Phần 1: Toàn thế giới nín thở chờ đợi Chương 1: thanh kiếm hai lưỠi của barbarossa


Chương 13: Lần tấn công sau cùng của tướng Paulus



tải về 2.43 Mb.
trang8/18
Chuyển đổi dữ liệu25.03.2018
Kích2.43 Mb.
#36541
1   ...   4   5   6   7   8   9   10   11   ...   18

Chương 13: Lần tấn công sau cùng của tướng Paulus
Ngoài kia, trên thảo nguyên, những sư đoàn Đức như đang sống trong một thế giới khác với cuộc chiến đang diễn ra trong thành phố. Ở đó cũng có những tuyến phòng ngự cần phải giữ, những trận đánh trinh sát cần phải đẩy lùi, nhưng cuộc sống vẫn tiếp diễn bình thường, đặc biệt so với tiền tuyến. Vào Chủ nhật, ngày 25 tháng Mười, các sỹ quan thuộc một trung đoàn trong sư bộ binh Bavaria số 376 còn mời tướng Edler von Daniels, sư đoàn trưởng của họ, đến tham gia cuộc thi xạ thủ Munich Oktoberfest.
Mối quan tâm hàng đầu vào lúc này là việc chuẩn bị quân dụng cho tiết đông. “Ở đây chẳng có thú vị chút nào cả” một người lính của sư đoàn bộ binh 113 viết về nhà “Ngút tầm mắt không một ngôi làng, một khu rừng, cũng không có cả cây cỏ hay bụi rậm gì cả, và không một giọt nước”. Tù binh Nga và đám Hiwis bị bắt đào hầm, hào. “Chúng tôi cần phải sử dụng tốt đám này bởi chúng tôi đang quá thiếu người”, một hạ sỹ quan cao cấp viết. Vì thảo nguyên không cây cối, nên các sư đoàn bộ binh buộc phải cho xe tải và các đội làm việc vào thành Stalingrad lấy xà, rầm từ các đống đổ nát để về làm nóc hầm. Ở phía nam Stalingrad, sư đoàn bộ binh 297 đào những cái hang nhân tạo ở hông balkas để làm chuồng ngựa, làm kho và ngay cả một bệnh viện dã chiến, tất cả những thứ thiết bị được chuyển đến từ Đức bằng đường sắt. Trong cả tiết hạ Ấn từ đầu đến giữa tháng Mười, quân Đức nghiêm túc chuẩn bị cho vị trí của họ. Ngay cả những người lính trẻ nhất cũng nhận ra chỉ dấu của việc đào hầm hào: họ phải ở đó trong cả mùa đông.
Hitler đã ban hành các chỉ thị cho mùa đông. Ông ta mong đợi “một cuộc phòng ngự chủ động cao” và một “cảm giác tự hào về chiến thắng”. Xe tăng được bảo vệ khỏi cái lạnh và các cuộc pháo kích trong các boongke bê tông đặc biệt, nhưng vật liệu cần thiết thì không bao giờ đến kịp, nên xe pháo vẫn ở ngoài đồng trống. Sở chỉ huy Tập đoàn quân VI cũng lên kế hoạch kỹ lưỡng cho mùa đông. 
Ngay cả phim huấn luyện của Phần Lan: Làm thế nào để xây phòng tắm hơi ở chiến trường, cũng được yêu cầu, nhưng không có công tác chuẩn bị nào mang tính tin cậy. “Quốc trưởng lệnh chúng tôi bảo vệ vị trí cho đến người cuối cùng” Groscurth viết thư về Đức, “Vài điều chúng tôi phải làm cho phù hợp, ngay cả việc mất một vị trí khó có thể ảnh hưởng đến tình hình. Chúng tôi hiểu sẽ khó khăn nếu không có chỗ trú ẩn trên thảo nguyên trải rộng”.
Tổng hành dinh Quốc trưởng cũng quyết định rằng phần lớn những súc vật kéo của Tập đoàn quân VI phải được gửi về hậu phương cách hơn trăm dặm. Điều này nhằm để tiết kiệm cho các đoàn tàu hậu cần vốn được yêu cầu để tải về phía trước một khối lượng lớn cỏ khô. Tất cả chừng 150,000 ngựa, nhiều trâu và cả lạc đà được tích lại ở khoản giữa sông Don và sông Volga. Mô tô và các đơn vị sửa chữa cũng được đưa về phía sau. Lý  do đằng sau của việc di chuyển này là không thể hiểu nổi đứng từ góc độ logic đơn thuần, bởi nó mang lại một sai lầm khủng khiếp trong thảm họa. Tập đoàn quân VI, đặc biệt phần lớn các đơn vị pháo binh, y tế, chủ yếu dựa vào ngựa làm sức cơ động. 
Về tinh thần, theo một thượng sỹ thuộc sư đoàn bộ binh 371: “Lên và xuống theo số lượng thư đến”. Hầu hết mọi người dường như nhớ nhà ghê gớm. “Ở đây, mọi người như trở thành người hoàn toàn khác”, một hạ sĩ quan cao cấp của Sư đoàn bộ binh mô tô hóa số 60 viết “và điều này thật không dễ dàng. Chính xác là như thể chúng ta đang sống trong một thế giới khác. Khi thư tới, mọi người nhào ra khỏi những “căn nhà nhỏ” của họ - và họ dường như không thể ngăn lại được. Cứ vào lúc đó, tôi đứng nhìn với nụ cười khoan dung”.
Tư tưởng đã chuyển sang không khí Giáng sinh: Mùa lễ hội đẹp nhất cả năm. Lính tráng bắt đầu trao đổi về quà cáp với vợ. Ngày 3 tháng mười một, một sư đoàn đưa ra “yêu cầu về nhạc cụ, đồ chơi, đồ trang trí cây Giáng sinh và nến”.
Danh sách nghỉ phép cũng đã lên, đây là một chủ đề gây hi vọng cũng như thất vọng cho nhiều người hơn bất cứ thứ gì khác. Tướng Paulus vẫn cứ khăng khăng rằng sự ưu tiên này nhằm cho những người lính “đã ở  chiến trường khắc nghiệt miền Đông mà không được nghỉ ngơi kể từ tháng 6 năm 1941”. Với những người may mắn có được một chuyến đi nghỉ dài, thời gian trôi đi trong một cảm giác siêu thực. Mái nhà giờ đây dường như ở đẳng cấp mơ ước với những người đã từng ở tại đó. Khi trở về với gia đình, họ nhận ra rằng không thể kể về những gì họ đã trải qua. Rất nhiều người đã hoảng sợ khi nhận ra có vài thường nhân biết được chút ít những gì đang diễn ra. 
Sự thật duy nhất dường như là những cơn ác mộng hiện hữu mà họ không thể thoát ra được. Ý tưởng về việc đào ngũ ám ảnh họ, nhưng chỉ có một số ít là nghiêm trọng. Những kỷ niệm mạnh mẽ nhất của kỳ nghỉ phép là lúc nói lời giã từ. Với đa số, đó là lần sau cùng. Họ biết họ quay lại với địa ngục ngay lúc nhìn thấy bảng hiệu chỉ đường đến Stalingrad: “Vào cấm thành. Những kẻ bàng quang sẽ đặt mạng của mình và đồng đội vào vị trí nguy hiểm”. Nhiều người đọc thấy không biết nên bảo nó là một trò đùa hay thật.
Trang phục mùa đông được bắt đầu phát từ hạ tuần tháng Mười. “Một công việc điển hình kiểu Đức” một sỹ quan ghi lại “với quần, áo khoát hai mặt màu xám và trắng”. Nhưng binh lính ngoài thảo nguyên khô cằn bị rận lây lan nhanh chóng tăng lên. “Lúc này không có gì đáng quan tâm ngay cả vấn đề tắm rửa. Hôm nay mình đã hạ sát nhóm đầu tiên gồm tám tên rận”. Những lời đùa về bọn “du kích nhỏ bé” tràn lan. Vài tay Hiwis người Nga đã bảo cho các đồng đội Đức một phương thức để tống khứ chúng. Bằng cách chôn các thứ đồ đạt dưới đất và chừa lại một góc trống. Bọn rận rệp sẽ bò đến đó và sẽ bị đốt cháy.
Lúc đó, các bác sỹ trung đoàn bắt đầu gia tăng mối quan ngại về sức khỏe tổng quát của quân lính. Sau đó, đến tận tháng Giêng khi các báo cáo y khoa của tập đoàn quân 6 được bàn bạc tại Berlin, họ vẽ ra một biểu đồ hình tròn về mức độ tử vong gia tăng bởi các căn bệnh truyền nhiễm, bệnh lỵ, sốt Rickettsia và bệnh Paratyphus. Bệnh “Sốt cong người” này bắt đầu tăng nhanh chóng vào tháng Bảy. Dù tổng số ca bệnh tính ra tương đương với năm trước, nhưng các nhà chuyên môn ở Berlin đã bị kinh ngạc vì số binh lính không qua khỏi lại gấp đến năm lần.
Về phía Nga, họ ghi nhận số lượng bệnh binh Đức với vẻ ngạc nhiên và gọi đó là “căn bệnh Đức”. Các bác sỹ ở Berlin chỉ có thể tự biện rằng quân lính bị suy giảm đề kháng vì căng thẳng kéo dài và khẩu phần ăn thiếu chất. Những vị trí xung yếu nhất lại là các binh sỹ trẻ, với độ tuổi từ 17 đến 22. Họ nhận thấy nhóm đó chiếm đến 55% số ca tử vong. Cho dù nguyên nhân chính xác là gì, thì cũng không nghi ngờ rằng sức mạnh của Tập đoàn quân VI đã bắt đầu đáng quan ngại vào đầu tháng Mười một, khi cái viễn cảnh tệ hại về một mùa đông vùi mình trong boongke dưới tuyết xuất hiện.
