Phần 1: Toàn thế giới nín thở chờ đợi Chương 1: thanh kiếm hai lưỠi của barbarossa


Chương 12: Pháo đài sắt thép và vụn vỡ



tải về 2.43 Mb.
trang7/18
Chuyển đổi dữ liệu25.03.2018
Kích2.43 Mb.
#36541
1   2   3   4   5   6   7   8   9   10   ...   18

Chương 12: Pháo đài sắt thép và vụn vỡ
Liệu Stalingrad có thành một Verdun thứ hai không?”. Đại tá Groscurth viết trong ngày 4 tháng Mưới “Đó là những gì mà mọi người ở đây hỏi với sự quan ngại lớn”. Sau bài phát biểu của Hitler ở sân vận động Berlin Sportpalst bốn ngày trước, tuyên bố rằng không ai có thể đẩy được họ ra khỏi các vị trí trên sông Volga, Groscurth và những người khác đã cảm thấy rằng Tập đoàn quân VI sẽ không được phép ngừng trận chiến này nữa, bất kể hậu quả gì. “Nó gần như trở thành một thứ vấn đề uy tín giữa cá nhân Hitler và Stalin”
Trận tấn công lớn của phía Đức vào quận Nhà máy ở phía bắc Stalingrad bắt đầu khá tốt trong ngày 27 tháng Chín, nhưng lúc cuối ngày thứ hai, các sư đoàn Đức biết rằng họ lâm vào một trận chiến khó khăn nhất từ trước tới giờ. Khu liên hợp Tháng Mười Đỏ và xưởng pháo binh Barrikady trở thành các pháo đài chết chóc như ở Verdun. Họ bị nguy hiểm cực kỳ vì các trung đoàn Soviet ẩn nấp rất tốt.
Các sỹ quan sư đoàn bộ binh Siberia số 308 của Gurtiev, khi vừa đến xưởng Barrikady và đoạn đường sắt tránh tàu của nó, đã nhận thấy “những phân xưởng sửa chữa to, cao, đen trũi, và những tuyến ray lấp lánh ướt đè lên những toa hàng hư hại gỉ sét nằm hỗn độn, những cột xà thép gãy nằm ngổn ngang trên một diện tích tương đương với quảng trường thành phố, những đống than đá và xỉ đỏ, những ống khói to lủng lỗ chỗ bởi đạn pháo Đức”
Gurtiev bố trí hai trung đoàn để bảo vệ xưởng, còn trung đoàn thứ ba giữ cạnh sườn bao gồm cả hẻm núi sâu chạy xuyên từ khu tập thể công nhân đã bị cháy rụi đến sông Volga. Và nơi này nhanh chóng được biết đến là “hẻm tử thần”. Quân Siberi không để phí thời gian. “Trong sự im lặng kinh người, họ đào trên vùng đất sỏi đá bằng cuốc chim, đục lỗ châu mai trên tường nhà máy, làm hầm trú ẩn, boongke và giao thông hào”. Một sở chỉ huy được thiết lập tại đoạn hào vách bê tông dài chạy dưới một nhà xưởng lớn. Gurtiev nổi danh là một người luyện quân khắc nghiệt. Khi còn nằm trong thê đội dự bị ở bờ đông sông Volga, ông đã bắt họ phải đào chiến hào, rồi cho xe tăng chạy qua. “Kỷ luật sắt” như các đó là phương thức tốt nhất để dạy họ đào hào cho sâu.
May mắn cho quân Siberia, chiến hào của họ đã sẵn sàng khi những chiếc Stuka ập đến. “Nhạc công” hay “máy hét”, như quân Nga gọi những chiếc máy bay ném bom bổ nhào này bởi tiếng hú rền rĩ của nó, gây ít sát thương hơn thông thường... Quân Siberia làm những chiến hào hẹp, vì thế giảm được ảnh hưởng của mảnh bom, nhưng những đợt sóng chấn động liên miên do sức nổ làm mặt đất rung chuyển như bị động đất và gây ra những cơn đau dạ dày. Những tiếng nổ lớn còn gây cho mọi người bị điếc tạm thời. Đôi khi, những đợt sóng xung kích mạnh còn làm vỡ kiếng và hệ thống vô tuyến phải tạm ngưng tiếng.
