Phần 1: Toàn thế giới nín thở chờ đợi Chương 1: thanh kiếm hai lưỠi của barbarossa



tải về 2.43 Mb.
trang12/18
Chuyển đổi dữ liệu25.03.2018
Kích2.43 Mb.
#36541
1   ...   8   9   10   11   12   13   14   15   ...   18

TRONG HẦM SÂU 
Lửa vẫn cháy sáng sưởi nơi đây hầm sâu 

Nhựa gỗ cháy rơi như những giọt nước mắt 
Mà hầm sâu phong cầm vẫn vang êm đềm
 
Và thầm nhắc anh về mắt, môi em cười.
 

Nhắc luôn về em, bao khóm cây với anh 
Giữa cánh đồng tuyết trắng giáp Mát-xcơ-va
 
Mà cầu mong sao để em sẽ nghe được
 
Giọng buồn đến thế nào chốn đây của anh.
 
Mà nay em đã xa, ôi thật là xa
 
Nằm giữa hai ta, bao cánh đồng tuyết trắng
 
Về cùng em biết rằng có đâu dễ dàng
 
Còn thần chết thì gần, bốn bước thôi mà
 
Hát lên đàn ơi, trêu bão tuyết đang rơi
 
Hãy gọi về đây hạnh phúc nơi xa xôi
 
Hầm lạnh sao, nhưng lòng anh ấm lên rồi
 
Từ tình tháng năm dài sắt son của em.