Trong khi Tập đoàn quân Sô viết số 64 triển khai các cuộc tấn công để kéo bớt quân từ nội thành Stalingrad, Tập đoàn quân 57 chiếm một ngọn đồi chiến lược giữa sư đoàn Rumani số 20 và sư đoàn bộ binh số 2. Thì ngoài kia, trên thảo nguyên Kalmyk, Tập đoàn quân 51 đã càn quét sâu vào các vị trí của quân Rumani. Trong một đêm, thượng úy Aleksandr Nevsky và đại đội tiểu liên của anh, đã thâm nhập qua tuyến phòng thủ, đột kích vào sở chỉ huy sư đoàn bộ binh Rumani số 1 đang đóng trong một ngôi làng hậu tuyến, và họ gây ra một trận hỗn loạn. Nevsky bị thương nặng đến hai lần trong hành động đó. Ban chính trị phương diện quân Stalingrad, theo chỉ thị mới của Đảng về việc tôn vinh lịch sử Nga, đã quyết định rằng Nevsky phải theo huyết thống của dòng dõi danh tiếng mà anh tình cờ trùng tên. Và người “chỉ huy anh dũng, người thừa kế tổ tiên vinh quang” đã được tặng thưởng Huân chương Cờ đỏ.
Trong thành phố, cuộc tấn công lớn của quân Đức đã đuối dần từ cuối tháng Mười vì mệt mỏi và thiếu đạn dược. Trận đánh sau cùng của sư đoàn Bộ binh 79 (Đức) vào nhà máy tháng Mười đỏ bị gãy vụn vào ngày 1 tháng Mười Một dưới làn hỏa lực pháo hạng nặng bắn từ bên kia sông Volga. “Ảnh hưởng của pháo địch rõ ràng đã làm yếu đi sức mạnh tấn công của các sư đoàn” sở chỉ huy Tập đoàn VI ghi nhận. Sư đoàn bộ binh 94 tấn công vào túi phía bắc Spartakovka cũng mắc cạn.
“Trong hai ngày vừa qua” một báo cáo gửi về Moscow vào ngày 6 tháng 11 ghi nhận “quân địch đã thay đổi chiến thuật. Có khả năng vì những thiệt hại lớn trong ba tuần vừa qua, chúng không còn sử dụng các đội hình lớn”. Dọc khu vực nhà máy tháng Mười đỏ, quân Đức đã chuyển sang “tấn công trinh sát để thăm dò các vị trí yếu ở chỗ tiếp giáp giữa các trung đoàn”. Nhưng những trận “tấn công bất ngờ” này không có được chút thành tựu nào hơn so với những trận trước đó vốn được hỏa lực mạnh dọn đường.
Trong suốt tuần đầu tháng Mười một, quân Đức bắt đầu “rào kẽm gai ở cửa sổ và lỗ đạn pháo” tại các ngôi nhà được gia cố của họ nhằm chống lựu đạn ném vào. Để chọc thủng lớp rào đó, tập đoàn quân 62 cần phải có pháo binh cỡ nhỏ, mà hiện giờ có rất ít, và việc vận chuyển qua sông Volga cũng khó khăn nhiều. Thế là Hồng quân tìm hiểu cách chuồn cho được lựu đạn để phá rào.
Các lực lượng Sô viết phản công bằng mọi cách mà họ có trong giai đoạn đầu tháng Mười một. Các chiến thuyền thuộc giang đội Volga, một số được trang bị tháp pháo T-34 gắn trên sàn tàu dội hỏa lực vào sư đoàn tăng số 16 (Đức) ở Rynok. Và các “cuộc ném bom đêm dữ dội của địch quân” tiếp tục làm giải khả năng chịu đựng của lính Đức.
Ngày 7 tháng Mười một, tướng Groscurth viết thư cho người anh “Trên cả mặt trận phía Đông, ngày này, chúng tôi đợi một cuộc tấn công lớn nhằm chào mừng ngày cách mạng tháng Mười”. Nhưng lễ kỷ niệm lần thứ 25 này chỉ giới hạn ở cấp địa phương với binh lính Sô viết nhằm phát động phong trào “tiêu diệt nhiều bọn Frizt trong cuộc thi đua xã hội chủ nghĩa”. Đoàn viên Komsomol đặc biệt được mong chờ là sẽ lấy được mức thành tích cao. Trong Tập đoàn quân 57, một sỹ quan chính trị đã báo cáo “trong số 1697 đoàn viên, có đến 678 người chưa từng giết tên Đức nào”. Nhưng người kém cỏi có lẽ phải chịu trách nhiệm.
Có vài hoạt động kỷ niệm không được nhà cầm quyền cho phép. Một tiểu đoàn trưởng và phó thứ nhất, mang viện binh sang cho sư đoàn bộ binh 45 đã say rượu và vắng mặt mất 13 tiếng đồng hồ. Cả tiểu đoàn bị bỏ lang thang vật vờ bên bờ đông Volga. Một số các sư đoàn thuộc phương diện quân Stalingrad chả có mấy tý để ăn mừng, ngay cả khẩu phần vodka đặc biệt cũng không được phát, hoặc nó đến quá trễ. Có cả vài đơn vị không được nhận thực phẩm trong ngày đó.
Với nhiều binh lính, vì không có vodka, đã dùng đến những thứ thay thế nguy hiểm. Trong trường hợp xấu, tác hại không xảy ra liền. Như trong đêm sau ngày lễ, hai mươi tám binh sỹ của sư đoàn bộ binh 248 đã chết trên đường hành quân trong thảo nguyên Kalmyk. Không có yêu cầu hỗ trợ y tế nào và không ai tự nhận là biết được điều gì điều gì đã xảy ra. Các sỹ quan phịa rằng họ chết vì lạnh và vì đuối sức trên đường hành quân. Nhưng NKVD tỏ ra nghi ngờ, và cho mổ khám nghiệm 24 tử thi. Nguyên nhân chết được xác định là do dùng quá mức “rượu phản-hóa-học”. Binh lính đã uống một lượng lớn hỗn hợp chiết ra từ những thứ dùng để chống hơi độc. Cái thứ dung dịch độc hại này dường như có chứa cồn. Một trong số những người sống sót được thẩm vấn trong bệnh viện. Anh ta thú nhận rằng có vài người tuyên bố rằng đó là “một loại rượu”. NKVD không chấp nhận rằng đó có thể là một trường hợp trung thực của hành vi trộm cắp đồ quân dụng và nghiện rượu. Trường hợp này được cho rằng là “một hành động phá hoại, đầu độc binh sỹ”.
Ngày 8 tháng Mười một, một ngày sau ngày cách mạng tháng Mười, Hitler có một bài diễn thuyết dài cho các “Chiến binh già” Quốc xã tại Burgerbraukeller ở Munich. Nhiều người ở tập đoàn quân 6 nghe bài này qua sóng phát thanh. “Tôi muốn đến Volga” ông ta tuyên bố đầy cứng rắn “nói cho chính xác là tại một điểm, một thành phố cụ thể. Bởi tình cờ nó mang tên của Stalin, chính ông ta. Nhưng đừng nghĩ rằng tôi muốn hành quân tới đó chỉ vì lý do trên, mà vì nó chiếm một vị trí rất quan trọng… Tôi muốn chiếm được nó, và mọi người nên hiểu rằng, chúng ta khá ổn, chúng ta đủ giỏi để chiếm nó! Chỉ còn sót lại vài mẩu nhỏ. Vài người hỏi: tại sao họ không tiến nhanh hơn? Đó là vì tôi không muốn có một Verdun thứ hai, mà thích dùng những nhóm xung kích nhỏ để hòan thành công việc. Thời gian không còn quan trọng. Vì không còn chiếc thuyền nào có thể ngược xuôi sông Volga. Đó mới là điểm quyết định!”.
Bài diễn thuyết của ông ta chiếm một vị trí trong số những ví dụ vĩ đại nhất về sự kiêu căng láo xược trong lịch sử. Quân đoàn châu Phi của Rommel vừa phải rút khỏi Alamein về Lybia và lực lượng Âu-Mỹ đã đổ bộ lên bờ biển Bắc Phi trong chiến dịch Ngọn đuốc. 
Ribbentrop nhân cơ hội đó đề nghị tiếp xúc với Stalin thông qua sứ quán Liên Xô ở Stockholm. “Hitler từ chối lắp tự”, viên sỹ quan cao cấp Luftwaffe ghi nhận. “Ông ta bảo rằng thời khắc yếu ớt này không thích hợp cho đàm phán với kẻ thù”. Lời khoác lác đần độn về Stalingrad, theo sau lời từ chối trên không chỉ đơn thuần là bỏ mất vận may mà nó còn đưa ông ta vào vòng thảm họa. Kẻ mị dân đã trói tay các tư lệnh chiến trường. Nỗi lo ngại tệ hại nhất của Ribbentrop ngay từ đêm trước chiến dịch Barbarossa đã sớm được khẳng định.
Tại Stalingrad, thời tiết mùa đông thật sự đến ngay vào ngày hôm sau, với nhiệt độ giảm xuống còn âm mười tám độ C. Dòng Volga, vì kích thước to lớn của nó, là một trong các con sông sau cùng ở Nga đóng băng, tàu bè bắt đầu không đi lại được. “Các tảng băng trôi va vào nhau, vỡ ra, nghiến vào nhau” Grossman viết, “và những âm thanh sột sọat đó như tiếng cát trôi, có thể nghe thấy từ rất xa bờ sông”. Và đó là thứ âm thanh ma quái với những người lính trong thành phố.
Đó cũng là giai đoạn đáng sợ với tướng Chuikov, nhưng theo cách gọi của ông là chiến đấu trên hai mặt trận: với con sông Volga thù nghịch ở phía sau, và với quân thù đang tấn công vào dải đất hẹp còn lại ở phía trước. Sở chỉ huy Tập đoàn quân VI, hiểu rõ vấn đề quân Nga đang đối mặt, nên đã tập trung hỏa lực chống lại việc vượt sông. Một chiếc thuyền hơi nước thuộc giang đội Volga, mang theo đại bác và đạn dược vượt sông, bị bắn trúng và chìm xuống một luồng nước cạn ở bờ sông. Một chiếc khác chạy dọc đến, và toàn bộ hàng được chuyển sang dưới làn đạn dày đặc. Các thủy thủ làm việc trong làn nước lạnh buốt sẵn sàng hy sinh như những công binh Pháp bắc cầu qua Berezina hơn một thế kỷ trước.
