận dụng cho điều kiện Việt Nam hiện nay như kinh nghiệm đa dạng hóa các hình thức LD, kinh nghiệm phát triển các doanh nghiệp liên doanh SXHXK vừa và nhỏ ở Hàn Quốc và Malaixia, kinh nghiệm về lựa chọn cơ hội LD, đánh giá hoạt động của LD và cách thức giải quyết những mối bất đồng trong LD.

- Qua việc khảo sát tiềm năng phát triển SXHXK và thực trạng thành lập, hoạt động của các dự án LDVNN, luận án đã phân tích những mâu thuẫn và hạn chế cần khắc phục, đặc biệt là mâu thuẫn giữa yêu cầu phát triển và cơ cấu đầu tư, mâu thuẫn giữa trình độ của công nghệ sản xuất và chế biến hàng xuất khẩu hiện nay với thực trạng kém phát triển của các doanh nghiệp SXHXK ở Nghệ An, mâu thuẫn giữa yêu cầu về khả năng cạnh tranh của hàng xuất khẩu với giá thành sản phẩm trong các LD hiện nay ở Nghệ An.

- Cuối cùng luận án đưa ra được những quan điểm và giải pháp phát triển đáp ứng với yêu cầu thực tiễn ở Nghệ An và phù hợp với điều kiện sản xuất và chế biến hàng nông sản, hải sản xuất khẩu hiện nay ở trên phạm vi cả nước. Đó là các giải pháp tạo ra môi trường và động lực thúc đẩy đầu tư cho sản xuất hàng nông sản hải sản xuất khẩu trên cơ sở khai thác tối đa các tiềm năng và lợi thế so sánh của địa phương và của đất nước trong quá trình toàn cầu hóa thương mại hiện nay. Giải pháp phát triển các doanh nghiệp sản xuất hàng xuất khẩu có hiệu quả của địa phương từ đó làm nảy sinh ra các nhu cầu mở rộng đầu tư và LD với nước ngoài...



7. Kết cấu của luận án

Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục, luận án được chia thành 3 chương, 10 tiết.


Chương 1

MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN
VỀ LIÊN DOANH VỚI NƯỚC NGOÀI VÀ VAI TRÒ CỦA NÓ
TRONG SẢN XUẤT HÀNG XUẤT KHẨU


1.1. NGUỒN GỐC SỰ RA ĐỜI, KHÁI NIỆM VÀ ĐẶC TRƯNG VỀ HÌNH THỨC LIÊN DOANH

1.1.1. Nguồn gốc sự ra đời của hình thức LD

Những mầm mống đầu tiên của LD có từ giai đoạn đầu của phương thức sản xuất TBCN. Trong quá trình phân tích sự vận động của phương thức sản xuất TBCN, C.Mác tuy không nêu ra phạm trù về LD, không luận giải trực tiếp về nó nhưng đã cung cấp phương pháp luận cơ bản về con đường, về tính tất yếu và vai trò của hình thức quan hệ này. C.Mác cho rằng, trong các phương thức sản xuất trước CNTB do sự phát triển còn thấp kém, nên các đơn vị kinh tế có thể tồn tại hàng thế kỷ mà không hề có sự thay đổi tính chất và phạm vi, không vượt ra khỏi giới hạn của xóm làng hay cái chợ lân cận dành cho thợ thủ công nông thôn và những tiểu chủ. Vì vậy, nhu cầu tập trung vốn giữa các chủ xưởng để mở rộng quy mô sản xuất chưa xuất hiện.

Sự ra đời và phát triển của phương thức sản xuất TBCN làm cho sản xuất vượt ra khỏi giới hạn của làng xã, của chợ địa phương, của từng vùng rồi vượt ra ngoài biên giới quốc gia hòa nhập vào nền kinh tế thế giới. Sự phát triển đó là kết quả tất yếu của quá trình phát triển lực lượng sản xuất và phân công lao động xã hội, được tác động trực tiếp bởi việc theo đuổi sản xuất giá trị thặng dư trong các xí nghiệp tư bản. C.Mác viết:

Ngay trong buổi đầu của nền sản xuất TBCN, một số ngành sản xuất cũng đã đòi hỏi một số tối thiểu mà lúc bấy giờ từng cá nhân riêng rẽ chưa có được. Tình hình đó dẫn đến một mặt Nhà nước phải trợ cấp cho những tư nhân, mặt khác thành lập những hội nắm giữ độc quyền do luật pháp chưa thừa nhận để kinh doanh trong những ngành công nghiệp và thương mại nhất định" [46, tr. 450].