Các cuộc tấn công dọn đường của không quân kéo dài cho đến hết ngày. Sáng hôm sau, khu Barrikady bị các phi đoàn Heinkel 111 ném bom rải thảm và bị pháo binh bắn phá. Đột nhiên, hỏa lực Đức ngưng bặt. Ngay trước khi tiếng hô cảnh báo “Hãy sẵn sàng!”, thì quân Siberia đã chuẩn bị cho họ xong, biết rõ rằng cái điềm yên tĩnh kia nói lên điều gì. Chỉ giây lát sau, họ nghe thấy tiếng rít, tiếng nghiến kèn kẹt của xích xe tăng trên đống đổ nát.
Trong những ngày kế tiếp, bộ binh Đức nhận ra rằng quân Siberia của Gurtiev không ngồi yên để đợi họ. “Quân Nga tấn công từ sáng mới đến tối mịt” một hạ sĩ quan của sư đoàn Jager 100 báo cáo. Sách lược ngông cuồng tột độ của Chuikov khi liên tục phản công làm các tướng lĩnh Đức kinh ngạc, dù họ buộc phải chấp nhận rằng điều này làm thiệt hại quân của mình. Tuy thế, Phương tiện phòng thủ hữu hiệu nhất lại là đại bác hạng nặng đặt ở phía bờ đông sông Volga, mỗi khi kế hoạch bắn của họ được phối hợp.
Ở khu liên hợp Tháng Mười Đỏ, các đơn vị thuộc sư đoàn chống tăng số 414 dấu pháo 45mm và 96mm của họ vào trong các đống đổ nát, dùng những tấm thép vỡ để ngụy trang và che chắn. Họ được định vị để bắn với khoảng cách chỉ từ 150 thước trở xuống. Bình minh ngày 28 tháng Chín, hai trung đoàn thuộc sư đoàn bộ binh 193 qua được sông Volga và nhanh chóng chiếm lĩnh vị trí. Cuộc “xông đất” của họ bắt đầu bằng một đợt công kích ồ ạt của máy bay Stukas trong ngày hôm sau. Đà tiến của quân Đức buộc họ phải khẩn cấp có thêm viện binh. Và sư đoàn bộ binh Cận vệ 39 được gửi qua dù rằng nó mới chỉ đạt một phần ba sức mạnh của mình.
Các cuộc tấn công phía Đức càng mạnh hơn trong tháng Mười, đặc biệt khi có thêm tăng viện là sư đoàn bộ binh 94, sư đoàn xe tăng 14 và năm tiểu đoàn công binh chiến đấu vừa không vận đến. Về phía Sô viết, các đơn vị hoàn toàn bị xé lẻ và thường mất liên lạc, nhưng từng cá nhân, từng nhóm vẫn tiếp tục chiến đấu mà không cần lệnh. Ở khu vực Barrikady, lính công binh Kossichenko và một lính lái tăng không rõ tên, mỗi người đều bị gãy một tay, đã rút chốt lựu đạn bằng răng. Khi đêm xuống, cánh công binh vẫn tiếp tục chạy lên phía trước, mang theo mìn chống tăng, mỗi lần hai quả, “cắp chúng dưới nách như cắp bánh mỳ”, và chôn vào các đống đổ nát trên các hướng tiếp cận. Grossman viết rằng “Các cuộc tấn công quân Đức cuối cùng phải chùng lại bởi những người lính Siberi bướng bỉnh, ngang ngạnh”. Một tiểu đoàn công binh Đức chỉ trong một trận tấn công đơn lẻ, đã bị thương vong đến 40%. Viên chỉ huy sau khi đến thăm quân mình, đã ra về với gương mặt lặng câm, hóa đá.