“Những chiếc mũi xà lan to, cùn chậm chạp đè lên lớp băng phía dưới, và đằng sau họ là dòng nước đen ngòm nhanh chóng phủ một lớp băng mỏng”. Những chiếc tàu cọt kẹt dưới áp lực của băng và dây cáp lách tách bởi sức căng. Vượt sông giờ trở thành “như một chuyến thám hiểm địa cực”.
Trong suốt mười ngày đầu tháng Mười một, áp lực của quân Đức vẫn gay gắt với những trận tấn công qui mô nhỏ liên miên, thỉnh thoảng có xe tăng hỗ trợ. Những trận chiến có thể chỉ với các nhóm nhỏ, nhưng vẫn dữ dội. Một đại đội thuộc sư đoàn bộ binh 347, giữ trận địa chỉ cách bờ sông Volga 200 m, chỉ còn 9 người sau khi bị tràn ngập trong ngày 6 tháng Mười một, nhưng đại đội trưởng, trung úy Andreev, đã tập hợp những người sống sót và tiến hành phản công với súng tiểu liên. Một nhóm viện binh, đã đến kịp lúc, cắt rời quân Đức ra và cứu được bến vượt sông phía bắc của Tập đoàn quân 62. Phía Nga đã cẩn thận quan sát hệ thống tín hiệu bằng pháo sáng của quân Đức và biến nó thành lợi thế của mình bằng cách phỏng theo việc phối hợp màu với đạn pháo sáng thu được. Một trung đội trưởng được ghi nhận là đã lừa pháo binh Đức chuyển luồng hỏa lực vào chính quân mình đúng vào thời khắc nhạy cảm.
Với dải phân tuyến hẹp, việc đào ngũ vẫn là giải pháp trốn thoát sau cùng, nhưng hiện giờ lại có những trường hợp lính Đức cố vượt tuyến. Ở giữa địa đoạn của sư đoàn bộ binh cận vệ 13, một lính Đức phóng ra từ những ngôi nhà họ đang phòng thủ và chạy thẳng về phía một tòa nhà do quân Nga giữ. Hành động của anh ta rõ ràng được hỗ trợ bởi vài đồng đội, bởi họ hét lên “Rus! Đừng bắn!”. Nhưng khi người đàn ông đó chạy được nửa chặng đường của khu phân tuyến, một lính Nga vừa mới đến bắn từ cửa sổ tầng hai và trúng anh ta. Người thương binh Đức bò, tiếp tục hét lên “Rus! Đừng bắn!”. Nhưng người lính Nga bắn lần nữa, và lần này giết chết anh ta. Thi thể anh nằm đó trong phần còn lại của ngày. Đến đêm, đội tuần tra Nga bò lên, nhưng phát hiện ra phía Đức đã gửi người lên trước để lấy vũ khí và tài liệu. Nhà cầm quyền Sô viết quyết định rằng cần phải “giải thích nhiều hơn để binh sỹ hiểu, không nên bắt vào những người đảo ngũ”.
Các đơn vị được nhắc nhở trong nhật lệnh số 55 rằng khuyến khích đối xử tốt với quân địch đào ngũ”. Ở cùng khu vực trên, “có ghi nhận quân Đức giơ tay lên khỏi hào để được dính thương”. Bộ phận chính trị ngay lập tức được chỉ thị để đưa các hoạt động tuyên truyền lên sóng phát thanh và truyền đơn.
Ngày 11 tháng 11, ngay trước bình minh, cuộc tấn công sau cùng của quân Đức bắt đầu. Một đội hình chiến đấu mới được tổ chức từ các sư đoàn bộ binh 71, 79, 100, 295, 305 và 389, tăng viện bởi bốn tiểu đoàn công binh sung sức, tấn công vào những túi kháng cự còn lại. Cho dù hầu hết những sư đoàn đó đã kiệt quệ bởi những trận đánh gần đây, nhưng nó vẫn là một cuộc tập trung qui mô.
Một lần nữa, không đoàn số 8 dọn đường, nhưng tướng Von Richthofen đã hầu như mất hết kiên nhẫn với cái mà ông gọi là “tính rập khuôn của lục quân”. Vào đầu tháng, trong một cuộc họp với tướng Paulus và tướng Seydlitz, ông đã phàn nàn rằng “pháo binh đã không khai hỏa và bộ binh không tận dụng được kết quả của không kích”. Kết quả ngoạn mục nhất của Luftwaffe trong ngày 11 tháng 11 là hạ gục được ống khói nhà máy, nhưng họ thất bại trong việc tiêu diệt Tập đoàn quân 62 trong hầm hào của họ.
Quân Siberi của đại tá Batyuk chiến đấu dữ dội để giữ vị trí của họ ở đồi Mamaev Kurgan, nhưng điểm đột kích chính của quân địch lại quá lên phía bắc nửa dặm, hướng về xí nghiệp hóa chất Lazur và cái gọi là “vợt tennis”, đó là tuyến đường sắt vòng tròn và đường tránh tàu có hình dạng như vậy. Lực lượng chính ở hướng này là sư đoàn bộ binh 305 và hầu hết các tiểu đoàn công binh được tung vào hỗ trợ công kích. Những tòa nhà chính yếu đã bị chiếm nhưng rồi lại bị quân Nga tái chiếm sau một trận phản công quyết liệt. Ngày hôm sau, cuộc tấn công này coi như dừng lại.
Ở quá về phía bắc, quân thuộc sư đoàn bộ binh 138 của Lyudnikov bị cắt rời ở phía sau xí nghiệp Barrikady với bờ sông Volga, vẫn kháng cự dữ dội. Họ chỉ còn chừng ba mươi viên đạn cho mỗi khẩu tiểu liên, súng trường, và khẩu phần hằng ngày giảm xuống dưới 50 gam bánh mỳ khô. Ban đêm, những chiếc máy bay lưỡng cư U-2 cố thả xuống vài túi đạn dược và lương thực, nhưng sự va chạm làm hư hỏng đạn dược và gây tắc vũ khí.
Đêm 11 tháng 11, Tập đoàn quân 62 triển khai một trận tấn công gồm sư đoàn bộ binh 95 ở phía Đông Nam xí nghiệp Barrikady. Mục đích, theo báo cáo gửi cho Shcherbakov vào ngày 15 tháng 11, là để ngăn quân Đức rút để bảo vệ sườn. Đều này mâu thuẫn với thông tin trong hồi ký của chính Chuikov, trong đó ông khẳng định rằng mình và ban tham mưu không biết chút gì về trận phản công lớn diễn ra vào ngày 19 tháng 11, cho đến khi được thông báo từ sở chỉ huy Phương diện quân vào ngay đêm hôm trước ngày đó.
Những cuộc tấn công của phía Liên Xô, tuy vậy, ngay lập tức dừng lại bởi sức mạnh của pháo binh Đức và buộc phải trú ẩn. Từ 5 giờ sáng ngày 12 tháng 11, một “cơn bão lửa” nổ ra kéo dài hơn một giờ rưỡi đồng hồ. Rồi một lực lượng mạnh quân Đức tấn công, cố đánh vào vị trí tiếp giáp giữa hai trung đoàn bộ binh Nga. Lúc 9h50 sáng, phía Đức tung thêm quân, và một bộ phận tiến thẳng về phía các bồn dầu ở bờ sông Volga. Một trong số các trung đoàn bộ binh Liên Xô cố trụ lại trước mũi tấn công chính, trong khi các nhóm xung kích khác thì xây quanh và cắt rời các tay súng tiểu Đức đã thâm nhập. Ba chiếc xe tăng Đức bị cháy trong một trận đánh ác liệt. Tiểu đoàn thứ nhất của trung đoàn kể trên  chỉ còn 15 tay súng. Nhưng bằng cách nào đó họ đã trụ được ở tuyến phòng thủ chỉ cách bờ sông chừng 70 thước cho đến khi tiểu đoàn khác Chỉ còn một người sống sót trong số những thủy quân lục chiến bảo vệ sở chỉ huy trung đoàn. Tay phải anh bị dập nát và không bắn súng được. Anh bò ngược vào hầm, và rồi biết chắc rằng không còn lực lượng dự bị nào nữa, anh lèn đầy lựu đạn vào nón. “Tôi có thể ném bằng tay trái” anh giải thích. Gần đó, một trung đội thuộc trung đoàn khác cũng chỉ còn có bốn tay súng và đạn dược đã cạn. Một thương binh được gửi về phía sau với thông điệp: “Hãy bắn pháo vào đúng vị trí của chúng tôi. Trước mặt chúng tôi có rất đông bọn phát xít. Vĩnh biệt các đồng chí, chúng tôi không lùi bước”.
Tình hình hậu cần của Tập đoàn quân 62 càng khó khăn hơn khi băng bắt đầu trôi trên sông Volga. Khi mặt sông đóng băng thì cần tàu phá băng ở cả hai bờ. Ngày 14 tháng Mười một, chiếc tàu hơi nước Spartakovets mang 400 lính và 40 tấn hàng hậu cần sang bờ phải và trở về mang theo 350 thương binh dưới làn mưa đạn, nhưng có rất ít tàu khác có thể qua lại được như vậy. Các đội cứu hộ luôn sẵn sàng trong đêm để giúp bất kỳ chiếc tàu nào bị kẹt trên băng, và như thế, thành một mục tiêu dễ dàng cho pháo binh Đức. “Nếu họ không thể hoàn thành công việc” tướng Richthofen ghi chú cay độc “khi sông Volga còn đang đóng băng và quân Nga ở Stalingrad đang chịu thiếu thốn ghê gớm, thì họ sẽ không bao giờ thành công được. Thêm vào đó, ngày đang ngắn dần và thời tiết thì càng tệ hơn”.
Tướng Paulus căng thẳng tột độ. Bác sỹ riêng của ông khuyến cáo rằng ông sẽ suy sụp tinh thần nếu không chịu nghỉ ngơi. “Hitler bị Stalingrad ám ảnh” một trong các sỹ quan tham mưu của tướng Paulus giải thích. “để tiêu diệt những điểm kháng cự còn lại trong tháng 11, ông ta thậm chí còn ra lệnh lấy cả lính tăng vào bộ binh cho các đợt tấn công”. Các tư lệnh thiết giáp kinh hãi trước sự phi lý điên cuồng này, nhưng họ không thể làm tướng Paulus bỏ qua mệnh lệnh đó. Sau cùng, họ cố vét cho đủ từ nguồn lái xe dự bị, đầu bếp, tải thương, liên lạc … - trên thực tế là bất kỳ ai miễn không phải là các tổ lái có kinh nghiệm của họ - để giữ cho các sư đoàn hoạt động. Thiệt hại ở các trung đoàn tăng cho thấy rất nghiêm trọng, nếu không nói là thảm khốc trong thời gian đó.