Ở đây, C. Mác luận giải con đường hình thành công ty cổ phần. Nhưng thực tế có những công ty cổ phần lại là doanh nghiệp LD bởi vì con đường của công ty này chỉ bao gồm một số các chủ tư bản, các chủ này không chỉ góp vốn mà còn cùng nhau tổ chức hoạt động kinh doanh ở công ty.

Phân tích quá trình sản xuất giá trị thặng dư, C. Mác cho rằng đó là động lực mạnh mẽ trong quá trình hoạt động kinh doanh của tất cả các nhà tư bản. Do theo đuổi sản xuất ngày càng nhiều giá trị thặng dư, các nhà tư bản buộc phải mở rộng quy mô sản xuất, nâng cao sức sản xuất của lao động. Trong các phương pháp để mở rộng quy mô sản xuất mà các nhà tư bản đã áp dụng là tích lũy tư bản. Nhưng đây là "phương pháp hết sức chậm chạp" không thể thỏa mãn khát vọng của các nhà tư bản. Hơn nữa các nhà tư bản lại phải đối mặt với cạnh tranh gay gắt trên thị trường, cạnh tranh giữa các nhà tư bản với nhau. Bởi vậy quá trình tập trung tư bản đã diễn ra [46, tr. 884].

Tập trung tư bản là quá trình làm tăng quy mô của tư bản cá biệt bằng cách sát nhập các tư bản cá biệt nhỏ thành tư bản mới. So với tích lũy tư bản, thì đây là phương pháp tăng quy mô của xí nghiệp tư bản nhanh hơn nhiều, do đó mức độ bóc lột giá trị thặng dư cũng lớn hơn nhiều. Có hai con đường để tập trung tư bản: 1) Nhà tư bản lớn dùng sức mạnh kinh tế thôn tính và thu hút tư bản của các nhà tư bản nhỏ theo nguyên tắc "cá lớn nuốt cá bé"; 2) Các nhà tư bản " hợp tác" với nhau thông qua hợp nhất xí nghiệp của mình để thành lập xí nghiệp mới. Trong thực tế không phải khi nào tập trung tư bản cũng được thực hiện bằng con đường thứ nhất. Sự thành lập xí nghiệp mới bằng con đường thứ hai tất yếu sẽ là công ty cổ phần hay công ty LD. Và như vậy, cũng như sự ra đời của công ty cổ phần, sự ra đời của công ty LD là kết quả của
một quá trình kinh tế khách quan do tác động bởi các quy luật kinh tế thị trường được thúc đẩy bởi việc theo đuổi sản xuất giá trị thặng dư mà nguyên nhân sâu xa là do sự phát triển của lực lượng sản xuất đến một trình độ nhất định quy định.

Theo C.Mác, quá trình tập trung tư bản dù bằng phương pháp nào cũng vẫn chỉ là những "thay đổi về lượng của các bộ phận gộp thành tư bản xã


hội" [46, tr. 884]. Song tuy không làm biến đổi tổng lượng tư bản xã hội nhưng tập trung lại rất cần thiết đối với việc kinh doanh của các nhà tư bản. Nó "bổ sung cho công việc tích lũy, nó cho phép các nhà tư bản công nghiệp mở rộng quy mô kinh doanh của mình" [46, tr. 884].

C.Mác còn lý giải: song song với quá trình tập trung tư bản, thì đồng thời hình thức hiệp tác của quá trình lao động với quy mô ngày càng lớn, việc áp dụng khoa học một cách có ý thức về mặt kỹ thuật, việc khai thác đất đai một cách có kế hoạch, việc biến tư liệu lao động thành những tư liệu lao động chỉ sử dụng được một cách tập thể, việc thu hút tất cả các dân tộc vào mạng lưới thị trường thế giới, và đi đôi với cái đó là tính chất quốc tế của chế độ TBCN cũng phát triển [46, tr.1059]. Điều này gợi ý phương pháp tiếp cận trong việc xác định cơ sở của sự hình thành các L D quốc tế hiện nay.