Các sư đoàn của Chuikov bị thiệt hại nghiêm trọng, mệt mỏi và thiếu đạn dược. Nhưng vào ngày 5 tháng 10, tướng Golikov, cấp phó của Yeremenko, đã vượt sông và mang đến lệnh của Stalin rằng thành phố phải đứng vững và những phần bị quân Đức tạm giữ phải được tái chiếm. Chuikov chả thèm quan tâm tới mệnh lệnh ngớ ngẩn đó. Ông ta biết cơ hội duy nhất của mình để có thể trụ nổi là nhờ vào các cuộc pháo kích từ bên kia sông. Phía Đức cũng nhanh chóng cho Yeremenko thấy sự không thích hợp đó. Sau ngày 6 tháng 10 khá yên lặng, quân Đức mở một cuộc tấn công lớn vào xí nghiệp máy kéo Stalingrad với sư đoàn xe tăng 14 đánh từ phía tây-nam và sư đoàn mô tô hóa số 60 từ phía tây. Một trong các tiểu đoàn của sư 60 đó gần như bị xóa sổ bởi những loạt Katyushas bắn kịch tầm. Góc nâng được tăng thêm do bánh sau của những chiếc xe mang dàn phóng được kê lên trên bờ dốc đứng của sông Volga. Trong khi đó, một bộ phận của Sư đoàn tăng 16 (Đức) tấn công vùng ngoại ô khu công nghệ Spartakovka ở phía bắc, đẩy lùi những phần còn lại của Sư đoàn bộ binh 112 và Lữ đoàn đặc biệt 124. 
Tập đoàn quân của tướng Chuikov, lúc này chỉ còn giữ được một dải đất mỏng manh dọc bờ tây, tưởng chừng như luôn luôn có thể bị đẩy xuống sông.
Việc vượt sông Volga càng trở nên nguy hiểm hơn khi chu vi phòng thủ của tập đoàn quân 62 giảm xuống trầm trọng. Các pháo đội Đức, thậm chỉ cả đại liên cũng có thể trực xạ vào các vị trí đổ bộ. Một cây cầu phao hẹp nối liền đảo Zaitsevsky đến bờ tây được xây bởi một tiểu đoàn thủy binh Volga đến từ Nam Tư. Nó cho phép một dòng liên miên như đàn kiến, những người tải thức ăn, đạn dược băng qua sông trong đêm đen. Kích thước nhỏ của nó làm giảm tối đa mục tiêu, nhưng những bước chân cũng làm cho ván cầu rung rinh không ngớt, thêm vào đó là sức nổ của đạn pháo trên mặt sông ở hai bên cũng làm cho mỗi chuyến đi thêm phần kinh hoàng. Thuyền vận tải vẫn cần thiết cho việc chuyển vận những thiết bị to nặng, cũng như để di tản thương binh. Xe tăng bổ sung được đưa qua bằng sà lan. “Ngay khi trời vừa sẩm tối” Grossman viết “những người có trách nhiệm cho cuộc vượt sông ra khỏi hầm hào, boongke và những nơi ẩn náu”.
Cạnh bên các điểm vượt sông ở bờ đông là những lò bánh mỳ dã chiến trong boongke, là bếp ngầm để cung cấp thực phẩm nóng vào bình thủy và cả nhà tắm. Bất chấp những tiện nghi tương đối này, chế độ ở bờ đông cũng gần khắt nghiệt như trong thành phố. Đội thuyền vận tải và thủy thủ đoàn chịu lệnh trực tiếp của vị chỉ huy NKVD mới, thiếu tướng Rogatin, cũng là chỉ huy quân quản của Quận Sông.
Mức độ thương vong trong thủy thủ giang đoàn Volga cũng bằng với các tiểu đoàn tiền duyên. Ví dụ, chiếc tàu hơi nước Lastochka (nghĩa là Chim Nhạn) trong khi di tản thương binh, đã nhận đến mười phát đạn bắn thẳng, chỉ trong một chuyến đi. Những người sống sót sửa chữa các vết thủng trong cả ngày, và rồi lại sẵn sàng phục vụ trở lại trong đêm tiếp theo. Thiệt hại do những tai nạn do áp lực cao cũng khá nặng nề.
Ngày 6 tháng 10, một chiếc tàu chở quá tải đã lật úp, mười sáu trong số hai mốt người bị chết đuối. Và không lâu sau đó, một chiếc khác cập bờ trong đêm sai vị trí, và 34 người hy sinh ở bãi mìn. Dù muộn chút xíu, trong ngày, tai nạn được báo cho nhà cầm quyền để “quây bãi mìn bằng thép gai”.