trong Kessel, kỷ luật của Tập đoàn quân VI vẫn được duy trì nghiêm ngặt. Trong lúc đó Hitler, trong một sự cố gắng như thông thường nhằm tăng cường sự trung thành, đã bắt đầu cất nhắc và ban thưởng rộng rãi huân chương. Paulus được thăng cấp lên hàm Đại tướng. 
Đối với binh lính, nguồn an ủi chủ yếu chính là lời hứa của Quốc trưởng rằng ông ta sẽ làm mọi thứ để đảm bảo họ sẽ được giải thoát. Sự thật, tướng Strecker đã nhận thấy là binh lính phàn nàn rất ít về khẩu phần giảm sút thảm hại bởi vì họ cho rằng họ sẽ nhanh chóng được cứu. 
Trong một trong những chuyến viếng thăm tiền tuyến của ông ta, một lính canh giơ tay áp tai để nghe tiếng pháo bắn ở xa. ‘Hãy lắng nghe này, tướng quân,’ anh ta nói. ‘Nhất định đây là lực lượng giải cứu chúng ta đang đến đấy’. Strecker đã bị ấn tượng rất mạnh. ‘Sự tin cậy của một người lính Đức bình thường đã sưởi ấm trái tim”, ông ta ghi chú. 
Thậm chí các sĩ quan chống phát xít cũng không tin rằng Hitler dám bỏ rơi Tập đoàn quân VI. Đòn giáng vào chế độ và tinh thần của hậu phương nước Đức quá lớn, họ đưa ra lý do. Mặt khác Giáng sinh và Năm mới đang đến gần đã kích thích niền tin rằng mọi sự sẽ trở nên tốt hơn. Thậm chí con người hoài nghi Groscurth cũng đã lạc quan hơn. ‘Mọi vật dường như đỡ ảm đạm hơn một chút’, ông viết, ‘và mọi người bây giờ có thể hi vọng rằng chúng ta sẽ thoát khỏi cái bẫy này’. Nhưng ông ta vẫn coi Stalingrad là ‘Schicksalsstadt’ – ‘thành phố của định mệnh’.
Chương 18: Der Manstein Kommt – “Ngài Manstein đến!”
Tuyết bắt đầu rơi dày trong những ngày cuối tuần đầu tiên của tháng 12. Tuyết lấp đầy các khe rãnh, buộc những ai trú trong những chiếc hang đào vào hai bên vách núi phải dọn đường đi ra. Tất cả xe cộ chỉ còn lại chút xíu nhiên liệu, ngựa kéo xe bị đói đến nỗi sức lực của chúng không còn đủ để vượt những ngọn đồi nhỏ nhất. Cha tuyên úy Altmann của sư đoàn bộ binh 113, sau khi cưỡi trên một con đã ghi nhận lại “Tôi không thể cưỡi tiếp bởi con ngựa không thở nổi và nó không thể chịu được dù là chỉ một người nhẹ cân nhất
Altmann bị ấn tượng mạnh bởi những cậu lính trẻ đáng thương ở trung đoàn ông đến thăm. Câu hỏi đầu tiên của họ hoàn toàn có thể đoán biết trước: “Khi nào chúng con được ăn nhiều hơn?”. Ông cũng ghi nhận rằng dù chỉ mới ở tuần thứ hai của tháng 12, nhưng “những căn hầm tội nghiệp của họ ở giữa cái thảo nguyên trơ trọi này đã được trang trí cho mùa Giáng sinh”. Tại sở chỉ huy tiểu đoàn, ông nhận được một cú điện thoại nhắc nhở ông về một nhiệm vụ không-mang-tính-Giáng-sinh. “Sáng mai, lúc bình minh, xử tử một lính Đức (19 tuổi, tội tự thương).”
Dù tất cả binh sỹ đều bị đói kém nghiêm trọng, nhưng họ vẫn không có chút ý niệm nào về mức độ nghiêm trọng của vấn đề hậu cần với Tập đoàn quân VI. Hitler, khi lệnh cho Paulus giữ nguyên vị trí, đã hứa rằng sẽ có hơn 100 phi cơ vận tải Junkers 52 để cung cấp hậu cần, nhưng trong suốt tuần đầu của chiến dịch cầu hàng không kể từ ngày 23 tháng 11 trung bình có không quá 30 chiếc mỗi ngày. Có 22 chiếc bị mất do các hoạt động thù địch và rơi trong ngày 24 tháng 11, 9 chiếc khác bị bắn hạ trong ngày hôm sau. Những chiếc Heinkel 111 phải bỏ các nhiệm vụ ném bom trong một nỗ lực tuyệt vọng nhằm thay thế cho chỗ thiệt hại đó. Tướng Richthofen gọi điện Jeschonnek ba lần để cố thuyết phục ông ta rằng họ thiếu máy bay vận tải cho công tác không vận hậu cần của Tập đoàn quân VI. Nhưng không thể liên lạc được với Goering. Ông ta đã đi Paris rồi.
Việc không vận không thể đáp ứng được chút gì như số lượng tối thiểu đã hứa là 300 tấn mỗi ngày. Chỉ 350 tấn đến nơi trong cả một tuần. Mà trong 350 tấn, chỉ có 14 tấn thực phẩm cho một lực lượng vào thời điểm đó còn 275,000 người. Ba phần tư tổng tải trọng là xăng dầu, mà một phần được dùng cho chính những chiếc phi cơ của không quân Đức đóng tại Pitomnik nhằm bảo vệ máy bay vận tải khỏi những chiếc tiêm kích Nga. Những chiếc Messerschidtts ở Pitomnik, tuy vậy, giờ phải đối diện với nỗi sợ về số lượng bị áp đảo cũng như điều kiện bay kinh khủng. Một phi công bị bắt đã nói với nhân viên thẩm vấn NKVD rằng, khi bay từ Pitomnik trong một nhiệm vụ hộ tống, chiếc Me-109 của anh đã bị cắt rời và tấn công bởi 6 chiếc tiêm kích Nga.
Trong tuần thứ hai, đến ngày 6 tháng Mười hai, 512 tấn (chưa tới một phần tư lượng tối thiểu) được tải đến bởi trung bình 44 máy bay vận tải mỗi ngày. Và chỉ có 24 tấn lương thực. Càng lúc càng nhiều súc vật kéo bị mổ thịt để bù đắp cho chỗ thiếu. Binh lính nhìn thấy khẩu phần thu nhỏ nhanh chóng, nhưng họ tự thuyết phục mình rằng tình hình này sẽ không còn lâu. Họ ngưỡng mộ lòng dũng cảm của các tổ lái không quân Đức và đặc biệt yêu mến “Tante Ju” – những chiếc Junker ba động cơ đã di tản thương binh ra và mang thư họ về nhà, ở Đức. “Con ổn và mạnh khỏe” họ viết trong tháng 12, trấn an gia đình, “Không việc tệ hại nào có thể xảy ra,” một điệp khúc thường xuyên khác “Đừng lo lắng vì con, con sẽ sớm về nhà an toàn và lành lặn”. Họ vẫn hi vọng vào một phép màu Giáng sinh.
Trong khi đó, Stalin, đang hy vọng vào một cú đánh quyết định thứ hai, gần như ngay lập tức sau khi hợp vây Tập đoàn quân VI. Chiến dịch Uranus chỉ là phần đầu của kế hoạch tổng thể. Phần thứ hai, và là phần tham vọng nhất, chiến dịch Sao Thổ. Đây là tên gọi của trận tấn công bất ngờ của hai phương diện quân Tây – Nam và Voronezh, xuyên qua tập đoàn quân Ý số 8 và tiến về phía nam đến Rostov. Ý tưởng là cắt phần còn lại của cụm tập đoàn quân sông Đôn và vây Tập đoàn quân xe tăng số 1, tập đoàn quân số 17 trong khu vực Caucasus.