V.I.Lênin đã vận dụng quan điểm của C.Mác vào phân tích giai đoạn độc quyền của CNTB. Trong phân tích giai đoạn độc quyền của CNTB, tuy không nói về LD, nhưng ta có thể tìm thấy tư tưởng về LD thông qua việc V.I.Lênin phân tích nguyên nhân hình thành và bản chất của CNTB độc quyền.

Theo V.I.Lênin, một trong những nguyên nhân làm ra đời CNTB độc quyền là tác động bởi quá trình tập trung tư bản. Tổ chức độc quyền là liên minh giữa các xí nghiệp tư bản lớn nắm trong tay phần lớn việc sản xuất và tiêu thụ một hoặc một số loại hàng hóa, qua đó hạn chế cạnh tranh, định ra giá cả độc quyền để thu được lợi nhuận độc quyền cao. Trong các hình thức liên minh giữa các xí nghiệp tư bản tất yếu không loại trừ hình thức LD. Chẳng hạn, khi xem xét hình thức xanh-đi-ca, ta cũng có thể nói rằng đây là một kiểu LD mà các chủ doanh nghiệp chỉ tham gia một phần tư bản cùng quản lý và điều tiết lĩnh vực thương mại của các doanh nghiệp tham gia xanh-đi-ca.

Hoạt động trong cơ chế cạnh tranh và do tác động bởi quy luật lợi nhuận độc quyền cao, nên quá trình tập trung tư bản càng được đẩy mạnh, làm cho quy mô của các xí nghiệp độc quyền càng lớn nhanh vượt ra khỏi dung lượng thị trường trong nước. Thêm vào đó là tác động của cuộc cách mạng công nghiệp làm xuất hiện các lĩnh vực kinh doanh mới. Do sự phân bố không đồng đều về các nguồn lực sản xuất giữa các quốc gia làm xuất hiện lợi thế so sánh. Đây là những cơ sở làm xuất hiện quan hệ kinh tế quốc tế của các tổ chức độc quyền, thúc đẩy xuất khẩu tư bản.

Xuất khẩu tư bản là đưa tư bản ra nước ngoài nhằm chiếm đoạt giá trị thặng dư và các nguồn lợi khác ở nước nhập khẩu tư bản. So với đầu tư trong nước, việc xuất khẩu tư bản có thể thu được lợi ích nhiều hơn, chẳng hạn tỷ suất lợi nhuận cao hơn, tìm kiếm và khai thác được nguyên liệu với giá rẻ hơn, thị trường được mở rộng... Một trong các hình thức xuất khẩu tư bản là các nhà tư bản sử dụng các chi nhánh của mình hợp tác với các cơ sở sản xuất của nơi nhập khẩu tư bản để xây dựng doanh nghiệp chung, cùng sản xuất kinh doanh, cùng chia sẻ rủi ro và lợi nhuận. Đây chính là cơ sở ra đời của các LD quốc tế.

Trong những thập niên gần đây, sự thành lập các LD với nước ngoài được phát triển mạnh mẽ, thu hút sự chú ý của các nhà kinh tế học tư sản. Cho đến nay đã có những giải thích về sự xuất hiện hiện tượng kinh tế này, phân tích bản chất của nó dưới nhiều khía cạnh khác nhau. Dưới đây là một số quan điểm giải thích về bản chất và một số quan niệm về các hình thức LD trong nền kinh tế thị trường.

- Quan điểm giải thích LD theo nghĩa rộng: Tức là quan điểm gắn LD với kinh tế thị trường nói chung trong đó đối tác tham gia LD có thể cùng một quốc tịch hoặc có thể khác quốc tịch. Nó được thể hiện trong lý thuyết kinh tế của P.A.Samuelson (Mỹ) và Xavier Richet (Pháp).

Xavier Richet cho rằng: LD là sự hợp tác liên quan đến các doanh nghiệp của cùng một quốc gia, hoặc cùng một hệ thống kinh tế cũng như các doanh nghiệp thuộc các quốc gia khác nhau [91, tr. 108]. Đây là loại LD được dựa trên sự hòa hợp và hợp tác. Sở dĩ có sự lựa chọn loại doanh nghiệp LD này là vì:

+ Nó có khả năng làm tăng nhanh quy mô sản xuất, tạo ra một khối lượng hàng hóa nhiều hơn;

+ Khi nhiều đơn vị hàng hóa được sản xuất, kinh tế sản xuất lớn được thực hiện, giá bán hàng hóa có thể hạ và bán thêm được nhiều hàng hóa hơn:

+ Với LD "theo chiều dọc" sẽ làm xuất hiện nhân tố mới: chuyên môn hóa và hoạt động kinh tế theo hai giai đoạn, tức là gắn sản xuất với lưu thông.