Tướng von Seydlitz cũng rất quan ngại. Vào giữa tháng 11, sở chỉ huy tập đoàn quân 6 nhận định rằng: “42% số tiểu đoàn được cho là bị loại khỏi vòng chiến”. Hầu hết các đại đội bộ binh còn dưới 50 tay súng và phải được nhập lại. Tướng Seydlitz cũng quan ngại với tình trạng của hai sư đoàn xe tăng 14 và 24, chúng cần phải được tái bổ sung sẵn sàng cho cuộc tấn công mùa đông không tránh được từ phía Sô viết. Theo cách nhìn của ông, cuộc chiến sẽ còn kéo dài trong năm. Chính bản thân Hitler cũng thừa nhận với ông trong bữa ăn trưa tại Rastenburg rằng quân Đức bắt đầu phải chuẩn bị sẵn sàng cho “mọi thử thách của mùa đông Nga” từ đầu tháng Mười. Nhưng các đơn vị tại Stalingrad lại bị bỏ ra trong các hướng dẫn phòng thủ mùa đông, vì lúc đó Hitler đã khoe khoang tại Munich rằng không còn quan trọng.
Sỹ quan và hạ sĩ quan có kinh nghiệm bị thương vong rất nghiêm trọng. Chỉ còn một số rất ít những chiến binh dày dạn còn sống ở cả hai phía. “Hiện giờ bọn Đức không giống với bọn mà chúng tôi đã chiến đấu hồi tháng Tám” một lính cựu phía Liên Xô nhất xét “và phía chúng tôi cũng khác”. Lính tiền phương của cả hai bên dường nhận đều nhận thấy rằng những ai dũng cảm nhất, tốt nhất luôn là người chết trước nhất.
Các sỹ quan tham mưu Đức cũng lo ngại về mùa đông sắp đến. Những tính toán giản đơn cũng cho thấy Đức sẽ không thể chịu nổi mức thương vong đó lâu hơn nữa. Bất kỳ khái niệm phiêu lưu anh hùng nào cũng thành cay đắng. Cảm giác về điềm gở bắt đầu. Như là biểu tượng của quyết tâm báo thù, cách mới mẻ mà Hồng quân thực hiện ở Stalingrad khi tiễn đưa một vị tư lệnh nổi danh hy sinh, là bắn một loại đạn “không phải lên trời, mà vào bọn Đức”.
Chương 14: Tất cả cho tiền tuyến
Việc lập kế hoạch cho chiến dịch Uranus, cuộc đại phản công của quân Sô viết để đánh bại tập đoàn quân VI, có một thời kỳ thai nghén dài bất thường nếu so với sự nóng vội đến mức mang đến thảm họa của Stalin trong mùa đông trước đó. Nhưng vào lúc này, lòng khao khát báo thù đã giúp ông kìm chế được tính khí dữ dội của mình.
Ý tưởng ban đầu của chiến dịch được ghi nhận là vào thứ bảy, ngày 12 tháng Chín, ngày mà tướng Paulus gặp Hitler ở Vinnitsa, và đó cũng là ngày tướng Zhukov được triệu tập về điện Kremlin sau những trận tấn công thất bại vào cánh bắc của Paulus. Tướng Vasilevsky, tổng tham mưu trưởng, cũng có mặt.
Ở đó, trong văn phòng của Stalin, dưới ánh nhìn từ bức chân dung mới được treo gần đây của Aleksandr Suvorov, khắc tinh của người Thổ trong thế kỷ 18, và của Mikhail Kutuzov, đối thủ nhùng nhằng của Napoleon, tướng Zhukov phải trình bày về những gì không hợp lý đã diễn ra. Ông ta tập trung vào một vấn đề, đó là cả ba tập đoàn quân không đầy đủ được đưa vào tấn công mà thiếu pháo binh, xe tăng. Stalin yêu cầu cho biết những gì cần thiết. Tướng Zhukov trả lời rằng họ cần phải có một tập đoàn quân đủ sinh lực, với một quân đoàn xe tăng, ba lữ đoàn thiết giáp cùng ít nhất 400 khẩu lựu pháo, và tất cả phải được một Tập đoàn quân không quân hỗ trợ. Vasilevsky đồng tình. Stalin không nói gì cả. Ông lôi tập bản đồ với những ghi chú về các lực lượng dự trữ của Bộ tổng tư lệnh tối cao và nghiên cứu một mình. Trong khi đó tướng Zhukov và tướng Vasilevsky cùng lui về một góc phòng. Họ khe khẽ trao đổi với nhau về các giải quyết vấn đề. Cả hai đều đồng ý rằng phải có một giải pháp khác.
Nhưng Stalin có một đôi tai sắc bén hơn họ tưởng. Ông hỏi vọng qua:
“Và đó là cái gì, giải pháp khác là thế nào?”.
Hai vị tướng được gọi trở lại:
“Hãy quay về bộ Tổng tham mưu, suy nghĩ thấu đáo những gì cần làm ở vùng Stalingrad”. Stalin bảo họ.
Tối hôm đó, Zhukov và Vasilevsky quay lại. Stalin không để phí thời gian. Ông chào hai vị tướng với cái bắt tay theo kiểu doanh nhân khiến cả hai ông ngạc nhiên.
“Rồi, hai anh có gì nào?”. Ông hỏi:
“Ai là người báo cáo?”
“Ai cũng được, chúng tôi cùng ý kiến”. Vasilevsky trả lời.
Cả ngày hôm ấy, hai vị tướng ngồi ở Bộ Tổng tham mưu (STAVKA), nghiên cứu các khả năng và các dự kiến thành lập các Tập đoàn quân mới, các quân đoàn xe tăng mới trong vòng hai tháng kế tiếp. Càng nhìn vào bản đồ của mấu lồi phía Đức với hai cánh rất dễ tổn thương, họ càng bị thuyết phục rằng chỉ có một giải pháp đáng giá và nó làm “thay đổi tình huống chiến lược quyết định ở phía Nam”.
Thành phố Stalingrad, tướng Zhukov bàn rằng, phải trụ được trong một cuộc chiến tiêu hao, và chỉ vừa đủ quân để giữ tuyến phòng thủ còn tồn tại. Không một đơn vị nào bị tiêu hao vào các trận phản công nhỏ lẻ, nếu không thật sự cần thiết để tránh việc quân thù chiếm được toàn bộ bờ Tây sông Volga. Rồi khi phía Đức tập trung vào việc chiếm thành phố, Bộ Tổng tư lệnh tối cao sẽ bí mật tập hợp các Tập đoàn quân mới từ hậu tuyến, tiến hành hợp vây theo một vòng cung rộng, sử dụng các mũi tấn công thọc sâu ở cách xa mấu lồi.
Đầu tiên, Stalin cho thấy chỉ nhiệt tình chút ít. Ông sợ rằng họ có thể bị mất Stalingrad và phải chịu một thảm họa bẽ mặt khác, nếu không có vài hành động ngay tức khắc. Ông đề xuất một thỏa hiệp, là mang các điểm xuất phát tấn công về gần thành phố, nhưng Zhukov trả lời rằng nếu như vậy thì Tập đoàn VI của Đức cũng sẽ ở gần nhau hơn và vì thế, chúng có thể bố trí lại đội hình để chống các lực lượng tấn công của họ. Rốt cuộc Stalin cũng thấy được lợi thế của một chiến dịch đầy tham vọng.
Điểm mạnh hơn hẳn của Stalin so với Hitler là ông ít xấu hổ. Sau thảm họa năm 1941, ông không chút nào cân nệ về việc làm sống lại các tư tưởng quân sự vốn bị thất sủng từ cuối những năm 20 đến đầu những năm 30. Các lý thuyết “chiến dịch thọc sâu” với việc cơ giới hóa các “Tập đoàn quân xung kích” để thủ tiêu quân địch không còn phải tồn tại bí mật theo kiểu dị giáo nữa. Trong cái đêm 13 tháng Chín ấy, Stalin hậu thuẫn hoàn toàn cho bảng kế hoạch chiến dịch thọc sâu đó. Ông dặn dò hai vị tướng về các “biện pháp bảo mật cao nhất”. “Không ai ngoài ba chúng ta ở đây, được biết về nó cho đến khi triển khai”. Trận tấn công đó được đặt tên là Chiến dịch Uranus (Sao Thổ).
Tướng Zhukov không chỉ là một nhà lập kế hoạch giỏi mà ông còn là một người triển khai giỏi nhất. Ngay cả Stalin cũng bị ấn tượng bởi nghị lực để đạt được mục đích một cách không khoan nhượng của ông. Tướng Zhukov không muốn lặp lại sai lầm ở đầu tháng Chín khi tấn công vào cánh bắc Stalingrad, đã sử dụng các lực lượng thiếu huấn luyện và trang bị kém.
Nhiệm vụ huấn luyện thật quá lớn. Zhukov và Vasilevsky gửi các sư đoàn dự bị vừa thành lập xong đến các khu vực khá yên tĩnh của mặt trận để huấn luyện ngay dưới làn đạn. Điều này cũng tạo nên sự thuận lợi không dự kiến trước vì đã làm tình báo quân đội Đức lúng túng. Đại tá Reinhard Gehlen, nghị lực cao nhưng hơi quá sức để đứng đầu Fremde Heere Ost, bắt đầu nghi ngờ rằng phía Hồng quân chuẩn bị cho một cuộc tấn công vu hồi lớn chống lại cụm Tập đoàn quân Trung tâm.
Báo cáo trinh sát và thẩm vấn tù binh đã xác định cái mấu lồi gốc mà chiến dịch Sao Thổ nên nhắm vào là khu vực quân Rumani trấn giữ ở các cánh của Tập đoàn quân VI.