Ngay cả trước khi Tập đoàn quân VI bắt đầu đào hầm hào cố thủ trong thảo nguyên giữa sông Don và sông Volga, tướng Vasilevsky đã thảo luận phần kế tiếp với tư lệnh Phương diện quân Voronezh và Pphương diện quân Tây Nam. Ông đã đệ trình kế hoạch ban đầu lên Stalin vào đêm 26 tháng 11. Ngày dự kiến triển khai chiến dịch Sao Thổ, để có thể tái bổ sung và tái bố trí lực lượng, là ngày 10 tháng 12. Stalin đồng ý, và bảo ông ta tiến hành. Một mối bận tâm trước mắt phải được xác định đầu tiên. Đó chính là câu hỏi Manstein sẽ phản ứng như thế nào để cứu Tập đoàn quân VI.
Stalin bắt đầu thể hiện cơn bệnh nôn nóng của mình. Ông muốn mọi thứ phải diễn ra cùng lúc – cả chiến dịch Sao Thổ lẫn việc tiêu diệt nhanh chóng Tập đoàn quân VI. Ông ta cũng đã ra lệnh cho tập đoàn quân Cận vệ 2, đơn vị mạnh nhất của Hồng quân, triển khai ở phía tây Stalingrad, sẵn sàng cho cuộc tấn công về Rostov. Nhưng, như Vasilevsky phát hiện ra trong tuần đầu tháng 12, ngay cả khi có tới 7 Tập đoàn quân Sô viết triển khai đánh thì các sư đoàn của Paulus vẫn khó bị tiêu diệt hơn họ tưởng.
Ngày 28 tháng 11, Stalin yêu cầu Zhukov đánh giá ý định quân địch. Zhukov đã gửi báo cáo ngày hôm sau rằng “Quân Đức bị vây sẽ không cố phá vây mà không có sự trợ lực của một lực lượng giải cứu từ hướng Nizhne – Chirskaya và Kotelnikovo”. Dự báo của ông là chính xác, và nghiên cứu tình hình thực địa chi tiết cũng cho thấy đó là cơ hội khả thi duy nhất. Sau khi gửi câu trả lời cho Stalin, Zhukov bàn bạc tình huống với Vasilevsky, chính Vasilevsky được Stalin bảo hướng sự quan tâm hiện tại vào việc tiêu hao Tập đoàn quân VI. Hai vị tướng kín đáo đồng ý rằng họ có thể phải trì hoãn chiến dịch Sao Thổ lại mà thay vào đó là tính toán cho chiến dịch Sao Thổ nhỏ. Kế hoạch là tấn công vào hậu phương và cánh trái cụm tập đoàn quân sông Đôn của Manstein. Và điều này sẽ làm những nỗ lực giải tỏa Stalingrad phải dừng lại đột ngột.
Kế hoạch của Manstein nhằm giải cứu Tập đoàn quân VI – chiến dịch Bão Mùa Đông – được phát triển dưới sự tham mưu của đại bản doanh Quốc trưởng. Nó chú trọng vào việc đột kích đến gặp tập đoàn quân 6 và thiết lập một tuyến hành lang để cung cấp hậu cần, tăng viện, và như vậy, theo lệnh Hitler, có thể giữ vững được vị trí “như đá tảng” này trên dòng Volga, “để hướng đến các chiến dịch trong năm 1943”. Tuy vậy, thống chế Manstein hiểu rằng Tập đoàn quân VI không thể sống sót qua mùa đông ở đó, nên đã cho ban tham mưu của mình xây dựng một kế hoạch bổ sung. Nó bao gồm một cuộc tấn công phá vây theo sau của Tập đoàn quân VI nếu giai đoạn một thành công, và tái nhập vào cụm tập đoàn quân sông Đông. Bảng kế hoạch này được đặt tên là Chiến dịch Sấm rền.
Cuộc hành binh Bão Mùa Đông, như Zhukov đã dự báo, có kế hoạch nguyên thủy là một trận tấn công theo hai mũi. Một là từ vùng Kotelnikovo, chếch về hướng Nam, cách tập đoàn quân 6 tầm 100 dặm. Mũi còn lại bắt đầu từ tuyến sông Chir ở phía tây sông Đôn, và chỉ cách góc vòng vây ít hơn 40 dặm, nhưng những trận công kích liên miên của tập đoàn quân xe tăng số 5 của tướng Romanenko vào các đơn vị Đức đóng dọc sông Chir đã phá vỡ tuyến xuất phát tấn công. Do vậy chỉ còn lại một mũi duy nhất do quân đoàn xe tăng 57 từ Kotelnikovo, cùng với phần còn lại của Tập đoàn quân xe tăng số IV của Hoth, tiến hành giải vây cho những sư đoàn của Paulus.
Quân đoàn xe tăng 57, chỉ huy bởi tướng Friedrich Kirchner, trước tiên là rất yếu. Nó gồm hai sư đoàn kỵ binh Rumani và sư đoàn xe tăng số 23, tập hợp lại có không quá 30 chiếc xe tăng hữu dụng. Nhưng sư đoàn xe tăng số 6, chuyển đến từ Pháp, là một đơn vị mạnh hơn nhiều. Tư lệnh sư đoàn, tướng Erhard Raus, người Áo, được triệu tập đến toa xe vương giả của Manstein ở ga Kharkov trong ngày 24 tháng 11, vị thống chế trực tiếp chỉ dẫn cho ông. “Ông ta mô tả tình huống rất u ám” Raus ghi nhận. Ba ngày sau, khi chuyến tàu đầu tiên đổ quân của Raus xuống ga Kotelnikovo, các đơn vị của ông được chào đón bởi “một trận mưa đại bác” từ các khẩu đội pháo Nga. “Nhanh như chớp, lính thủ pháo tăng nhảy khỏi toa xe. Nhưng quân thù đã tấn công vào ga với tiếng thét xung trận Urrah!!!”.
Tướng Hoth vui mừng khi gặp sư đoàn xe tăng số 6. Nó được kiện toàn ở Brittany, và mạnh mẽ với 160 chiếc Mark IV nòng dài cùng 40 pháo tự hành. Sư đoàn nhanh chóng có cơ hội thử những vũ khí mới. Ngày 3 tháng 12, nó giao chiến với quân đoàn kỵ binh 4 Sô viết trong một trận đánh dữ dội gần làng Pakhlebin, cách Kotelnikovo bảy dặm về phía tây bắc. Các tổ lái tăng, hồ hởi như những vành xích nghiến lên lớp băng, cắt rời sư đoàn kỵ binh 81 (Nga) và gây thiệt hại nặng. Tướng Raus, hài lòng với kết quả, đã coi trận đánh đó như là “trận Cannae ở Pakhlebin”. Việc sư đoàn của Raus được đưa đến đã khẳng định cho mối nghi ngờ của Yeremenko rằng quân Đức sắp tấn công lên phía đông bắc từ Kotelnikovo, nhưng Stalin vẫn từ chối đưa lực lượng dự bị đến khu vực bị đe dọa.
Cũng trong ngày 3 tháng 12, tướng Hoth đưa ra bảng đề xuất cho chiến dịch “Bão mùa đông” bắt đầu với câu “Mục đích: Tập đoàn quân xe tăng 4 giải nguy cho tập đoàn quân 6”, nhưng thời điểm có giá trị đã bị mất rồi. Sư đoàn xe tăng số 17, hợp thành trong lực lượng xung kích của ông ta, đã bị rút về phía sau, theo lệnh từ đại bản doanh Quốc trưởng, để làm lực lượng dự bị phía sau tập đoàn quân Italia số 8. Cuối cùng nó vẫn không thể tham gia vào đội hình của tướng Huth mãi cho đến 4 ngày sau khi chiến dịch nổ ra. Thế mà Hitler vẫn khăng khăng bảo rằng không nên tốn thời gian. Ông ta cũng sốt ruột muốn xem những chiến tăng Tiger mới với đại bác 88m làm ăn ra sao. Tiểu đoàn đầu tiên được trang bị đã đến mặt trận phía Đông và thuộc về lực lượng của Kirchner. Đêm ngày 10 tháng 12, viên chỉ huy được nhận “Huân chương giải phóng Stalingrad”.
Ngày 12 tháng 12, sau một trận pháo kích chuẩn bị, xe tăng của Huth tiến lên hướng bắc. Lính Đức trong vòng vây háo hức lắng nghe âm thanh của trận chiến đằng xa. Niềm tin dường như vô bờ. Tin đồn háo hức lan nhanh trong Tập đoàn quân VI. “Manstein đang đến!” quân lính bảo nhau, không khí như trong lễ Phục sinh của giáo hội chính thống. Với những người trung thành với Hitler, tiếng đại bác xa xa là bằng chứng cho thấy một lần nữa Quốc trưởng giữ lời.