Sự căng thẳng trong công việc đưa đến các cuộc rượu chè say sưa nếu có cơ hội. Ngày 12 tháng Mười, lính NKVD khi tìm kiếm quân đào ngũ đã kiểm tra vài ngôi nhà ở một ngôi làng cạnh bờ sông Tumak, và họ phát hiện thấy một “khung cảnh đáng thất vọng”. Một đại úy, một chính trị viên, một trung sỹ quân nhu, và một hạ sỹ thuộc Giang đoàn Volga cùng Bí thư đảng ủy địa phương “Say không biết trời đất”, và như theo báo cáo ghi nhận, là nằm ngay trên sàn nhà “trong trạng thái ngủ với phụ nữ”. Vẫn còn trong tình trạng say xỉn, họ bị kéo đến trước mặt “chỉ huy NKVD tại Stalingrad, thiếu tướng Rogatin”.
Cũng có những tình huống lạ lùng ở bên kia bờ. Ngày 11 tháng Mười, trong một trận chiến gay go ở xí nghiệp máy kéo Stalingrad, T-34 của lữ đoàn xe tăng 84 cùng với lính của sư đoàn bộ binh cận vệ 37 ngồi trên tháp pháp, trên ô động cơ, phản công vào sư đoàn tăng 14 Đức ở phía tây nam xí nghiệp. Cả hai đơn vị Sô viết này đều mới đến bờ Tây. Một lính lái tăng, không nhìn thấy có một hố bom nên lái thẳng qua nó. Theo báo cáo thì “Đại đội trưởng đại đội bộ binh, đang say rượu” nổi cơn thịnh nộ vì cú sóc ghê gớm đó, đã nhảy xuống. “Hắn chạy đến trước chiếc xe, mở cửa sập và bắn hai phát, giết chết người lái tăng”.
Trong tuần thứ hai của tháng Mười, cuộc chiến có chút tạm lắng. Tướng Chuikov, đã đúng khi nghi ngờ rằng quân Đức đang chuẩn bị cho một trận tấn công lớn hơn, khả năng là có thêm viện binh.
Tướng Paulus cũng bị áp lực từ Hitler tương tự như Chuikov từ phía Stalin. Ngày 8 tháng Mười, cụm tập đoàn quân B, theo lệnh từ Tổng hành dinh Quốc trưởng, đã yêu cầu tập đoàn quân Sáu chuẩn bị một trận tấn công lớn vào phía bắc Stalingrad, và bắt đầu chậm nhất là vào ngày 14 tháng Mười. Paulus và Ban tham mưu đã bị mất hết tinh thần bởi những thiệt hại của họ. Một trong các sỹ quan của ông đã ghi vào nhật ký chiến tranh rằng sư đoàn bộ binh 94 giảm xuống chỉ còn 535 tay súng, “điều này có nghĩa là sức chiến đấu trung bình của một tiểu đoàn bộ binh chỉ còn 3 sỹ quan, 11 hạ sĩ quan và 62 lính”. Anh ta cũng mô tả rằng sư đoàn bộ binh 76 là “mất sức chiến đấu”. Chỉ còn sư đoàn bộ binh 305, tuyển mộ từ bờ bắc hồ Constance là trù bị của Tập đoàn quân VI để tăng cường cho các đơn vị chiến đấu.
Quân Đức, qua truyền đơn và loa phóng thanh, đã không giữ bí mật cho việc chuẩn bị của họ. Câu hỏi duy nhất còn lại là dự đoán mục tiêu tấn công. Các đại đội trinh sát Sô viết được điều đi hằng đêm để tóm lấy càng nhiều “cái lưỡi” càng tốt. Các lính gác vô phước hoặc những người tải lương bị kéo về phía sau để dành cho các cuộc thẩm vấn chuyên sâu, và tù binh, thông thường qua nỗi khiếp sợ do luận điệu tuyên truyền của phát xít về các phương pháp tra tấn của phía Bolshevik, đã rất hăm hở để nói. Bộ phận tình báo của tập đoàn quân 62 đã nhanh chóng kết luận sau khi tổng hợp từ các nguồn tin, rằng nỗ lực chính là nhằm thẳng vào xí nghiệp máy kéo. Những công nhân còn lại ở đó và ở xí nghiệp Barrikady, những người đã sửa chữa xe tăng, pháo chống tăng cho cuộc chiến, đã được tuyển mộ vào các tiểu đoàn tiền duyên hoặc với các chuyên viên đặc biệt, thì sơ tán sang bên kia sông.