Trong tuần thứ ba của tháng Chín, tướng Zhukov đã đến thực tế ở cánh bắc mấu lồi quân Đức trong tình trạng bí mật cao nhất. Aleksandr Glichov, một trung úy thuộc đại đội trinh sát của sư đoàn bộ binh 221, đang đêm được lệnh đến báo cáo ở sở chỉ huy sư đoàn. Tại đó, anh thấy có hai chiếc Willy. Một đại tá làm việc với anh, rồi bảo anh giao khẩu tiểu liên và lên ngồi ghế trước của một trong hai chiếc xe. Nhiệm vụ của anh là hướng dẫn một vị sỹ quan cao cấp đi dọc trận địa. Glichov phải chờ đến tận nửa đêm, rồi một dáng người vạm vỡ, không cao mấy mà còn có vẻ bị thấp lại bởi các cận vệ, xuất hiện từ phía hầm sở chỉ huy. Vị sỹ quan cao cấp ấy leo lên phía sau chiếc xe mà không nói một lời. Glichov, theo yêu cầu, đã hướng dẫn người lái xe từ đài chỉ huy đơn vị này đến cái khác dọc theo chiến tuyến. Khi họ trở về thì chỉ còn chút xíu nữa là rạng đông, anh được trả lại khẩu tiểu liên và cho quay về sư đoàn với thông điệp là đã hoàn thành nhiệm vụ. Nhiều năm sau chiến tranh, anh mới biết được từ vị cựu tư lệnh rằng người sỹ quan cao cấp mà anh đã hộ tống trong đêm ấy, có lúc chỉ cách tuyến quân Đức vài trăm mét, chính là Zhukov. Có lẽ không thật sự cần thiết với một vị Phó Tổng tư lệnh tối cao khi tự thân nghiên cứu từng đài chỉ huy từng đơn vị trên mặt đất và đối diện với lực lượng địch. “Nhưng Zhukov là Zhukov!”.
Trong khi tướng Zhukov có chuyến thị sát bí mật ở cánh bắc thì Vasilevsky đến thăm các Tập đoàn quân 64, 57, 51 ở phía nam Stalingrad. Ông thúc dụng tiến đến tuyến các hồ muối trên thảo nguyên. Ông không cho biết lý do thật đó chính là việc thiết lập các vị trí bảo vệ tốt cho chiến dịch Sao Thổ.
Bảo mật và lừa địch là yếu tố sống còn để ngụy trang cho công tác chuẩn bị của họ, mà trong việc này phía Hồng quân có sẵn hai điểm lợi thế rất mạnh. Thứ nhất là Hitler không chịu tin rằng Liên Xô còn quân dự trữ, đơn cử là các đơn vị xe tăng mạnh để dùng cho các chiến dịch thọc sâu. Thứ hai là nhận định tình huống sai lầm của phía Đức, dù Zhukov không biết điều này. (Bên Đức cho là) những trận tấn công vô dụng vào quân đoàn xe tăng XIV Đức vào cánh bắc gần Stalingrad đã làm cho Hồng quân không thể thực hiện một trận tấn công hữu hiệu ở vùng này, điều tối thiểu cho một trận hợp vây nhanh, mạnh cả Tập đoàn quân VI.
Trong suốt mùa hè, khi Đức sản xuất ra được gần 500 chiếc xe tăng một tháng, tướng Halder đã nói với Hitler rằng phía Liên Xô sản xuất được tới 1.200 chiếc. Vị Quốc trưởng đập bàn và bảo rằng điều đó là không thể. Nhưng thật ra con số đó còn quá thấp. Trong năm 1942, sản lượng xe tăng Sô viết tăng từ 11.000 chiếc trong 6 tháng đầu năm lên tới 13.600 chiếc trong nửa năm còn lại, và trung bình là hơn 2.200 chiếc một tháng. Sản lượng phi cơ cũng tăng từ 9.600 chiếc ở 6 tháng đầu lên tới 15.800 chiếc ở nửa còn lại.
Sự ám chỉ rõ ràng rằng Liên Xô, dù bị mất đi các vùng công nghiệp chính, vẫn sản xuất vượt trội Đế chế, làm Hitler giận dữ hoài nghi. Các lãnh đạo Quốc xã luôn không chịu hiểu về sức mạnh từ lòng yêu nước của người Nga. Họ cũng ước lượng không đúng về chương trình di tản công nghiệp liên tục đến vùng Ural và quân sự hóa lực lượng lao động. Hơn 1500 xí nghiệp được di chuyển từ các khu vực miền Tây Liên Xô về phía sau sông Volga, đặc biệt là vùng Ural, và lắp lại bởi những tập đoàn kỹ thuật viên làm việc quần quật trong tiết đông. Chỉ có một ít nhà máy có vài lò sưởi. Còn đa số thậm chí đầu tiên còn không có cửa sổ, mái nhà.
Và một khi dòng sản xuất đã được khởi động thì họ không bao giờ ngừng nghỉ, trừ phi phải dừng do hỏng hóc, sự cố điện hoặc thiếu thốn những thứ cụ thể nào đó. Nguồn nhân lực chiếm vị trí không quan trọng mấy. Bởi nhà cầm quyền Soviet đơn giản là lấy từ những công dân mới. Chế độ quan liêu Sô Viết làm tốn thời gian và trí tuệ của công dân, và lãnh phí đời họ trong các tai nạn công nghiệp, cũng lãnh đạm với cá nhân như các nhà kế hoạch quân sự thể hiện trước lính họ, còn sự hy sinh tập thể - cả ép buộc và tự nguyện – cho thấy kết quả thật đáng kinh ngạc.Vào thời điểm Hitler vẫn không chịu đồng ý cho ý tưởng dùng nữ công nhân Đức trong các nhà máy, thì việc sản xuất của phía Liên xô phụ thuộc vào sự động viên số lượng lớn các bà mẹ và chị em phụ nữ. Hàng vạn phụ nữ trong quần áo công nhân – “chiến sỹ toàn diện” – nhiệt thành tin rằng những gì họ đang làm là giúp đỡ những người đàn ông của họ. Các áp phích luôn nhắc họ về vai trò của mình: “Bạn đã làm gì cho tiền tuyến?”.
Tại Chelyabinsk, một trung tâm công nghiệp chiến tranh lớn ở Ural, được biết đến như là thành-phố-xe-tăng. Tất nhanh, các trường huấn luyện tăng mọc cạnh nhà máy. Đảng tổ chức mối liên hệ giữa công nhân và các trung đoàn, trong khi các nhà máy quyên góp tiền để có nhiều xe tăng hơn. Một pháo thủ tăng tên Minakov sáng tác ra một giai điệu diễn tả được cảnh tượng của dây chuyền sản xuất Ural:
Cái chết cho quân thù 

Nụ cười cho bè bạn

Không có gì tốt hơn

Một chiếc T-34”
Vài người sau đó đề nghị rằng các công nhân dây chuyền nên thành lập thành trung đoàn xe tăng tình nguyện Ural thứ nhất. Các nhà tổ chức tuyên bố nhận được, trong vòng 36 tiếng kể từ khi dán poster đầu tiên “4363 đơn xin gia nhập trung đoàn, trong đó có tới 1253 là phụ nữ”.
Ngay cả các trại lao động cưỡng bức cũng cống hiến lượng đạn dược sản xuất cao hơn nhiều so với những thứ tương tự ở Đức. Dù cũng có chút ít trường hợp phá hoại. Tù nhân trại Gulag vẫn tin là đánh bại được quân xâm lược.
Việc giúp đỡ của Đồng Minh được nhắc đến rất ít từ các nguồn Sô viết, vì lý do tuyên truyền, nhưng sự đóng góp của họ để giúp cho Hồng quân chiến đấu trong mùa thu năm 1942 không nên bị bỏ qua. Stalin đã phàn nàn với Zhukov về chất lượng của các máy bay tiêm kích Hurricane được cung cấp bởi Churchill, và về những chiếc xe tăng Anh, Mỹ không so được với T-34. Hàng hóa ủy thác của Anh như ủng quân dụng, áo khoác không thông dụng với lính Sô viết vì nó vô dụng trong mùa đông. Nhưng xe cộ của Mỹ - nhất là các dòng Ford, Willy, xe jeep và xe tải Studebaker – cùng thực phẩm, gồm hàng triệu tấn lúa mỳ đựng trong các bao tải trắng có in hình đại bàng Mỹ, và thịt hộp, thịt bò muối từ Chicago, đã làm nên sự khác biệt to lớn, dù không nhận thấy, cho sức kháng cự của Liên Xô. 
Tướng Zhukov hiểu rõ tầm quan trọng của việc có được các tư lệnh có khả năng cho cuộc chiến cơ giới. Lúc cuối tháng Chín, ông đã đề nghị Stalin bổ nhiệm đại tướng Constantin Rokossovky, một cựu nạn nhân của NKVD và Beria, làm tư lệnh phương diện quân Sông Đôn, kéo dài từ chót phía bắc của tây Stalingrad cho đến Kletskaya, ở ngay khúc ngoặc lớn của sông Đôn. Cùng lúc, trung tướng Nikolay Vatutin chịu trách nhiệm ở phương diện quân Tây Nam mới tái lập ở cánh phải của Rokossovsky, đối diện với tập đoàn quân Rumani số 3. Ngày 17 tháng Mười, sở chỉ huy phương diện quân sông Đôn đã ra lệnh tất cả thường dân “trong vòng 15 dặm kể từ tiền duyên” phải được di tản hết trước ngày 29 tháng Mười.
Một phần của công tác an toàn, ủy ban quân quản muốn có thể giấu quân trong làng vào ban ngày trong quá trình hành quân tiếp cận. Đó là một hoạt động to lớn, khi những người di cư phải mang theo “bò, cừu, lợn, gà của mình và thực phẩm cho một tháng”. Trâu bò được dùng làm súc vật kéo xe, và tất cả các máy móc nông nghiệp, bao gồm cả máy gặt và những thứ máy móc có giá trị khác phải được rút đi. Vài nghìn thường dân được được huy động vào các quân đoàn xây dựng có trên 100.000 người khỏe mạnh, để sửa chữa cầu đường dọc tuyến Saratov – Kamyshin – Stalingrad và tất cả những con đường khác dẫn ra mặt trận.