Tuy vậy, Hitler không có chút ý định nào cho phép Tập đoàn quân VI phá vây. Trong buổi họp trưa ở Hang sói , ông ta bảo Zeitzler rằng không thể rút lui khỏi Stalingrad vì nó dính dáng tới việc từ bỏ “Ý nghĩa của cả chiến dịch” và phàn nàn rằng quá nhiều máu đã đổ. Như Kluge đã cảnh báo Manstein, ông ta vẫn bị ám thị bởi những sự kiện của mùa đông năm trước khi lệnh của ông đã giúp cụm tập đoàn quân trung tâm trụ vững. “Một khi một đơn vị bắt đầu tháo chạy” ông lên lớp tổng tham mưu trưởng “mối ràng buộc theo luật lệ nhanh chóng bị mất nhanh như chớp”.
Các chỉ huy phía Liên Xô không nghĩ trận tấn công của thống chế Manstein diễn ra sớm như vậy. Yeremenko lập tức lo sợ cho Tập đoàn quân 57, giữ góc tây nam của vòng vây. Vasilevsky đang ở sở chỉ huy Tập đoàn quân 51 cùng với Khrushchev trong ngày 12 tháng 12 và nhận được tin báo quân Đức tấn công qua điện tín. Ông cố gọi về Moscow cho Stalin, nhưng không thông máy được. Không để mất thời gian, ông liên lạc với tướng Rokossovsky, tư lệnh Phương diện quân sông Đon, và báo ông ta rằng ông muốn chuyển tập đoàn quân cận vệ số 2 của tướng Rodion Malinovsky sang dưới quyền của phương diện quân Stalingrad nhằm chặn đường tiến của Manstein. Rokossovsky phản ứng dữ dội,  Vasilevsky mất tinh thần khi gọi được về điện Kremlin trong tối đó, Stalin giận dữ trước điều mà ông nghĩ là một nỗ lực để ép ông vào sự đã rồi. Nên ông không chịu trả lời và Vasilevsky phải có một đêm đầy lo lắng.
Trong khi đó, Yeremenko điều quân đoàn cơ giới hóa số 4 và quân đoàn xe tăng 13 chặn mũi tiến hấp tấp của đoàn thiết giáp Đức. Sư đoàn xe tăng số 6 tiến lên được chừng 30 dặm trong 24 giờ đầu tiên, vượt được sông Aksay. Sau nhiều cuộc bàn luận trong điện Kremlin mà kết thúc đến tận những giờ đầu ngày hôm sau, cùng với nhiều cú điện thoại với Vasilevsky, cuối cùng Stalin cũng đồng ý chuyển Tập đoàn quân Cận vệ 2 sau hai ngày trì hoãn.
Trong ngày thứ hai của chiến dịch, sư đoàn xe tăng số 6 đã đến được làng Verkhne-Kumsky. Trời mưa làm tuyết tan. Trên vùng đất cao của ngôi làng này bắt đầu một trận mà tướng Raus mô tả là “một trận vật lộn khổng lồ”. “Trận đánh lòng vòng” dài ba ngày này trở nên hao tổn. Đó là một chiến thắng cục bộ - các sư đoàn của Hoth cùng với những chiếc tăng Tiger đã đến được tuyến Myshkova, một khi Sư đoàn xe tăng số 17 đến được và Richthofen hỗ trợ tối đa trên không – nhưng những sự kiện ở đây cho thấy không thích hợp cho tương lai của Tập đoàn quân VI. Họ được xác định ở đâu đó cách 125 dặm về phía tây bắc.
Stalin nhanh chóng nhận ra rằng Zhukov và Vasilevsky đã đúng. Cách hữu hiệu nhất để đập tan nỗ lực giải cứu tập đoàn quân Paulus là chặn đà tiến công của Hoth tại tuyến Myshkova, đồng thời tung ra một đòn đánh quyết định ở đâu đó. Ông đồng ý với ý kiến là hiệu chỉnh chiến dịch Sao Thổ. Chỉ lệnh được chuẩn bị trong suốt ngày đầu tiên của trận đánh tại làng Verkhne – Kumsky, hướng dẫn cho Tư lệnh phương diện quân Voronezhe và Tây Nam chuẩn bị triển khai một phiên bản hiệu chỉnh, gọi là chiến dịch Sao Thổ nhỏ. Kế hoạch là đánh tan tập đoàn quân Italia số 8 tiến sâu vào hậu phương cụm tập đoàn quân sông Đôn chứ không tấn công vào Rostov. 
Những Tập đoàn quân của họ phải được chuẩn bị để tấn công trong thời hạn ba ngày. Yeremenko vẫn còn lo lắng. Với việc quân đoàn xe tăng của Hoth ở tuyến sông Myshkova, sư đoàn xe tăng số 6 chỉ còn cách vòng vây dưới 40 dặm, trong khi tập đoàn quân cận vệ 2, vì một cơn bão tuyết mới đến, không thể có đầy đủ sức mạnh ở vị trí phản công trước ngày 19 tháng 12. Ông lo các lực lượng xe tăng của Tập đoàn quân VI sẽ tiến hành phá vây ở góc tây nam của cái túi bất kỳ lúc nào, nhưng ông ta không biết rằng Hitler vẫn không cho phép, và rằng 70 chiếc xe tăng còn lại của Paulus chỉ còn đủ xăng để chạy chừng 12 dặm.
Thống chế Von Manstein gửi thiếu tá Eisman, sỹ quan tình báo của ông, vào trong vòng vây bằng máy bay trong ngày 19 tháng 12. Nhiệm vụ của anh ta, như Manstein sau này nói, là chỉ dẫn cho Paulus và Schmidt chuẩn bị Tập đoàn quân VI  cho chiến dịch Sấm rền. Những dị bản, những cách giải thích khác nhau cũng cho thấy rằng cuộc gặp đó chẳng giải quyết được gì. Tuy vậy, rõ ràng là Manstein vẫn cố tránh chịu trách nhiệm về việc không tuân lệnh Hitler. Ông ta đã không cho Paulus một lệnh rõ ràng, và từ chối – không nghi ngờ gì, lấy lý do an toàn – bay vào trong vòng vây để thảo luận vấn đề trực tiếp với Paulus.
Nhưng Manstein phải hiểu ngay từ đầu rằng Paulus, một người tuân thủ mệnh lệnh nghiêm ngặt, sẽ không bao giờ phá vây nếu không có một mệnh lệnh đúng nguyên tắc từ cấp trên. Nỗ lực của Manstein, theo như hồi ký của ông  chỉ là để bào chữa cho việc chịu trách nhiệm về số mệnh của Tập đoàn quân VI , đã quá cường điệu và cũng không công bằng với Paulus. Nó hóa ra chỉ là do lương tâm ông khó chịu và không ai bào chữa cho ông.
Ngày 16 tháng 12, chỉ bốn ngày sau cuộc tấn công của Hoth, Tập đoàn quân cận vệ số 1, số 3 cùng Tập đoàn quân số 6 (Nga) từ sông Đon, tấn công xuống phía nam. Bị chậm do sương giá lạnh buốt, dày đặc và các đơn vị tăng mò mẫn trong các bãi mìn, chiến dịch của phía Liên Xô không có một khởi đầu tốt. Tuy vậy, trong vòng hai ngày, tập đoàn quân Italia số 8 sụp đổ sau vài trận kháng cự ác liệt. Không có lực lượng dự bị để phản công, vì lúc này sư đoàn xe tăng số 17 đã gia nhập vào chiến dịch của Hoth ở bờ đông sông Đon, nên xe tăng quân Nga chọc thẳng xuống hướng nam trên thảo nguyên tuyết phủ rộng mở. Đợt lạnh ghê gớm trong vùng bắt đầu từ ngày 16 tháng 12 chỉ làm chậm chút ít việc các lữ đoàn T-34 hoàng hành dữ dội ở hậu tuyến cụm tập đoàn quân sông Đon. Các trạm, ga xe lửa bị chiếm chỉ ngay sau khi các toa hàng chứa đầy trang thiết bị bốc cháy bởi các đơn vị hậu cần đốt trước khi họ trốn chạy. 