+ Doanh nghiệp lớn lên nhờ "liên kết ngang", qua đó có thể lợi dụng cơ hội có lợi để mua một số doanh nghiệp cạnh tranh với mình;

+ Sự phát triển của LD có thể trở thành một "Conglomerat" nhỏ bé, lớn lên bằng cách đưa thêm những hoạt động có liên quan vào kinh doanh của mình...

- Quan điểm giải thích LD theo nghĩa hẹp: Tức là gắn LD với quan hệ kinh tế quốc tế, trong đó các đối tác khác nhau về quốc tịch. Nó được thể hiện trong lý thuyết "Chu kỳ sản phẩm" của Raymond Verlls và "Kinh tế học quốc tế" của Dominik Salvatore...

Theo Dominik Salvatore, việc thành lập doanh nghiệp LD với nước ngoài là cần thiết, nó sẽ tạo ra "hiệu quả phúc lợi" cho các nước có liên quan{86]. Có thể biểu diễn ở đồ thị 1.1:



  • Đồ thị 1.1: Hiệu quả phúc lợi của việc thành lập doanh nghiệp LD
    với nước ngoài


Giá trị sản phẩm cận biên của tư bản

Quốc gia 1

Quốc gia 2

B

AAAeA



O

M

N



O'

C

E



D

Giá trị sản phẩm cận biên cửa tư bản

HAAeA

VMPK2


VMPK1

K

Theo tác giả, giả sử trên thế giới chỉ có hai quốc gia là quốc gia 1 và quốc gia 2 (trên đồ thị 1.1). Tổng tư bản của cả hai quốc gia là 00', quốc gia 1 và quốc gia 2 có các đường giá trị sản phẩm cận biên của tư bản tương ứng là VMPK1 và VMPK2. Trước khi có sự di chuyển vốn là 0'N. Lượng sản phẩm mà quốc gia 1 tạo ra đo bằng diện tích hình OADN, trong đó lượng sản phẩm do vốn tạo ra được đo bằng diện tích OHDN. Quốc gia 2 sản xuất được một lượng sản phẩm đo bằng diện tích NCBO', trong đó số sản phẩm đo lượng vốn tạo ra bằng diện tích NCKO'.



Khi có sự di chuyển vốn từ quốc gia 1 sang quốc gia 2, giả sử sự di chuyển này đạt tới điểm cân bằng E, lượng vốn của quốc gia 1 là OM và quốc gia 2 là O'M, thì quốc gia 1 sản xuất được một lượng sản phẩm đo bằng diện tích OAEM, quốc gia 2 sản xuất được một lượng sản phẩm đo bằng diện tích MEBO'. Quốc gia 1 giảm đi một lượng sản phẩm đo bằng diện tích MEDN, còn quốc gia 2 tăng lên một lượng sản phẩm đo bằng điện tích MECN. Như vậy, toàn thế giới sẽ sản xuất tăng thêm một lượng sản phẩm đo bằng diện tích tam giác ECD trên đồ thị 1.1.

Từ phân tích trên, Dominik Salvatore rút ra kết luận: việc di chuyển vốn giữa các nước trong đó có con đường thành lập doanh nghiệp LD có tác dụng làm tăng quy mô sản xuất và khối lượng sản phẩm của toàn thế giới.

Phát triển lý thuyết "Chu kỳ sản phẩm" của Raymond Vernon, Louis Wells đã đưa ra lý thuyết " Chu kỳ sống của sản phẩm trên thị trường quốc tế". Theo sự phát triển của thị trường thế giới, lý thuyết này tiếp tục được bổ sung nhằm giải thích sự vận động của các dòng vốn quốc tế.

Theo lý thuyết này, một loại sản phẩm "sống" trên thị trường phải trải qua 4 giai đoạn (đồ thị 1.2)

Giai đoạn 1 (Tung ra thị trường) Sản phẩm mới được sản xuất ở trong nước rồi tung ra bán chủ yếu trên thị trường nội địa. Do mới, nên nói chung khả năng cạnh tranh của sản phẩm trên thị trường nước ngoài còn thấp. Doanh số thu được từ việc bán sản phẩm ở nước ngoài thấp.