Từ tuyến đường sắt mới lắp Saratov – Astrakhan, các tuyến được hướng lệch ra ga đầu mối ngoài thảo nguyên nơi các lực lượng dự bị của STAVKA xuống tàu, vẫn còn ở hậu phương, trước khi phân bổ đến các địa điểm tập trung ngay sau mặt trận. Hệ thống đường sắt của Sô viết, căng thẳng với việc vận chuyển 1300 toa mỗi ngày cho cả ba phương diện quân, đã làm rất cừ. Nhưng sự lộn xộn là không thể tránh khỏi. Có một sư đoàn mất gần hai tháng rưỡi để đáp tàu quân sự từ một ga tránh ở Uzbekistan.
Kế hoạch của chiến dịch Sao Thổ khá đơn giản, nhưng đầy tham vọng táo bạo. Nỗ lực chính triển khai ở đầu cầu Serafimovich, cách Stalingrad chừng hơn một trăm dặm về phía Tây, trên một địa đoạn dài 40 dặm ở nam sông Đôn nơi tập đoàn quân Rumani số 3 không đầy đủ sức mạnh chiếm giữ, tiến về hướng đông - nam. Điểm đích của cuộc tấn công ở mãi sâu ở phía hậu phương Tập đoàn quân VI để các lực lượng cơ giới Đức đang ở trong và xung quanh Stalingrad không thể trở về kịp thời, tạo nên sự khác biệt. 
Trong khi đó, một mũi tấn công chia cắt gần hơn từ một đầu cầu khác ở nam sông Đôn tại Kletskaya, rồi công kích vào hậu phương của quân đoàn lục quân XI của Strecker trải dài từ khúc ngoặc lớn đến khúc ngoặc nhỏ của sông Đôn. Sau cùng, từ phía Nam Stalingrad, một mũi thiết giáp thọc sâu vào hướng tây bắc để gặp hướng tấn công chính ở đâu đó quanh Kalach. Và như vậy sẽ hợp vây Toàn bộ tập đoàn quân VI của Paulus và một phần Tập đoàn quân xe tăng IV của Hoth. Tất cả huy động tới 60% lực lượng xe tăng của Hồng quân vào chiến dịch Sao Thổ.
Việc bảo mật ở phía Soviet diễn ra tốt đẹp hơn dự kiến, dù một số tù binh Hồng quân và lính đảo ngũ nằm trong tay quân Đức. Trong mùa hè 1942, tình báo Đức đã thất bại không nhận ra việc thành lập 5 Tập đoàn quân xe tăng mới (thật ra mỗi Tập đoàn chỉ tương đương một quân đoàn xe tăng Đức) và 15 quân đoàn xe tăng (mỗi quân đoàn tương đương một sư đoàn tăng Đức mạnh). Đến thời điểm bùng nổ, bên Hồng quân càng quan tâm hơn đến maskirovka, một thuật ngữ bao gồm việc đánh lừa, ngụy trang, và hoạt động bảo mật bằng cách giảm tối đa lượng thông tin điện đài. Mệnh lệnh được chuyển từ người sang người và không được viết ra. Các biện pháp đánh lừa còn bao gồm cả việc tăng cường hoạt động quanh Moscow.
Phía Đức nhận định rằng vòng cung Rzhev là khu vực thích hợp nhất cho một cuộc tấn công phía Sô viết trong tháng 11. Trong khi đó ở phía nam, các sư đoàn tiền duyên dọc theo các địa đoạn sống còn của chiến dịch Sao Thổ lại được lệnh thiết lập trận địa phòng ngự, đó chỉ là để cho không thám Đức nhận thấy, và phương diện quân Voronezh, vốn chả dính dáng gì, lại được lệnh chuẩn bị phương tiện công binh, thuyền bè như thể để tấn công. Hoạt động quân sự ở các khu vực khác được che dấu bởi việc xây dựng tuyến phòng thủ, cho phía đối phương có ấn tượng về kế hoạch của một cuộc tấn công. Các đơn vị tham gia chiến dịch Sao Thổ, hành quân tiếp cận vị trí trong đêm, ẩn nấp vào ban ngày, đó là một nhiệm vụ khó khăn trên thảo nguyên trống trải, nhưng kỹ thuật ngụy trang của Hồng quân hữu hiệu đáng ngạc nhiên. Không ít hơn 17 cầu giả được bắt qua sông Đôn để thu hút sự chú ý của không quân Đức khỏi 5 chiếc cầu thật, mà trên đó Tập đoàn quân xe tăng 5, quân đoàn xe tăng 4, hai quân đoàn kỵ binh và nhiều sư đoàn bộ binh vượt sông.
Phía nam Stalingrad, quân đoàn cơ giới 13, 4, quân đoàn kỵ binh 4 và các đơn vị hỗ trợ - tổng cộng hơn 160.000 người, 430 xe tăng, 550 đại bác, 14.000 xe cộ và hơn 10.000 ngựa – được đưa qua sông Volga ở phía hạ lưu thành từng đợt trong đêm, đó là một công việc khó khăn và nguy hiểm với băng trôi dọc xuống dòng sông. Họ phải ngụy trang trước bình minh. Phía Hồng quân dĩ nhiên không thể che dấu toàn vẹn cho chiến dịch sắp đến, nhưng, như một sử gia đã nói, là “kỳ công nhất là dấu được mức độ của cuộc tấn công”.
Đầu mùa thu năm 1942, đa số tướng lĩnh Đức - dù không chia sẽ với Hitler niềm tin rằng Hồng quân đã bị kết liễu - cũng tin rằng họ đã gần như kiệt quệ. Nhưng trái lại, các sỹ quan tham mưu có xu hướng hoài nghi. Khi đại úy Winrich, một sỹ quan thành tích cao từ quân đoàn Châu phi gia nhập vào sở chỉ huy tập đoàn quân 6, trung tá Niemeyer, trưởng ban tình báo, chào mừng anh với những đánh giá ảm đạm hơn mong đợi “Bạn mến,” ông ta nói “đến mà xem bản đồ tình huống này. Nhìn vào các điểm đánh dấu đỏ ấy. Quân Nga bắt đầu tập trung ở phía bắc tại đây, và phía nam tại đây” Niemeyer cảm thấy các sỹ quan cao cấp, dù quan ngại đến mối đe dọa với tuyến thông tin liên lạc của họ, mà không nhận ra sự nguy hiểm của một trận hợp vây nghiêm trọng.
Tướng Paulus và tướng Schmidt có xem tất cả các báo của của Niemeyer nhưng cho rằng ông ta đã phóng đại. Cả hai vị tướng tin là sẽ có các cuộc tấn công lớn với pháo binh và xe tăng, nhưng không nghĩ đến một trận đánh thọc sâu về phía hậu phương, sử dụng đúng chiến thuật Schwerpunk của Đức. (Sau sự kiện này, tướng Paulus dường như bị rơi vào một sai lầm rất người là ông tự thuyết phục rằng mình đã nhận thấy tất cả mối nguy hiểm. Nhưng tướng Schmidt thì thẳng thắn thừa nhận rằng họ đã nhận định sai nghiêm trọng về kẻ thù). 
Mặt khác, tướng Hoth, có lẽ có cái nhìn rõ hơn về mối đe dọa của một cuộc tấn công từ phía nam Stalingrad.Tất cả các vị tướng khi về Đức họp đều bị thuyết phục rằng Liên Xô không có khả năng mở hai chiến dịch, và đánh giá của đại tá Gehlen, dù thận trọng bóng gió tất cả các tình huống có thể, tiếp tục chỉ ra rằng đánh vào cụm tập đoàn quân Trung tâm là vị trí thích hợp nhất cho trận tấn công chính trong mùa đông (của phía Nga). Tổ chức của ông ta đã thất bại trong việc nhận ra sự hiện diện của tập đoàn quân xe tăng 5 thuộc phương diện quân sông Đôn đối diện với quân Rumani. Chỉ có một dấu hiệu ngăn chặn ngắn trước khi trận công kích diễn ra.
Khía cạnh ấn tượng nhất lúc đó là vấn đề do tướng Paulus và tướng Schmidt đưa ra, rằng, mỗi khi Tập đoàn quân VI gửi về phía sau các báo cáo của họ, thì có nghĩa là sẽ không làm gì thêm nếu những mối đe dọa đó không nằm trong phạm vi trách nhiệm của họ. Tính thụ động này hoàn toàn đi ngược với truyền thống quân sự Phổ, vốn cho rằng việc chần chừ đợi lệnh và không chịu tự suy nghĩ là không thể chấp nhận với một vị tư lệnh. Còn Hitler, dĩ nhiên, đã khoa trương lên để dẹp tan kiểu độc lập đó trong các tướng lãnh của ông, và Palus, vốn bẩm sinh là một sỹ quan tham mưu hơn là một tư lệnh chiến trường, đã tán thành.
Sau này, tướng Paulus thường bị đổ lỗi là không tuân theo lệnh của Hitler, khi viễn cảnh của một thảm họa đã quá rõ ràng, nhưng thật ra, sai lầm chính yếu của ông ở cương vị tư lệnh chính là việc thiếu chuẩn bị để đối mặt với nguy cơ. Đây là tập đoàn quân của chính ông, đối tượng bị đe dọa. Lý ra, những gì cần làm, là ông phải rút phần lớn lực lượng thiết giáp của mình ra khỏi các trận đánh tiêu hao trong thành phổ và tổ chức thành một lực lượng cơ giới mạnh sẵn sàng phản ứng nhanh. Đồ quân dụng, đạn dược cũng nên được tái phối trí lại để xe pháo có thể sẵn sàng lên đường sau một báo động ngắn. Công tác chuẩn bị tương đối nhỏ này – và việc không tuân theo Quốc trưởng – có thể giúp cho Tập đoàn quân VI có được khả năng phòng thủ hữu hiệu trong thời khắc nguy ngập.