Mối đe dọa nghiêm trọng nhất với quân Đức là cuộc tiến quân dài 150 dặm của Thiếu tướng Vasily Mikhailovich Badanov, quân đoàn xe tăng số 24. Chiều ngày 23 tháng 12, quân đoàn đó tràn qua Skassirskaya, ngay phía bắc của Tatsinskaya, căn cứ chính của phi đoàn máy bay vận tải Junker 52 phục vụ Stalingrad. Tướng Feibig nhận lệnh trực tiếp từ đại bản doanh Quốc trưởng rằng không được bỏ phi trường cho đến khi nó nằm trong tầm đại bác. Dường như không ai trong số những người bên cạnh Hitler cân nhắc về việc có khả năng một đơn vị thiết giáp có thể đến cạnh khu vực và công kích.
Fiebig và các sỹ quan của ông rất lo lắng. Có thể tái chiếm phi trường này, nhưng nếu số máy bay vận tải bị mất đi, cũng đồng nghĩa với Tập đoàn quân VI . Họ không có đơn vị mặt đất nào để bảo vệ cho “Tazi”, như cách của Luffwaffe gọi phi trường này. Tất cả những gì họ có thể làm là chuyển bảy khẩu cao xạ để bảo vệ con đường, và chuẩn bị cho tất cả những phi cơ khả dụng cất cánh vào đầu giờ sáng. Việc nhiều đến nỗi không thể triển khai dễ dàng. “Quanh đường chạy là khung cảnh hỗn loạn” tham mưu trưởng của Richthofen, người có mặt ở đó ghi nhận “Với tiếng máy gầm, mọi người khó lắm để nghe được tiếng của nhau”. Và để cho mọi việc thêm phần tồi tệ, trời đầy sương mù dày đặc, mây thấp ở tầm 150 thước và tuyết rơi nhẹ.
Lúc 5h20 phút sáng, phát đại bác đầu tiên nổ tới. Hàng đàn xe tăng Sô viết tràn tới, không đi trên đường. Nhiều phi công, vì tiếng ồn và sự náo nhiệt của phi trường, đầu tiên không hiểu việc gì xảy ra ngay cả khi hai chiếc Junker 52 bốc cháy. Chính Fiebig ra lệnh qua radio “Tất cả đi thôi, thẳng đến Novocherkassk!”. Cánh phi công không để tốn thời gian. “Chuyến bay từ Tatsinskaya” bắt đầu. Dù có những lộn xộn lúc đầu, nhưng thật đáng ấn tượng là có rất ít sự hoảng loạn. Những chiếc phi cơ cất cánh vững vàng, dù cho sự thương vong tăng lên. Với những chiếc T-34 Nga, đó giống như một bãi tập bắn. Vài chiếc bắn bừa bãi khi tiến đến trên lớp tuyết. Có chiếc thậm chí còn đâm vào một chiếc Junker ba động cơ đang chạy vào vị trí cất cánh. Vụ nổ trùm một quả cầu lửa lên cả hai. Rất nhiều phi cơ đâm vào nhau trên đường chạy hoặc bị hạ bởi pháo địch. Tầm nhìn kém đi từng phút, và những chiếc phi cơ còn lại phải né tránh xác những chiếc đang bốc cháy để thoát ra. Cuối cùng, lúc 6h15 phút sáng, cỗ máy của tướng Fiebig, một trong những chiếc cất cánh sau cùng, đã trên không trung. Cả thảy 108 chiếc Ju-52 ba động cơ và 16 chiếc máy bay huấn luyện Ju-86 được cứu thoát, nhưng có đến 72 chiếc bị mất chiếm 10% tổng trọng lượng cất cánh đoàn bay vận tải Luffwaffe.
Với tướng Banadov, sau trận càng quét này, nhận ra đơn vị mình bị cắt rời trong 5 ngày, bị đánh tơi tả và cạn kiệt đạn dược. Stalin đã rộng rãi trong nhận định của mình. Đơn vị đó được nhận danh hiệu Quân đoàn xe tăng Cận vệ số 2, và cá nhân Badanov là người đầu tiên được tặng loại huân chương mới, huân chương Suvorov. Bộ máy Tuyên truyền Hồng quân công bố rằng xe tăng của ông tiêu diệt được tổng cộng 431 chiếc máy bay, nhưng rõ ràng đây là sự phóng đại quá mức. Tuy nhiên, kết quả quan trọng nhất, là Tatsinskaya không bao giờ còn được dùng cho các nhiệm vụ vận tải nữa. Không quân Đức phải chuyển đi xa hơn đến phi trường thay thế.
Kết quả của nhiệm vụ giải cứu của tướng Hoth đã được định đoạt. Mối đe dọa bên sườn trái cụm tập đoàn quân sông Đôn và khả năng bị chọc thủng đến Rostov (được xác minh sau cuộc thẩm vấn tham mưu trưởng Tập đoàn quân cận vệ số 3, người bị bắt trong ngày 20 tháng 12), buộc Manstein phải xem xét lại toàn bộ vị trí của mình. Các sư đoàn xe tăng ở tuyến sông Myshkova cũng nhận một trận pháo kích nặng nề, riêng sư đoàn xe tăng 6 đã bị mất 1.100 người chỉ trong một ngày. Đêm 23 tháng 12, quân đoàn xe tăng của Hoth được lệnh rút lui, mà không giải thích gì thêm. “Ngay cả người lính trẻ nhất cũng hiểu rõ” tướng Raus viết “rằng đây là dấu hiệu cho sự thất bại ở Stalingrad. Dù không ai biết được nguyên nhân đằng sau mệnh lệnh, nhưng cả sỹ quan và binh lính đều nghi hoặc rằng có điều gì đó tệ hại đã phải diễn ra”.
Cũng trong đêm đó, tướng Paulus và thống chế Manstein thảo luận tình huống bằng máy điện báo. Manstein cảnh báo rằng Tập đoàn quân xe tăng IV gặp kháng cự mạnh mẽ và các đơn vị Italia ở cánh bắc sụp đổ. Paulus hỏi khi nào ông ta có được mệnh lệnh cho Tập đoàn quân VI phá vây. Manstein trả lời rằng ông chưa nhận được sự chấp thuận từ Bộ tổng tư lệnh tối cao. Ông không nói chi tiết. Nếu Paulus có đủ thông tin để cập nhật vào bản đồ hành quân của mình, ông có thể thấy được rằng Tập đoàn quân VI ở quá xa để được giúp.
Trong ngày 16 tháng 12, gió mạnh, buốt bắt đầu thổi từ hướng đông bắc. Mọi thứ phủ đầy băng tuyết: dây điện thoại, cây cối, những mảnh vụn của chiến tranh. Mặt đất đông cứng tới nỗi mỗi bước chân bắt đầu nghe rung vang như bước đi trên kim loại. Đêm, theo sau mặt trời đỏ chói lặn xuống, vùng đất trắng xóa chuyển sang màu xanh bắc cực. Quân Nga bảo vệ Stalingrad đón cái lạnh quen thuộc và lành mạnh. “Hôm qua và hôm nay mùa đông đã bắt đầu ở đây rồi” một người lính viết cho vợ “Ôi băng giá tốt lành. Anh sống ổn, nhưng không nhận được thư nào từ em”.