May mắn cho tập đoàn quân 62, các phân tích của bộ phận tình báo là chính xác. Mục tiêu của phía Đức là chiếm được xí nghiệp máy kéo và dãy nhà gạch ở phía nam, rồi sau đó duỗi về phía bờ sông. Tướng Chuikov mạo hiểm quyết định đưa các trung đoàn từ đồi Mamaev Kurgan lên cánh bắc. Tuy nhiên, vị tướng này đã rất lo sợ khi nghe rằng Bộ Tư lệnh tối cao STAVKA giảm mức phân phối đạn pháo cho phương diện quân Stalingrad. Đây là dấu hiệu đầu tiên cho thấy một cuộc phản công lớn đang được chuẩn bị. Ông ta đã đột nhiên hiểu ra với nhiều cảm xúc tổng hợp rằng, Stalingrad là một miếng mồi cho một cái bẫy khổng lồ.
Thứ Hai, ngày 14 tháng Mười, 6 giờ sáng, giờ Đức, trận tấn công của Tập đoàn quân VI bắt đầu trên một cửa đột phá hẹp, mọi chiếc Stuka có thể huy động thuộc Không đoàn 4 của tướng Von Richthofen được sử dụng. “Không gian ngập tràn máy bay” một người lính trong sư đoàn bộ binh 389 viết trước khi xuất phát tấn công, “mọi khẩu pháo cao xạ nổ vang, tiếng bom gầm, máy bay đâm nhào xuống đất, một khung cảnh kỳ vỹ mà chúng tôi đang xem với nhiều cảm xúc khác nhau từ chiến hào”. Đại bác, cối quân Đức bắn phá từng hầm hào, đạn phốt pho đốt cháy những gì có thể bắt lửa.
“Trận chiến ghê hồn với toàn bộ những phương tiện có thể” một sỹ quan của Chuikov viết “quân ta trong giao thông hào lắc lư, loạng choạng, cảm giác như thể đang ở trên boong tàu trong cơn bão lớn”.
Các chính ủy rõ ràng cảm thấy một sự thôi thúc trở nên thơ mộng “Chúng tôi, những ai nhìn lên bầu trời đen kịt của Stalingrad trong những ngày này” Dobronin viết cho Shcherbakov ở Moscow “sẽ không bao giờ quên được. Nó đầy vẻ đe dọa với những đám cháy hồng lên không gian”.
Cuộc chiến bắt đầu với trận đánh chủ yếu vào xí nghiệp máy kéo từ hướng tây nam. Đến trưa, một phần của Quân đoàn xe tăng XIV được lệnh ép xuống từ hướng bắc. Tướng Chuikov không do dự. Ông lệnh cho lực lượng thiết giáp chủ lực của mình, lữ đoàn xe tăng 84, chống lại trận xung phong chính của ba sư đoàn bộ binh Đức với mũi nhọn là sư đoàn xe tăng 14.
Yểm trợ từ các loại vũ khí hạng nặng cho chúng tôi mạnh mẽ bất thường” một hạ sĩ quan của sư bộ binh 305 viết “Nhiều khẩu đội cối phản lực Nebelwerfer, máy bay ném bom Stuka, và đại bác tự hành với số lượng chưa hề thấy trước đây dội hỏa lực vào quân Nga, còn những kẻ cuồng tín đó đang thể hiện sức kháng cự ghê gớm”.
“Đó là một trận chiến kinh khủng, kiệt lực” một sỹ quan trong sư đoàn tăng 14 (Đức) viết “trên mặt đất, trong đống đổ nát, hầm hào, cống rãnh của nhà máy. Xe tăng trèo qua các đống đổ nát, vụn vỡ, riết róng trườn qua những thứ hỗn độn của nhà xưởng bị phá hủy và bắn thẳng với khoảng cách rất ngắn. Nhiều chiếc bị sốc hoặc nổ tung bởi mìn của quân địch”. Đạn đại bác rót vào những cấu kiện sắt của nhà xưởng làm tung lên những tia lửa có thể nhìn thấy được qua làn bụi khói.