Hitler đã ra lệnh trong một chỉ thị Quốc trưởng đề ngày 30 tháng 6 rằng các đơn vị không nên liên lạc với những lực lượng Đồng minh. Tuy nhiên, tướng Schmidt đã bị các thành viên ban tham mưu (của Tập đoàn quân VI) thuyết phục bỏ qua lệnh đó. Một sỹ quan cùng với một máy truyền tin không dây của Tập đoàn quân VI được đưa tới chỗ của quân Rumani ở hướng Tây – Bắc. Đó chính là trung úy Gerhard Stock, người từng nhận được huy chương vàng môn ném lao trong kỳ Olympic Berlin 1936. Và tướng Strecker cũng sắp xếp để đưa một sỹ quan liên lạc từ quân đoàn XI.
Những tín hiệu cảnh báo đầu tiên đến từ cánh sông Đôn khoảng vào cuối tháng 10. Tướng Dumitrescu, tư lệnh tập đoàn quân Rumani số 3, đã tranh luận khá dài rằng địa đoạn của ông chỉ có thể phòng thủ được nếu họ có được toàn vẹn bờ sông, và khi đó sông Đôn sẽ là chướng ngại vật chống tăng chính của họ. Dumitrestcu cũng đề nghị chiếm phần bờ sông còn lại ở phía Nam vào cuối tháng Chín, nhưng cụm Tập đoàn quân B, trong khi chấp nhận đề xuất của ông ta, lại giải thích rằng tất cả các đơn vị trù bị phải được tập trung vào Stalingrad, nên việc chiếm đó vẫn chỉ là sắp thực hiện.
Rồi một khi quân Rumina bắt đầu nhận ra phía địch đang tăng cường, họ bắt đầu thêm lo ngại. Mỗi sư đoàn của họ, chỉ có bảy tiểu đoàn mạnh, phải trải ra trên một tuyến dài mười hai dặm. Điểm yếu chí mạng của họ là thiếu các vũ khí chống tăng hữu hiệu. Họ chỉ có vài khẩu pháo chống tăng loại 37mm Pak do ngựa kéo, mà quân Nga gán cho cái hỗn danh là “người gõ cửa” bởi đạn của nó không thể xuyên nổi lớp giáp của T-34. Các khẩu đội đại bác của Rumani cũng thiếu đạn vì ưu tiên chính là dành cho tập đoàn quân 6.
Ban tham mưu của Dumitrescu đã báo cáo các mối quan ngại của họ lên sở chỉ huy cụm Tập đoàn quân vào ngày 29 tháng Mười, và Nguyên soái Antonescu cũng vạch ra cho Hitler lưu ý đến tình trạng nguy hiểm mà quân ông ta đang đối mặt, nhưng Hiter, khi đó vẫn mong đợi tin tức của việc chiếm toàn bộ Stalingrad chỉ trong vài ngày nữa, và vì có những sự kiện quan trọng khác nên quên lãng mất. Cuộc lui binh của tướng Rommel sau trận El Alamein nhanh chóng theo sau là báo động về hạm đội Anglo-Mỹ trực chỉ đến Bắc Phi. Rồi cuộc đổ bộ của chiến dịch Ngọn đuốc hướng sự chú ý của ông ta vào nước Pháp. Thế là việc các lực lượng Đức tiến vào vùng chưa bị chiếm đóng của Pháp trong ngày 11 tháng Mười đã diễn ra cũng lúc với đợt tấn công sau cùng của Paulus vào Stalingrad.
Sau đó cảnh báo về một trận tấn công phía Sô viết vào vòng cung bắt đầu dồn dập. Sỹ quan liên lạc báo cáo trong ngày 7 tháng 11 rằng “Tập đoàn quân Rumani 3 đợi một trận tấn công mạnh với xe tăng của quân địch trong ngày 8 tháng 11 ở khu vực Kletskaya – Raspopinskaya”. Vấn đề duy nhất là quân Rumani tiếp tục báo động tấn công từ quân Nga trong 24 giờ tiếp sau nữa, và khi không có gì xảy ra, nhất là sau ngày kỷ niệm cách mạng tháng Mười hoàn toàn yên tĩnh, việc đó trở thành câu chuyện nhát ma của trẻ con.
Tướng Von Richthofen, mặt khác, lại được thuyết phục nhiều thêm bởi bằng cớ có được từ các phi đoàn trinh sát của mình. Ngay trong đợt tấn công của tướng Paulus vào ngày 11 tháng 11, ông vẫn dành ra một bộ phận của quân đoàn không quân VIII để tấn công quân Nga tập trung đối diện với tập đoàn quân Rumani 3. Ngày hôm sau, ông viết vào nhật ký:
Trên sông Đôn, quân Nga cương quyết vận chuyển những thứ chuẩn bị cho một trận tấn công vào quân Rumani. Quân đoàn không quân VIII, cả không đoàn Bốn cùng lực lượng không quân Rumani tiếp tục công kích chúng. Quân dự bị của chúng hiện đã được tập trung lại. Rồi tôi e là sẽ có tiến công!
Ngày 14 tháng 11, ông ghi lại: “Thời tiết đang tệ dần đều, sương mù làm đóng băng trên cánh phi cơ cùng những cơn mưa bão lạnh buốt. Mặt trận Stalingrad yên tĩnh. Máy bay ném bom của chúng ta đã công kích thành công tuyến đường sắt Đông Stalingrad, làm đứt tuyến viện binh và hậu cần địch. Tiêm kích và cường kích ta tập trung chia cắt tuyến hành quân tiếp cận sông Đôn của quân Nga.
Việc không quân Đức quét sâu vào hậu phương quân Nga đã phát hiện ra một phần tập đoàn quân xe tăng 5 đang vượt sông Đôn và suýt gây ra được hai ca thương vong nghiêm trọng. Máy bay Đức làm Khrushchev và Yeremenko sửng sốt tại Svetly-Yar, khi họ đang tiếp một phái đoàn đến từ Uzbekistan mang theo 37 toa xe quà tặng cho những người phòng thủ Stalingrad gồm rượu, thuốc lá, dưa khô, gạo, lê, táo và thịt.
Phản ứng trước mối đe dọa của các cấp – từ Tổng hành dinh Quốc trưởng, cụm Tập đoàn quân B đến sở chỉ huy Tập đoàn quân VI – là rất rất nhỏ, rất muộn. Ảo tưởng của Hitler cũng góp một phần. Ông tự vệ bằng cách ra lệnh tăng cường cho quân Rumani bằng các đơn vị Đức và những bãi mìn, nhưng ông không chịu chấp nhận rằng không còn nguồn lực cũng như các đơn vị nào có thể.
Tất cả những gì có thể tăng cường cho mối đe dọa ở cánh Bắc là quân đoàn xe tăng XXXXVIII (48), tư lệnh là trung tướng Ferdinand Heim, cựu tham mưu trưởng của Paulus. Trên giấy, quân đoàn này xuất hiện với đầy đủ sức mạnh, với sư đoàn tăng số 14, sư đoàn tăng số 22 và sư đoàn tăng Rumani số 1, cùng với một tiểu đoàn chống tăng, một tiểu đoàn pháo binh cơ giới, nhưng thực tế cho thấy nó không oai vệ như vậy. Cả quân đoàn xe tăng này có không quá một trăm chiếc xe tăng hiện đại hoạt động được, tính cho cả ba sư đoàn.
Sư đoàn xe tăng 14, bị tiêu hao khi đánh Stalingrad và chưa có một cơ hội nào để tái trang bị. Sư đoàn Rumani phối thuộc thì được trang bị xe tăng hạng nhẹ Skoda của Tiệp khắc, mà loại này thì không có một cơ may nào khi đối diện với T-34. Sư đoàn xe tăng 22, là một đơn vị dự bị, thiếu nhiên liệu và trong suốt thời gian nằm bất động, chuột đã tìm đường di cư vào các thân xe. Chúng gặm nát dây cáp điện và không được thay thế kịp thời ngay lập tức.
Trong khi đó, các trung đoàn của sư này tiếp tục bị chia ra, gửi đến chỗ này, nơi kia khi đáp ứng cho lời kêu gào giúp đỡ của các đơn vị Rumani. Để làm cho quân Rumani bình tĩnh, các phân đội nhỏ đôi chiếc xe tăng, vài cặp đại bác được đưa đi “săn ngỗng trời” từ khu vực này sang khu vực khác. Trợ lý không quân Quốc trưởng, Nicolaus Below, phàn nàn rằng: “Hitler không được thông tin về tình hình chất lượng của quân đoàn tăng này”, nhưng ngay cả khi điều này là sự thật, thì ông ta sẽ chính là người gây áp lực lên ban tham mưu của mình chống lại cái sự thật không thoải mái này.
Ở nam Stalingrad, chỉ có một đơn vị dự bị duy nhất phía sau quân đoàn Rumani VI là sư đoàn bộ binh mô tô  hóa số 29, nhưng vào ngày 10 tháng 11, nó “nhận được mật mã ‘Hubertusjagd’, và phải đi chuyển trong thời gian ngắn nhất đến Perelazovsky ở khu vực của tập đoàn quân Rumani 3”. Perelazovsky là điểm trung tâm của quân đoàn xe tăng XXXXVIII (48). Mặc cho cảnh báo của tướng Hoth, mối đe dọa ở sườn phía nam đã không được coi trọng.
Thời tiết trong nửa đầu tháng 11 làm cho việc hành quân tiếp cận của các đơn vị Sô viết gặp nhiều khó khăn. Những cơn mưa nặng hạt kéo theo sau là sương giá dày đặc. Nhiều đơn vị, do vội vã để chuẩn bị cho chiến dịch Sao Thổ đã không kịp nhận quân phục mùa đông. Không chỉ thiếu thốn găng tay, nón mà ngay cả những vật dụng cơ bản như là vải quấn chân dùng thay cho vớ.