Không ai hạnh phúc bằng những người lính thuộc Tập đoàn quân 62 của Chuikov trong thành Stalingrad, sau năm tuần nằm nghe tiếng nghiến vào nhau của những tảng băng trôi trên dòng sông Volga không thể qua lại bằng tàu, và tồn tại bằng lượng dự trữ khẩn cấp 12 tấn chocolate cùng một ít hàng hậu cần thả xuống bởi những chiếc máy bay lưỡng cư U-2. Cuối cùng dòng sông cũng đã đóng băng cứng trong đêm 16 tháng 12, khi những tảng băng va vào nhau và dính cứng lại. Một tuyến đường bộ đầu tiên lát ván bắc trên băng. Và sau đó là một tuyến đường ô tô làm bằng cành cây rồi đổ nước lên cho đóng băng và phủ kín hết bờ mặt. Trong bảy tuần kế tiếp, xe bánh xích, 18.000 xe tải cùng 17.000 xe cộ các loại khác đã băng qua. Bất kỳ thương binh nào bây giờ cũng có thể được đưa thẳng qua mặt băng đến bệnh viện dã chiến. Sau đó đại bác cũng được đẩy qua bờ tây, bao gồm cả một khẩu lựu pháo 122mm vốn cần để khai thông sự bế tắc ở nhà máy Tháng Mười đỏ. Hạ nòng ở góc thấp nhất, nó được dùng để bắn thẳng, phá vỡ tòa nhà chính, nơi quân Đức dùng thành một pháo đài.
May mắn nhất với toàn thể Tập đoàn quân 62, là việc thiếu đạn đại bác của phía Đức, điều này đồng nghĩa với việc những trận pháo kích liên miên vào các điểm vượt sông Volga không còn nữa. Nơi bờ sông giờ thường diễn ra cảnh thanh bình. Trông giống như một khu định cư cạnh mỏ mới với những căn lều dã chiến, những chỗ trú che bằng vải dầu trên những chiếc hố bên bờ sông. Ở đó, người ta xẻ gỗ, chặt củi, rồi một người bưu tá trung đoàn đi qua trong ánh mặt trời lạnh giá đến sở chỉ huy cùng túi thư bằng da, mong một tách trà nóng từ chiếc ấm samovar bằng đồng. Những người khác thì đã vác theo những thùng ủ ấm chứa thức ăn nóng cho binh sỹ ở các vị trí tiền tiêu.  Lính tráng giờ  có thể đi về phía sau theo từng tốp, trên lớp băng để để nhà tắm hơi đặt ở bờ đông dòng sông, rồi tối hôm sau trở lại sạch sẽ, sạch rận. 
Ngày 19 tháng 12, tướng Chuikov vượt sang bờ đông dòng Volga lần đầu tiên kể từ ngày ông chuyển Sở chỉ huy trong tháng Mười. Ông đi bộ trên băng, và khi đến bên kia, ông hình như quay lại nhìn về đống đổ nát mà tập đoàn quân của ông đang giữ. Tướng Chuikov đến dự buổi tiệc tổ chức bởi tư lệnh NKVD, thiếu tướng Rogatin, để kỷ niệm lần thứ 24 ngày thành lập đơn vị đặc biệt Cheka. Trên đường về, khi đó Chuikov rất say, ông đã té xuống một hố trên mặt băng và phải được vớt lên từ dòng nước lạnh buốt. Vị Tư lệnh tập đoàn quân 62 xuýt gặp phải một kết cục tệ hại.
Trong khi người Nga vui mừng với thời tiết thấp, thì các bác sỹ trong tập đoàn quân của Paulus lại khiếp sợ điều đó, vì vài lý do. Khả năng hồi phục của bệnh nhân, cả thương binh hay bệnh binh, đều sụt giảm. Cái rét ở nơi trống trải nhanh chóng cho thấy sự chết chóc. Mặt đất đông cứng, nên khi đạn đại bác, rocket Katyusha hay đạn cối nổ, làm gia tăng số lượng đau bao tử. Và kể từ giữa tháng 12 thì “gia tăng đều đặn số lượng những ca bị bỏng tuyết nặng”. Bàn chân không chỉ bị sưng tím – trường hợp này thì chỉ cần điều trị bằng bôi thuốc mỡ, băng bó rồi quay lại hoạt động – mà còn bị đen và có thể hoại thư, thường thì cần phải cắt cụt ngay.
Ngay từ đầu tuần thứ hai của tháng 12, các bác sỹ bắt đầu chú ý đến những ca kỳ lạ. Số lính đột tử “mà không bị thương hay có dấu hiệu bệnh lý nào” tăng nhanh. Khẩu phần ăn quả thật là có cắt giảm nhiều, nhưng theo các bác sỹ, vẫn còn quá sớm để có những ca chết đói. Một nhà nghiên cứu bệnh học được giao phó tìm hiểu viết “Những trường hợp nghi ngờ gồm dầm dãi mưa gió, “kiệt sức” [không ai trong số gần 600 bác sỹ trong vòng vây dám nói đến việc thiếu đói] và trên cả là một chứng bệnh nào đó chưa được xác định cho đến nay”.
Ngày 15 tháng 12, tiến sỹ Girgensohn, một nhà bệnh lý học của Tập đoàn quân VI đang làm việc tại một bệnh viện cạnh phi trường Tatsinskaya, được lệnh bay vào trong vòng vây trong ngày hôm sau. “Không may là chúng tôi không có chiếc dù nào dành cho ngài”, viên phi công bảo ông khi đến trình diện vào sáng ngày hôm sau, nhưng họ bị buộc phải quay lại. Cuối cùng, ngày 17 tháng 12 họ cũng vào được trong Kessel, viên phi công bảo với ông rằng họ đang trên không phận Pitomnik, và Girgensohn nhìn qua khung cửa sổ nhỏ, ông thấy “trên tấm chăn tuyết trắng một khung cảnh lổ chỗ hố đạn nâu”.
Girgensohn tìm được tướng – bác sỹ Renoldi, trưởng ban quân y, trong một toa xe khách chôn ngầm dưới đất ở một góc phi trường. Tướng Renoldi vờ như như biết gì về nhiệm vụ của Girgensohn, bởi tiến sỹ Seggel, chuyên gia nội khoa ở trường đại học Leipzig, đã yêu cầu ông ta hiện diện, và Renoldi trong tình cảnh đó, nghi ngại sự việc bị phóng đại * (Sau đó tướng quân bác sỹ Renoldi quan tâm nhiều hơn. Trong toa xe của mình, ông gần như ớn lạnh khi mô tả sự suy sụp sức khỏe của binh sỹ trong vòng vây là một “thí nghiệm trên diện rộng về ảnh hưởng của sự thiếu đói”). Từ Pitomnik, Girgensohn được đưa đến bệnh viện dã chiến tại ga Gumrak, rất gần Sở chỉ huy của tướng Paulus. Hầm của ông là một boongke lát gỗ, đào vào trong vách một balka. Trang bị xem ra khá “sang trọng”, vì ít ra nó có một lò sưởi bằng sắt và hai giường đôi và, với sự ngạc nhiên của ông ta, khăn trải giường sạch sẽ. Đó là sự tương phản ghê gớm khi so với tiện nghi ngay cạnh bên dành cho thương binh, trong đa số căn lều không được sưởi ấm ở nhiệt độ âm 20.
Girgensohn thảo luận sơ bộ với các sỹ quan quân y sư đoàn, rồi bắt đầu đi quanh trong vùng bị vây, làm các khám nghiệm tử thi trên xác các binh sỹ bị chết không rõ nguyên nhân. (Vì thiếu thốn gỗ ở vùng không cây cối này nên một ngã ba hay ngã tư trên con đường tuyết phủ được đánh dấu bằng một cái chân ngựa đã bị giết. Những ký hiệu chiến thuật hay bảng chỉ đường được gắn trên đỉnh của cái điểm đánh dấu ghê rợn đó). Các cuộc khám nghiệm tử thi được thực hiện ở những nơi bất tiện khác nhau: trong lều, trong hầm, nhà dân hay ngay cả trong toa xe hàng. Cái lạnh ghê gớm đã bảo quản tốt các thi thể, nhưng tất cả bị đông cứng. Việc làm rã đông rất khó vì thiếu thốn chất đốt cần thiết. Một người cán thương phải tốn cả đêm để đảo những tử thi đó quanh một chiếc lò nướng nhỏ bằng gang. Có trường hợp, anh ta ngủ quên và kết quả là có “thi thể một bên đông lạnh, còn một bên thì bị đốt cháy khô”.