Mức chịu đựng của quân Sô viết thật không thể tưởng tượng nổi, nhưng họ vẫn không trụ nổi trước sức mạnh ở trung tâm vùng công kích. Trong suốt buổi sáng đầu tiên, lực lượng xe tăng Đức đã chọc thủng và cắt rời sư đoàn Cận vệ số 37 của Zholudev và sư đoàn bộ binh 112. Tướng Zholudev bị chôn sống trong boongke của mình sau một phát nổ, điều này là bình thường trong những ngày ác liệt đó. Binh lính đã đào cứu được ông ra và đưa về sở chỉ huy tập đoàn quân. 
Những người khác thì dùng vũ khí của các liệt sỹ và tiếp tục chiến đấu. Những chiếc xe tăng phủ đầy bụi của quân Đức xộc thẳng vào khu nhà xưởng to lớn của xí nghiệp máy kéo, như những con quái vật tiền sử, phun đại liên ra xung quanh, nghiến xích lên những mảnh kiếng rơi xuống từ giếng trời. Rồi trong các trận cận chiến diễn ra sau đó, đường phân tuyến giữa các bên không còn phân biệt được. Những nhóm lính cận vệ của Zholudev bất thình lình tấn công từ mọi phía. Trong tình hình như vậy, một sỹ quan quân y Đức khôn khéo đã đặt trạm sơ cứu tiền phương của mình ngay trong một lò luyện kim.
Ngày thứ hai của cuộc tấn công, 15 tháng Mười, sở chỉ huy tập đoàn quân 6 cảm thấy có thể báo cáo rằng: “Phần lớn xí nghiệp máy kéo nằm trong tay ta. Chỉ còn vài túi kháng cự ở phía sau chiến tuyến.”. Sư đoàn bộ binh 305 đẩy được quân Nga trở lại bên kia đường sắt ở nhà máy gạch. Đêm đó, sau khi sư đoàn xe tăng 14 chọc thủng phòng tuyến xí nghiệp máy kéo, thì trung đoàn pháo thủ tăng 103 của nó, đã táo bạo chọc xuống bờ sông Volga chỗ các bồn dầu, bộ binh Sô viết phản kích từ các khe, rãnh. May mắn cho tập đoàn quân 62, tướng Chuikov đã di chuyển sở chỉ huy đi, vì lý do liên lạc kém. Trận chiến giảm bớt cường độ. Lữ đoàn xe tăng 84 (Nga) tuyên bố rằng đã tiêu diệt “hơn 30 xe tăng hạng trung và hạng nặng của bọn phát xít” trong khi bị thiệt hại 18 xe. 
Thương vong nhân mạng của lữ đoàn thì “còn đang được tính toán” trong báo cáo hai ngày sau đó. Dù con số cho xe tăng phía Đức bị hạ gần như là quá lạc quan, thì những chỉ huy cấp thấp của lữ đoàn cũng cho thấy được tinh thần dũng cảm trong ngày đó.
Chính ủy một trung đoàn pháo hạng nhẹ, Babachenko, đã nhận được danh hiệu Anh hùng Liên xô vì lòng dũng cảm của mình, khi một khẩu đội pháo bị cô lập. Qua radio, ở sở chỉ huy nhận được thông điệp vĩnh biệt: “Đã phá hủy đại bác. Khẩu đội bị bao vây. Chúng tôi sẽ tiếp tục chiến đấu và không đầu hàng. Gửi lời chào tốt đẹp đến mọi người!”. Và rồi, với lựu đạn, súng trường, tiểu liên, các pháo thủ đã phá được vòng vây của quân thù, thiết lập một vị trí mới giúp khôi phục địa đoạn phòng thủ.
Có vô vàn trường hợp dũng cảm chưa được ca tụng của những người lính bình thường, như một chính trị viên đã thêm vào “chủ nghĩa anh hùng quần chúng thật sự”. Cũng có những trường hợp các cá nhân anh hùng được loan báo, như của đại đội trưởng sư đoàn bộ binh cận vệ 37, trung úy Gonychar, cùng với khẩu đại liên thu được và bốn chiến sỹ, đã đẩy lùi một đợt xung phong mạnh của quân Đức vào thời điểm nguy ngập. Không ai biết có bao nhiêu chiến sỹ Hồng quân đã ngã xuống trong ngày hôm đó, nhưng có tới 3500 thương binh được chuyển qua sông trong đêm. Những lính tải thương không thể hỗ trợ xuể và rõ ràng có nhiều thương binh phải tự bò xuống sông.