Ngày 7 tháng 11 khi sư đoàn kỵ binh 81 thuộc quân đoàn kỵ binh 4 băng qua thảo nguyên Kalmyk ở cánh nam, mười bốn lính, chủ yếu là người Uzbek và Turkoman, chưa có quân phục mùa đông, đã bị chết rét “vì sự vô trách nhiệm của cấp chỉ huy”. Các sỹ quan phi ngựa ở phía trước mà không quan tâm đến đằng sau. Những người lính đó bị lạnh cứng, ngã từ lưng ngựa xuống, và các NCO, không biết làm gì, đã ném họ lên thùng xe, ở đó họ bị cóng tới chết. Chỉ trong một phân đội kỵ binh đã mất tới 35 con ngựa. Binh lính cố chuồn khỏi trận chiến sắp tới. Trong sư đoàn bộ binh 93, trên đường hành quân tiếp cận, đã có 7 ca tự-thương, và hai trường hợp đào ngũ bị bắt lại. “Trong vài ngày tới” báo cáo từ phương diện quân Stalingrad gửi Shcherbatov viết “những kẻ phản bội khác sẽ cũng sẽ cố làm như vậy, trong số chúng có một đảng viên hắn đã tự bắn vào tay trái trong một phiên gác”.
Không khí ở điện Kremlin ở nên căng thẳng cao độ kể từ khi Zhukov nhận lãnh một trách nhiệm không ai muốn là báo cho Stalin biết chiến dịch Sao Thổ sẽ bị chậm 10 ngày đến ngày 19 tháng 11. Những khó khăn trong vận chuyển - chủ yếu là do thiếu xe tải, toa xe hàng – có nghĩa là các đơn vị tấn công sẽ không nhận đủ cơ số nhiên liệu, đạn dược. Stalin, dù e rằng quân địch có thể nghe ngóng được tình hình và sẽ thoát khỏi cái bẫy, cũng phải đồng ý vì không còn phương sách nào khác. Ông quấy rầy Bộ tổng tham mưu liên tục để biết thông tin về bất kỳ thay đổi vị trí nào trong tập đoàn quân 6. Rồi ngày 11 tháng 11, Stalin lại bắt đầu lo âu về việc không đủ máy bay để áp chế không quân Đức. Nhưng bảng kế hoạch tổng quan cũng như chi tiết của Zhukov cuối cùng cũng làm ông an tâm. Lúc đó, ông cảm thấy, thời khắc cho việc báo thù đã điểm.
Tướng Zhukov và tướng Vasilevsky bay về Moscow để báo cáo với ông trong ngày 13 tháng Mười một. “Chúng tôi có thể nói là người hài lòng” Zhukov viết “vì thấy người khoan thai nhả khói từ chiếc tẩu, vuốt ria và nghe chúng tôi mà không ngắt lời”.
Tình báo Hồng quân, lần đầu tiên, đã làm một nỗ lực quyết định, phối hợp các nguồn tin có giá trị. Đó là cơ hội đầu tiên để họ tự chứng tỏ sau những thảm họa trước kia, dù phần lớn lỗi là do những định kiến đầy ám ảnh của Stalin mà hoàn toàn không đếm xỉa gì đến các tài liệu kết quả chính xác - Tình báo là một bộ phận nguy hiểm để phục vụ. Trong ngày 22 tháng 11, ba ngày sau trận đại phản công bắt đầu, trưởng ban tình báo tập đoàn quân 62 bị buộc tội là “có tư tưởng chủ bại, phản cách mạng” và cung cấp thông tin sai về quân thù. Không thể biết được sỹ quan đó bị bắt vì lý do chính trị hay vì sự bất tài của chính ông ta hoặc chỉ là một cái bung xung của các cấp cao hơn - Hầu hết tin tình báo đến từ những “chiếc lưỡi” bị bắt trong các cuộc tuần tra trinh sát hoặc tấn công trinh sát và từ không thám. 
Các bộ phận vô tuyến điện cũng giúp xác định căn cước một số lớn các đơn vị Đức. Trinh sát pháo binh cũng làm việc khá tốt, dưới sự giám sát của tướng Voronov tập trung các trung đoàn và các địa đoạn chính. Trong khi đó, công binh vạch ra được các bãi mìn của ta cũng như của địch trong hướng tiến công. Vấn đề chính lại nằm ở chỗ sương mù, mà chính tướng Von Richtholen của phía Đức cũng chua chát phàn nàn.
Ngày 12 tháng 11, đợt tuyết rơi nặng đầu tiên bắt đầu cùng lúc với một loạt các nhiệm vụ trinh sát. Quân phục ngụy trang màu trắng đã được cấp phát, và các nhóm được gửi đi để bắt tù binh nhằm kiểm tra xem có đơn vị nào mới được chuyển đến khu vực đột phá chính.
Đại đội trinh sát thuộc sư đoàn bộ binh 173, lần đầu tiên, phát hiện ra quân Đức đang chuẩn bị các boongke bằng bê tông. Những tù binh khác bị bắt từ đầu đến cuối mặt trận đều nhanh chóng xác nhận rằng dù các boongke bê tông được thiết lập nhưng không có đơn vị mới nào đến. Ở khu vực mặt trận của tập đoàn quân Rumani 3, họ phát hiện ra các sỹ quan cao cấp đã ra lệnh tập trung các nguồn cung cấp để bê tông hóa sở chỉ huy ở hậu phương trước, không còn gì cho các vị trí tiền tiêu. Các đơn vị quân Nga giữ vị trí ở các khu vực nơi cuộc tấn công sẽ diễn ra “biết rằng có việc gì đó sắp đến, nhưng họ không biết chính xác là gì”.
Mối bận tâm chính của Moscow ở thời điểm này là việc thiếu thông tin đáng tin cậy về tình trạng tinh thần của Tập đoàn quân VI. Trong quá trình chiến đấu quanh Stalingrad, ngay cả những lá thư, mệnh lệnh đơn lẻ được lấy từ các cấp thấp cũng có quá ít cho họ để tiếp tục. Cuối cùng, vào ngày 9 tháng 11, thiếu tướng Ratov, ban tình báo Hồng quân được chuyển cho một tập hồ sơ thu từ sư đoàn bộ binh 384, nằm đối diện ở khúc ngoặc nhỏ sông Đôn, một đơn vị hỗn hợp các trung đoàn Áo, Saxon. Ngay lập tức, ông nhận ra đây là thứ bằng cớ cuối cùng mà họ đang chờ đợi. Các bảng dịch được gửi ngay cho Stalin, Beria, Molotov, Malenko, Voroshilov, Vasilevsky, Zhukov và Aleksandrov - trưởng ban tuyên truyền-vận động. Tướng Ratov không chút nghi ngờ khi nghĩ đến sự vui mừng do những tin tức trên mang lại cho trái tim Lãnh tụ Vĩ đại. Họ còn được cổ vũ gấp đôi khi biết đơn vị đến từ Dresden này chưa từng dính dáng gì tới các cuộc chiến trên đường phố Stalingrad.
Tôi có nhận thức xác đáng về tình trạng của sư đoàn” tướng Nam tước von Gablenz viết cho tất cả các chỉ huy thuộc sư đoàn bộ binh 384 “Tôi biết là nó không còn sức mạnh. Điều này không có gì ngạc nhiên, và tôi sẽ làm mọi thứ để thúc đẩy tình trạng của đơn vị, nhưng cuộc chiến cam go ngày lại trở nên khốc liệt hơn. Thật không thể thay đổi tình hình. Trạng thái lơ mơ của phần lớn binh sỹ cần phải được chấn chỉnh và việc chỉ đạo cần linh hoạt hơn. Các chỉ huy phải vận động nhiều hơn. Trong mệnh lệnh của tôi, số 187-42 trong ngày 3 tháng 9, tôi đã qui định về việc ai rời bỏ vị trí của mình sẽ ra tòa án binh.. Tôi sẽ nghiêm khắc thực hiện như luật định. Những ai ngủ mơ ở vị trí tiền tiêu phải bị trừng phạt với án tử hình. Không có chút nghi ngờ nào về việc này. Tương tự là tội bất tuân… nói rõ trong các trường hợp: thiếu chăm sóc vũ khí, cơ thể, áo quần, ngựa và các thiết bị cơ giới. Các sỹ quan phải cảnh báo quân mình rằng họ có thể xem như phải ở lại nước Nga trong suốt mùa đông”.
Các đơn vị cơ giới Sô viết, vốn được ngụy trang cẩn thận ở tuyến sau, đã di chuyển lên các vị trí xuất phát của mình. Hỏa mù được dùng để che phủ họ khi vượt sông Đôn đến các điểm đầu cầu, và chỉ ngay sau giới tuyến, những loa công suất lớn từ các đại đội tuyên truyền mở ầm ỹ nhạc, thông điệp chính trị để lấp bớt tiếng động cơ.
Trên các mặt trận của ba “trục Stalingrad”, hơn một triệu binh sỹ được ém sẵn. Tướng Smirnov, trưởng bộ phận quân y, có tới 119 bệnh viện dã chiến cùng với 62,000 giường sẵn sàng cho thương binh. Lệnh được đưa ra ba giờ trước lúc tấn công. Các đơn vị Hồng quân được báo rằng họ làm một trận càn sâu vào hậu phương địch. Còn việc hợp vây không được nhắc tới. Các đơn vị bị kích thích mạnh với suy nghĩ rằng quân Đức không biết những gì sẽ tấn công chúng. Đó là sự bắt đầu của cuộc chiến tiếp sau. Xe cộ được kiểm tra đi kiểm tra lại. Họ có một quãng đường dài phải đi ở phía trước. Máy móc được chăm chú lắng nghe “như bác sỹ kiểm tra tim”. Thời gian cho việc viết thư, cạo mặt, rửa chân, chơi bài đã kết thúc. “Binh lính và sỹ quan được lệnh nghỉ, nhưng họ bị kích động quá. Mọi người lật giở lại trong óc những gì đã làm”.
Trong cái đêm đó, phía quân Đức không có ý niệm gì về một ngày mai hoàn toàn khác biệt. Báo cáo hằng ngày của Tập đoàn quân VI viết: “Dọc theo cả mặt trận, không có thay đổi lớn. Băng trôi trên sông Volga yếu hơn ngày hôm qua”. Đêm đó, một người lính đi xa lâu ngày, viết về nhà, liên hệ đến sự thật rằng anh đang “cách biên giới Đức 2,053 dặm”.

tải về 2.43 Mb.

Chia sẻ với bạn bè của bạn:
1   ...   4   5   6   7   8   9   10   11   ...   18




Cơ sở dữ liệu được bảo vệ bởi bản quyền ©hocday.com 2024
được sử dụng cho việc quản lý

    Quê hương