Cái lạnh ghê gớm đến nỗi thật khó và cũng rất đau để Girgensohn tháo găng tay cao su ra. Hằng đêm, ông cặm cụi ghi lại kết quả dưới ánh nến. Trong những điều kiện khó khăn như thế, bao gồm cả những trận không kích hay pháo kích của quân Sô viết, Girgensohn cũng đã xoay sở thực hiện được 50 cuộc khám nghiệm tử thi, tính đến cuối tháng. Chính xác là trong một nửa số mẫu thử, ông ta nhận thấy rõ ràng dấu hiệu của việc chết đói: tim và gan teo lại, hoàn toàn không thấy mô mỡ, cơ co rút.
Trong nỗ lực để bù vào lượng bánh mỳ ít calorie và món “canh toàn quốc” (nguyên văn là Wasserzuppe) lêu bêu vài miếng thịt ngựa bé tí, cụm Tập đoàn quân sông Đon ném xuống những hộp thịt pate chứa nhiều chất béo, nhưng đó là một sản phẩm phản tác dụng. Khá thường xuyên, khi một trung sỹ đi tuần qua các vị trí gác, một người lính nói “Tôi ổn, giờ tôi có thứ để ăn” và ăn hết vài miếng pate thịt nhiều chất béo, rồi anh ta chết khi người trung sỹ đi tuần qua lần thứ hai. Chết đói, như Girgensohn quan sát thấy, là “không có kịch tính”.
Tỷ lệ các ca chết đói cao nhất là ở sư đoàn bộ binh 113. Và ở đó, rốt cuộc Girgensohn cũng tìm ra lời giải thích rõ ràng. Viên sỹ quan hậu cần của sư đoàn đã cắt giảm khẩu phần từ trước khi bị vây để tích trữ nhằm phòng ngừa cho việc thiếu hụt hậu cần trong suốt kỳ mưa thu. Kết quả là quân lính đã không được ăn uống, chăm lo đầu đủ từ giữa tháng Mười một. Và đến khi vài sư đoàn bị mất toàn bộ số hàng hậu cần trong lúc rút lui, sở chỉ huy Tập đoàn quân VI đã tập hợp toàn bộ những quân nhu còn lại từ khắp nơi rồi chia đều cho tất cả. Và như vậy là sự khôn ngoan của tay sỹ quan hậu cần đó lại đem về kết quả trái ngược tệ hại cho chính sư đoàn anh ta.
Girgensohn, dù tốn mất bảy năm trong các trại lao động Nga sau ngày đầu hàng, không bao giờ hết quan tâm đến đề tài này. Ông luôn tranh luận mạnh mẽ trước bất kỳ  ý kiến nào về “chứng bệnh stress”, cả về điều kiện phát sinh hay giải thích cho đa số những cái chết không rõ ràng, dù qua những thí nghiệm gần đây cho thấy, loài chuột sẽ chết sau ba tuần không được ngủ, và như thế con người không được ngủ sẽ kiệt đi nhanh chóng. 
Phương thức tấn công đêm của người Nga và những hoạt động liên miên không nghỉ ngơi, rõ ràng là có góp phần vào việc kiệt sức như ông đã nhận thấy. Nhưng giải thích của ông, sau những năm đó, phức tạp hơn. Ông tin rằng sự kết hợp giữa tình trạng kiệt sức, stress và cái lạnh kinh khủng đã làm thay đổi sự trao đổi chất ở binh lính. Điều này có nghĩa là ngay cả khi họ nhận được một lượng, ví dụ như 500 calory một ngày, thì cơ thể họ cũng chỉ hấp thu được một phần nhỏ. Như vậy, có thể nói là chiến thuật của Liên Xô cùng với điều kiện thời tiết và việc thiếu thực phẩm, đã sinh hay, hay ít nhất là góp phần vào việc đẩy nhanh tiến trình chết đói.
Việc thiếu ăn nghiêm trọng cũng làm giảm khả năng qua khỏi của bệnh binh trước các loại bệnh truyền nhiềm như viêm gan, lỵ trong giai đoạn đầu bị vây, và những bệnh nghiêm trọng hơn trong giai đoạn cuối như thương hàn hay sốt Rickettsia. Trên thảo nguyên, không có nước để rửa ráy đừng nói chi tới chuyện quần áo, chỉ đơn giản là vì không có chất đốt để làm tan băng tuyết. “Có chút xíu chuyện mới ở đây” một trung úy pháo thủ tăng thuộc sư đoàn bộ binh mô tô hóa số 29 viết “Đứng đầu danh sách là việc mỗi ngày chúng tớ bị bọn rận càn quét nhiều hơn. Chúng như bọn Nga vậy. Giết một tên, thì có ngay mười tên khác xuất hiện ngay tại chỗ đó”. Rận là vật mang mầm bệnh giết nhiều người ở Stalingrad.
Tuy vậy, mối bận tâm trước mắt của đội ngũ quân y vẫn là tình trạng yếu ớt do thiếu lương thực. “Dần dần, những chiến binh dũng cảm của ta bắt đầu trở nên hom hem”, một trợ lý bác sỹ viết. Rồi ông ta tiếp tục mô tả về một ca cắt cụt đến đùi, ông đã thực hiện dưới ánh đèn pin trong một căn hầm mà không có thuốc tê “Mọi người lãnh đạm với mọi thứ và chỉ nghĩ đến thức ăn”.
Ước vọng của quân Đức là sự pha trộn giữa lòng căm ghét quân thù Bolshevik và sự trả thù trong tương lai. Trong tình trạng gọi là “cơn sốt Kessel”, họ mơ về một quân đoàn xe tăng SS chọc thủng vòng quân của các tập đoàn quân Nga, cứu họ, rồi đảo ngược tình thế cho một chiến thắng vĩ đại, bất ngờ. Họ có khuynh hướng là những người vẫn còn tin, nghe vào những bài diễn thuyết của Goebbel. Đa số giữ tinh thần bằng cách hát vang bài ca của Tập đoàn quân VI, Bài ca sông Volga (Das Wolgalied), nhạc của Franz Lehar: “Một người lính đứng đó, bên bờ Volga, nhìn về phía xa, nơi Tổ quốc anh”.
Ban tuyên truyền của phương diện quân sông Đon dùng cán bộ hỗ trợ là những người Cộng sản Đức, quyết định khai thác vào lòng yêu ca nhạc của lính Đức. Họ phát qua hệ thống loa một bài ca yêu thích cũ, mà trong hoàn cảnh hiện thời nó chứa một đoạn tuýt tàn nhẫn: “Ở quê nhà, ở quê nhà, đang chờ ngày sum họp”. Những người cộng sản Đức dưới sự giám sát của NKVD bao gồm Walter Ulbricht (sau này là chủ tịch nước Đông Đức), nhà thơ Erich Weinert, cây bút Willi Bredel với một nhóm tù nhân Đức – bốn sĩ quan và một lính – được tuyển dụng vì chống phát xít. Họ dạy những “anh mõ làng”, đây là những lính Hồng quân được chọn để bò lên vùng chết người trước tuyến quân Đức và hét to những câu khẩu hiệu, những đoạn tin tức qua loa. Vài người biết chút tiếng Đức, và đa số hi sinh.
Hoạt động chính của các đội tuyên truyền là chuẩn bị các chương trình dài tầm 20-30 phút, ghi âm với nhạc, thơ, bài hát và tin tuyên truyền (đặc biệt là tin về việc chọc thủng mặt trận quân Ý). Sau đó các chương trình này được chạy trên các máy hát băng và phát ra các loa có công suất lớn được gắn trên các xe tải hoặc thỉnh thoảng được đầy lên phía trước bằng xe trượt còn dây thì kéo dài ra phía sau. Hầu hết các chương trình kiểu này bị hỏa lực cối Đức nện ngay tức khắc, bởi các sỹ quan sợ quân của họ có thể sẽ nghe. Nhưng trong suốt tháng Mười hai, phản ứng như thế thưa dần, yếu dần vì thiếu đạn dược.