Giai đoạn 2 (Phát triển sản phẩm) Doanh số thu được có xu hướng tăng ở thị trường nước ngoài. Các công ty đa quốc gia mở rộng việc bán sản phẩm ra thị trường nước ngoài cùng với mở rộng thành lập LD với các công ty ở nước sở tại.

Giai đoạn 3 (Giai đoạn chín muồi rồi bão hòa) Doanh số bán hàng có chiều hướng giảm sút. các công ty đa quốc gia dịch chuyển sản xuất sang các nước đang phát triển để tận dụng lợi thế về các yếu tố sản xuất rẻ đặc biệt là lao động giá thấp, lợi thế về các nguồn lực tự nhiên. Các LD được thành lập nhiều ở các nước đang phát triển để kéo dài chu kỳ sống của sản phẩm. Các sản phẩm của LD được sản xuất ở nước sở tại rồi tiêu thụ ở đó hoặc xuất khẩu sang nước khác hoặc về nước chủ nhà.

Giai đoạn 4 (Suy giảm và triệt tiêu) Doanh số bán hàng ở vào mức thấp nhất. Các công ty đa quốc gia một mặt dịch chuyển sản xuất ra nước ngoài để kéo dài chu kỳ sống của sản phẩm; mặt khác, đổi mới công nghệ thông qua thành lập hoặc tìm các bạn hàng có kinh nghiệm tiêu thụ sản phẩm ở nước ngoài. Từ đó xuất hiện các LD trong lĩnh vực chuyển giao công nghệ và tìm hiểu thị trường địa phương.



Đồ thị 1.2: Chu kỳ sống của sản phẩm trên thị trường quốc tế [100, tr. 82]


Doanh số




Chín muồi - bảo hoà




t1

t2

t3

t4

Thời gian (t)

O

Tung

SP


Phát triển

Bảo hoà

Suy giảm triệt tiêu









Ngoài ra, còn có một số quan điểm cho rằng việc thành lập doanh nghiệp LD là do các nhà đầu tư muốn khai thác tính không hoàn hảo của thị trường để thu lợi nhuận ở nước ngoài khi ở đó có tỷ suất lợi nhuận cao hơn so với nếu đầu tư ở trong nước. Đây cũng là cơ hội để thâm nhập vào một số thị trường vẫn còn bị bảo hộ.

Về phía các nước đang phát triển, các nước thuộc nhóm nước "đi sau" tìm cách "nhảy vọt" và "rút ngắn thời gian đáng kể" bằng việc du nhập các thiết bị máy móc và công nghệ hiện đại từ các nước đi trước và từ các công ty đa quốc gia để sớm có một nền công nghiệp hiện đại và khai thác tối đa các nguồn lực trong nước. Nhưng các nước này không phải lúc nào cũng có khả năng cân đối đủ các nguồn ngoại tệ để nhập khẩu các thiết bị máy móc và các công nghệ cần thiết cho mình, hơn nữa trình độ phát triển của lực lượng sản xuất còn thấp chưa đủ khả năng để quản lý và sử dụng các công nghệ này một cách có hiệu quả. Vì vậy, Chính phủ và các công ty của những quốc gia này cũng tìm mọi giải pháp để thu hút các công ty nước ngoài vào thành lập các LD để thực hiện chuyển giao công nghệ và học tập kinh nghiệm quản lý.