Những chỉ huy Đức ở ngoài thảo nguyên yêu cầu có tin tức thường xuyên về diễn tiến trong thành phố. “Tường nhà máy, xí nghiệp, các bộ phận máy móc, cả cái cấu trúc khổng lồ đó đã đổ sập trong trận bão bom đạn” tướng Strecker viết cho một người bạn “nhưng quân thù vẫn tái xuất hiện, tận dụng chính những đống đổ nát mới tạo ra đó để gia cố cho vị trí phòng thủ của chúng”. Nhiều tiểu đoàn Đức chỉ còn chừng 50 quân. Trong đêm họ gửi xác đồng đội về phía sau để chôn cất. Lòng hoài nghi của lính Đức với các cấp chỉ huy tăng lên. Một người lính thuộc sư đoàn bộ binh 389 viết về nhà “Vị tướng của chúng tôi, Jeneke [Jaenecke], kiếm được huân chương chữ thập hiệp sỹ ngày hôm kia. Giờ lão ấy đạt được mục đích của lão rồi”
Trong suốt sáu ngày kể từ ngày 14 tháng Mười, không quân Đức duy trì tấn công vào việc vượt sông và các đơn vị. Thật khó có lúc nào mà không có máy bay Đức trên đầu. “Sự giúp đỡ của lực lượng tiêm kích là cần thiết” ban chính trị của phương diện quân Stalingrad ghi chú trên tài liệu mật than phiền về không quân Nga gửi cho Moscow. Nhưng sự thật là lúc đó tập đoàn không quân 8 còn không quá hơn 200 máy bay các loại, mà trong đó chỉ có chừng hai tá máy bay tiêm kích.
Và rồi đến cả phi công Đức cũng chia sẽ mối hoài nghi đang lớn dần với các lực lượng mặt đất về những thể hiện không thể tin nổi của quân Nga phòng thủ Stalingrad. Một người viết về nhà ”Anh không thể hiểu nổi, làm sao con người có thể sống sót trong cái địa ngục này, thế mà đến giờ quân Nga vẫn bám chắc và các đống đổ nát, các hầm, hố và bộ khung thép hỗn độn vốn là nhà xưởng đó”. Những phi công đó cũng hiểu rằng hiệu lực của họ sẽ giảm nhanh chóng khi ngày ngắn lại và thời tiết xấu đi.
Việc quân Đức tiến thành công về sông Volga ngay ở phía dưới xí nghiệp máy kéo Stalingrad đã cắt rời những lực lượng còn lại của sư đoàn bộ binh 112 và các lữ đoàn dân quân vốn đang đối mặt với quân đoàn xe tăng XIV (Đức) về phía tây và phía bắc. Đồng thời hợp vây những đơn vị rời rạc của sư đoàn bộ binh cận vệ 37 vẫn đang tiếp tục chiến đấu trong khu vực xí nghiệp máy kéo. Những gì còn lại của các đơn vị khác bị ép về phía Nam. Mối đe dọa lớn nhất với những ai còn sống thuộc Tập đoàn quân 62 là mũi tiến của quân Đức xuống bờ sông đã cắt rời sư đoàn của Gorishny khỏi hậu phương.
Sở chỉ huy mới của tướng Chuikov luôn trong mối nguy hiểm thường trực. Đội Cận vệ của nó phải thường xuyên tham gia chiến đấu. Khi việc liên lạc của tập đoàn quân 62 thường xuyên bị mất, tướng Chuikov đã xin phép được chuyển một nhóm hậu cần của sở chỉ huy sang bờ trái, trong khi nhóm tiền phương gồm cả Hội đồng quân sự, vẫn tiếp tục ở lại bên bờ Tây. Nhưng Yeremenko và Khrushchev, quá biết về phản ứng của Stalin nên đã từ chối thẳng cánh.