Nhiều mánh khóe âm thanh khác nhau được áp dụng ví dụ như “tiếng tích tắc đơn điệu của đồng hồ” kèm theo đó là tuyên bố rằng cứ mỗi bảy giây có một người lính bị giết trên mặt trận phía Đông. Hoặc “tiếng răng rắc của âm thanh tuyên truyền” rồi ngâm nga: “Stalingrad, nấm mồ chung của quân đội Hitler” và điệu tăng gô chết chóc lại vang lên trên thảo nguyên trống trải giá buốt. Và như một nốt nhạc cộng thêm, thỉnh thoảng là tiếng hú đứng tim của rocket Katyusha tiếp theo sau từ một dàn phóng “đàn dương cầm Stalin”.
Truyền đơn của phía Nga hoàn thiện khá nhiều, giờ được viết bằng tiếng Đức. Tù binh được thẩm vấn tại Ban 7 xác nhận rằng “ảnh hưởng nhất là những tờ viết về gia đình, vợ và con cái”. “Binh lính hăm hở đọc truyền đơn Nga dù rằng họ không tin” một tù binh Đức thừa nhận. Vài người còn “khóc khi nhìn thấy tờ truyền đơn in hình xác một lính Đức và đứa trẻ ngồi khóc bên cạnh. Mặt bên kia là vài vần thơ đơn giản của nhà văn Erich Weinert”. Những tù binh không biết rằng Weinert, người viết bài thơ “Hãy nghĩ đến con!” đang ở rất gần, ngay trong sở chỉ huy phương diện quân Sông Đôn.
Có lẽ phần ảnh hưởng nhất của chiến dịch tuyên truyền là thuyết phục quân Đức rằng họ sẽ không bị bắn nếu bị bắt. Nhiều sỹ quan tin vào luận cứ rằng không thể đầu hàng vì quân Nga sẽ giết họ ngay.  Có một tờ truyền đơn kết thúc bằng một tuyên bố của Stalin bắt đầu thuyết phục cả những sỹ quan cấp thấp rằng chính sách Liên Xô đã thay đổi: “Nếu lính hoặc sỹ quan Đức bỏ ngũ, Hồng quân phải bắt giữ làm tù binh và đảm bảo cho mạng sống của họ” (Mệnh lệnh số 55 Dân ủy Quốc Phòng, J. Stalin).
Việc một đoàn quân lớn của Đức bị hợp vây lần đầu tiên ở cách xa Tổ quốc, được lệnh phải trụ lại và sau cùng bị bỏ rơi trước định mệnh, dĩ nhiên là tạo nên những tranh luận đầy cảm xúc sau nhiều năm. Nhiều người Đức có dự phần hoặc các sử gia đã đổ lỗi cho tướng Paulus không chịu không tuân lệnh và phá vây. Nhưng nếu một ai ở vào vị trí của Paulus, người bị tước bỏ những thông tin sống còn, (sẽ phải hiểu) nguyên nhân dẫn đến vụ việc đó chính là người chỉ huy trực tiếp của ông, thống chế Von Manstein.
Ai có thể phục vụ được hai chủ?” tướng Strecker ghi chú khi Hitler loại bỏ chiến dịch Thunderclap, vốn dự tính triển khai tiếp theo sau chiến dịch Bão Mùa đông. Nhưng quân đội Đức chỉ có duy nhất một chủ. Ghi nhận từ năm 1933 cho thấy sự nô lệ của đa số sỹ quan cao cấp, bất lực cả về chính trị lẫn danh dự. Trên thực tế, thảm họa và sự nhục nhã tại Stalingrad là cái giá của quân đội phải trả cho sự ngạo mạn xấc xược từ những đặc quyền và thanh thế dưới cái ô của Chủ nghĩa Quốc Xã.  Không có sự lựa chọn chủ, vì chỉ có vài người tham gia vào nhóm của Henning von Tresckow và Stauffenberg.
Nhiều thời gian đã tiêu tốn vào việc tranh luận rằng một cuộc phá vây có khả thi hay không trong nửa sau tháng Mười hai, dù ngay cả các tư lệnh thiết giáp cũng hiểu rằng “cơ hội thành công của cuộc phá vây giảm bớt sau mỗi tuần”. Cánh bộ binh thì ít ảo tưởng hơn. “Bọn anh, những người sống sót” một hạ sỹ viết về nhà “khó có thể đi nổi vì cái đói và yếu sức”. Bác sỹ Alois Beck, khá đúng, khi tranh luận rằng “cuộc phá vây mà thành công” thì đó là một “huyền thoại”. Quân Nga đã bắn hạ “nhiều lính Đức nửa-đóng-băng như bắn thỏ”, bởi những người đó quá yếu không thể lội qua nổi một đụn tuyết, băng giá phủ đầy trên mặt, và mang theo súng đạn. “Mỗi bước đi đều kiệt lực” quan sát của một sỹ quan thuộc sở chỉ huy Tập đoàn quân VI “Như là trận Berezina”.
Cuộc tranh luận “phòng thủ hay phá vây” do vậy chỉ hoàn toàn mang tính học thuật so với thực tế. Nói tóm lại là người ta nghi ngờ con người thông minh kinh khủng Manstein đã nhận ra điều này từ lúc đó. Ông đã tạo một màn kịch vĩ đại bằng cách gửi thiếu tá Eismann, sỹ quan quân báo của mình vào trong vòng vây vào ngày 19 tháng Mười hai để chuẩn bị cho Tập đoàn quân VI triển khai chiến dịch Thunder Clap. Nhưng hẳn nhiên Manstein đã thừa biết Hitler, vốn đã tái xác nhận quyết định không rời dòng Volga, sẽ không bao giờ đổi ý.
Trong bất kỳ trường hợp nào, Manstein cũng phải nhận thức rõ rằng nỗ lực giải cứu đã tiêu tan. Các sư đoàn xe tăng của tướng Hoth đang phải chiến đấu để trụ lại tuyến Myshkova với thương vong nặng nề, ngay cả trước khi khối lượng quân to lớn của tập đoàn quân cận vệ số 2 (Nga) của tướng Malinovsky được triển khai. Và Manstein, luôn được cập nhật thông tin đầy đủ về tình trạng và hình thái quân đội trong vòng vây, hiểu rằng quân của Paulus không còn đi nổi, đừng nói chi tới chiến đấu trên chặng đường dài 40 đến 60 dặm xuyên qua bão tuyết và giá rét. Tập đoàn quân VI, với ít hơn 70 chiếc tăng thiếu hậu cần, không có lấy một cơ hội để chọc thủng tuyến tập đoàn quân 57 (Nga). Và quan trọng nhất, là Manstein biết, chiến dịch Sao Thổ nhỏ, với ba Tập đoàn quân Sô viết đã thọc sâu vào hậu phương ông ta, làm thay đổi tình huống.
Rất đơn giản, Manstein cảm thấy rằng, dưới ngọn đèn lịch sử và quân đội Đức, ông ta phải được nhìn nhận là đã cố gắng làm mọi thứ, ngay cả khi ông ta tin rằng, và rất đúng, là cơ hội duy nhất Tập đoàn quân VI có để tự cứu mình đã qua từ gần một tháng trước đó. Lương tâm hình như bứt rứt của ông sau sự kiện này phải được gắn liền với một sự thật rằng, với việc Hitler từ chối rút khỏi vùng Caucasus, ông cần Tập đoàn quân VI trói chân bảy Tập đoàn quân Liên Xô vây quanh nó. Nếu Paulus nỗ lực phá vây với chút ít quân sống sót, thì trong điều kiện đáng thương đó, thì họ chẳng thể dùng được gì trong giai đoạn khủng hoảng.

tải về 2.43 Mb.

Chia sẻ với bạn bè của bạn:
1   ...   8   9   10   11   12   13   14   15   ...   18




Cơ sở dữ liệu được bảo vệ bởi bản quyền ©hocday.com 2024
được sử dụng cho việc quản lý

    Quê hương