Các nước XHCN ở trong giai đoạn đầu của thời kỳ quá độ tiến lên CNXH bỏ qua giai đoạn phát triển TBCN cũng đã vận dụng các hình thức này một cách linh hoạt và sáng tạo. Nước Nga, sau thắng lợi của cách mạng tháng Mười, Lê nin cùng với chính quyền xô viết tổ chức công cuộc phát triển kinh tế, kiên quyết đưa nước Nga từ đói nghèo, lạc hậu tiến lên CNXH. Từ thực tế cuộc sống, Lê nin đã đề ra và đưa vào áp dụng chính sách kinh tế mới (NEP) ở nước Nga. Ý tưởng của NEP là phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần, thực hiện các hình thức kinh tế quá độ nhằm phát triển lực lượng sản xuất, xây dựng CNXH. Một trong những chính sách mà Lênin đưa ra áp dụng ở nước Nga trong thời kỳ là chính sách về CNTB nhà nước. Theo Lênin, CNTB nhà nước là sản phẩm của sự can thiệp tích cực của Nhà nước vào hoạt động kinh tế trong các xí nghiệp tư bản. Ở nước Nga, đó là sự can thiệp của chính quyền Xô viết, tức là của Nhà nước XHCN, nên nó phục vụ lợi ích của giai cấp công nhân và nhân dân lao động. CNTB nhà nước, nếu xét về nội dung, có thể hiểu đó là các hình thức kinh tế quá độ dựa trên hình thức sở hữu hỗn hợp về vốn giữa các thành phần kinh tế với các nhà tư bản trong và ngoài nước cũng như giữa các thành phần kinh tế với nhau [54, tr. 68]. Công ty hợp doanh là một hình thức kinh tế TBNN trong quan điểm của Lênin, chúng ta có thể gọi là công ty LD. Bởi vì, đây là loại công ty được thành lập theo thể thức tiền vốn một phần của tư bản tư nhân, một phần của tư bản nước ngoài và một phần của chính quyền xô viết [42, tr. 336]. Những đặc tính của công ty hợp doanh trong quan điểm của Lênin trước đây cũng chính là những đặc trưng chủ yếu của doanh nghiệp LD mới phát triển mạnh mẽ trong vòng vài thập kỷ vừa qua mà toàn thế giới đều biết đến.

Lê nin cho rằng:

CNTB là xấu so với CNXH, nhưng nó lại là tốt so với thời trung cổ, với nền tiểu sản xuất, với chủ nghĩa quan liêu do tình trạng phân tán của người tiểu sản xuất gây nên. Vì chúng ta chưa có điều kiện để chuyển trực tiếp từ nền tiểu sản xuất lên CNXH bởi vậy trong một chừng mực nào đó, CNTB là không tránh khỏi... Bởi vậy chúng ta phải sử dụng CNTB (nhất là bằng cách hướng vào CNTB nhà nước) làm mắt xích trung gian giữa nền tiểu sản xuất và CNXH làm phương tiện, con đường, phương thức để tăng lực lượng sản xuất lên [40, tr. 276].

Khẳng định hơn nữa sự cần thiết phải áp dụng các hình thức kinh tế của CNTB nhà nước, Lênin cho rằng việc áp dụng này sẽ tạo điều kiện tốt để nâng cao trình độ quản lý của chính quyền xô viết. Lênin viết:

Không có kỹ thuật đại công nghiệp tư bản được xây dựng trên những phát minh mới nhất của khoa học hiện đại, không có một tổ chức Nhà nước có kế hoạch khiến cho hàng triệu người phải tuân theo hết sức nghiêm ngặt một tiêu chuẩn thống nhất trong việc sản xuất và phân phối sản phẩm thì không thể nói đến CNXH được, đó cũng là một điều sơ đẳng [41, tr. 253].

Lênin nêu rõ thực chất áp dụng các hình thức kinh tế của CNTB nhà nước là một sự thỏa hiệp, sự nhượng bộ của chính quyền Xô viết với giai cấp tư sản. Nhưng việc làm đó là cần thiết, bởi vì chính quyền Xô viết sẽ thu được nhiều cái lợi, bảo tồn được tư liệu sản xuất và cơ cấu sản xuất đã hình thành, sử dụng được năng lực của các chuyên gia tư sản. Đặc biệt, trong một nước mà sản xuất nhỏ chiếm ưu thế thì cái lợi lớn hơn cả là trên cơ sở sử dụng lợi ích tư hữu TBCN như một động lực, phát triển được trong một thời gian ngắn nhất nền sản xuất theo hướng sản xuất lớn, tập trung, dưới sự kiểm soát của Nhà nước, chống lại sự hỗn loạn tiểu tư sản.

Lênin khẳng định:

CNTB nhà nước là một bước tiến lớn dù cho chúng ta phải trả một khoản lớn hiện nay. Bởi vì trả học phí là việc đáng giá vì cái đó có lợi cho công nhân, vì việc để chiến thắng tình trạng hỗn loạn, tình trạng suy sụp về kinh tế và hiện tượng lỏng lẻo là cái quan trọng hơn hết, vì để tình trạng vô chính phủ của những kẻ tư hữu tiếp tục tồn tại là một mối nguy cơ lớn nhất, đáng sợ nhất, nó sẽ làm chúng ta diệt vong, trái lại sẽ đưa chúng ta đến CNXH bằng con đường chắc chắn nhất [41, tr. 251-252].

Trong quan điểm của mình, Lê Nin còn chỉ rõ những tác dụng khác khi áp dụng CNTB nhà nước như nó sẽ giúp thúc đẩy phát triển lực lượng sản xuất trong nông nghiệp, củng cố sự tín nhiệm của nông dân với chính quyền Xô viết; nó sẽ là một công cụ để đấu tranh chống chủ nghĩa quan liêu, tác phong lề mề; giai cấp công nhân và nhân dân lao động có thể học được cách quản lý nền sản xuất lớn, du nhập tiến bộ công nghệ bên ngoài, đồng thời phục hồi được giai cấp công nhân hiện đại.

Với tính tất yếu và tác dụng nhiều mặt như trên, việc sử dụng và phát triển các hình thức kinh tế TBNN (trong đó có hình thức LD) là cần thiết để sớm đưa nước Nga tiến lên CNXH.

Quan điểm trên của Lênin đã được áp dụng ở nước Nga trong thời kỳ thực hiện chính sách kinh tế mới (1921 - 1928), sau đó kể từ những năm 60 được phát triển ở các nước XHCN với tên gọi: "Xí nghiệp liên doanh với nước ngoài" và thành lập "Hội đồng tương trợ kinh tế" (khối SEP) nhằm tiến hành phân công, hợp tác và tương trợ kinh tế lẫn nhau giữa các nước XHCN anh em, trong đó phát triển mạnh các hình thức gia công hàng xuất khẩu. Từ thập kỷ 80 trở lại đây, các hình thức LDVNN đã phát triển mạnh ở Trung Quốc và sau đó là Việt Nam.

Như vậy, sự ra đời của các hình thức LD là kết quả tất nhiên của quá trình tập trung hóa và hợp tác hóa sản xuất, của sự vận động dòng đầu tư quốc tế với nguồn gốc bên trong là sự phát triển của phân công lao động quốc tế, sự phát triển của sản xuất hàng hóa khi lực lượng sản xuất đã đạt đến một trình độ nhất định.

Tuy nhiên cho đến nay nhận thức và khái niệm về các hình thức LD vẫn chưa có một sự thống nhất và chuẩn hóa. Dưới đây, tác giả chỉ đề cập và phân tích một số quan điểm về các hình thức LD của các nhà kinh tế trong những thập niên gần đây và của Luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam, đồng thời trên cơ sở nhận thức về bản chất của nó để đưa ra quan điểm của mình làm tiền đề cho việc nghiên cứu phát triển và mở rộng các hình thức LDVNN trong SXHXK ở Nghệ An.



Каталог: file -> downloadfile8
downloadfile8 -> Bài Luận Đề tài: Mối lien hệ giữa dân số và môi trường MỤc lụC
downloadfile8 -> Bài 1: ( 5 điểm) A=24,4872 1\ Tính a = 2\ Tính giá trị của biểu thức: B=7,708220309 B= tại X =; z = 4 Bài 2
downloadfile8 -> Đề tài: Kỹ thuật truyền số liệu trong mạng máy tính cục bộ Giảng viên hướng dẫn: Sinh viên thực hiện
downloadfile8 -> CHƯƠng I: TỔng quan về audio- video số TỔng quan về audio số
downloadfile8 -> Lời ngỏ của giáo sư Nguyễn Lân Dũng Cùng bạn đọc
downloadfile8 -> NGƯỜi coi thi đ ĐỀ chính thứC
downloadfile8 -> Đề Tài Liên hệ thực tiễn việc áp dụng các học thuyết Phương Đông ở doanh nghiệp Toyota tại Việt Nam hiện nay
downloadfile8 -> Luận văn TÌnh hình thưƠng mại giữa việt nam và CÁc nưỚc khối nam mỹ
downloadfile8 -> Đề tài Thái độ của người hâm mộ sau khi kết thúc giải bóng đá vô địch quốc gia Việt Nam năm 2012
downloadfile8 -> SỞ gd&Đt quảng ngãi kỳ thi chọn học sinh giỏi cấp trưỜng trưỜng thpt chuyên năm họC 2011-2012

tải về 1.54 Mb.

Chia sẻ với bạn bè của bạn:
  1   2   3   4   5   6   7   8   9   ...   15




Cơ sở dữ liệu được bảo vệ bởi bản quyền ©hocday.com 2024
được sử dụng cho việc quản lý

    Quê hương