Cũng trong ngày 16 tháng Mười, quân Đức định tiến công từ xí nghiệp máy kéo sang nhà máy Barrikady, nhưng hỏa lực của những chiếc xe tăng Nga chôn lưng chừng trong các đổng đổ nát và những loạt Katyusha từ bờ sông đã bẻ gãy nó. Trong đêm, phần còn lại Sư đoàn bộ binh 138 của tướng Lyudnikov được mang qua sông. Ngay khi họ vừa hành quân lên bờ, họ phải đạp lên “hàng trăm thương binh đang bò về phía bãi đổ bộ”. Những binh sỹ mới tinh này được ném ngay vào tuyến phòng ngự chéo trên phía bắc nhà máy Barrikady.
Tướng Yeremenko cũng qua sông trong đêm đó để tự nhận định tình hình. Nặng nề tựa vào cây gậy, hậu quả của vết thương từ năm ngoái, ông leo lên bờ sông đến cái hầm vênh váo của sở chỉ huy Tập đoàn quân 62. Những hố bom, những thanh xà của hầm hố bị chém vụn khi nhận phải những phát đạn trực tiếp, còn vương vãi gây ra chút ý niệm. Vật vã người còn sống phủ đầy bụi và tro. Tướng Zholudev nghẹn ngào trong nước mắt, tính toán lại thiệt hại của sư đoàn mình trong khu xí nghiệp máy kéo. Nhưng qua ngày hôm sau, khi tướng Yeremenko quay về, sở chỉ huy Phương diện quân cảnh báo Chuikov rằng, ngay cả đạn dược cũng có thể được cung cấp ít bớt đi.
Sau khi quân Đức cắt rời lực lượng Sô viết ở cánh bắc xí nghiệp máy kéo Stalingrad từ đêm 15 tháng Mười, tướng Chuikov nhận được rất ít tin tức khích lệ từ họ, mà thay vào đó là “vô số yêu cầu” từ sở chỉ huy sư đoàn bộ binh 112 và lữ đoàn đặc biệt 115 xin được phép rút qua bên kia sông Volga. Cả hai đơn vị dường như cung cấp “thông tin sai sự thật” và thông báo rằng các trung đoàn của họ đã hầu như kiệt quệ. Yêu cầu rút quân này, tương đương với hành động phản quốc theo lệnh của Stalin, đã bị từ chối. Vài hôm sau, trong khoảng thời gian tạm yên, tướng Chuikov đã gửi đại tá Kamynin đến để kiểm tra tình hình các trung đoàn trên. Ông ta nhận thấy sư đoàn bộ binh 112 vẫn còn 598 quân trong khi lữ đoàn đặc biệt 115 còn 890 người. Viên chính ủy, theo như báo cáo, “thay vì tập trung tổ chức hành động phòng ngự…. lại không có mặt ở vị trí và cố thuyết phục viên tư lệnh rút lui qua bên kia sông Volga”. Vì “hành vi bội phản với công cuộc phòng thủ Stalingrad” và vì “sự hèn nhát hiếm có”, viên tư lệnh và chính ủy bị kết tội và ra tòa án binh của hội đồng quân sự tập đoàn quân 62 sau đó. Số phận của họ ra sao không được ghi lại, nhưng sẽ khó có chút khoan dung nào từ tướng Chuikov.
Những cuộc tấn công nghi binh bắt đầu diễn ra từ ngày 19 tháng Mười bởi phương diện quân sông Đôn ở phía tây-bắc và của Tập đoàn quân 64 từ phía nam. Những nổ lực của họ nhằm giảm bớt áp lực lên Tập đoàn quân 62, dù chỉ vài ngày, những thời khắc xả hơi đó cho phép các trung đoàn bị bầm dập được tải qua bên kia sông Volga và tái lập với lực lượng tăng viện. Việc hỗ trợ về mặt tinh thần lại là một hình thức lạ thường. Có một lời đồn đãi lan rộng khắp nơi rằng đồng chí Stalin đã đích thân đến thành phố. Ngay cả một người Bôn sê vích già chiến đấu trong vòng vây ở Tsaritsyn cũng tuyên bố rằng lãnh tụ vĩ đại đã xuất hiện ngay tại sở chỉ huy cũ. Việc này làm gợi nhớ đến sự xuất hiện thần kỳ của thánh St Jame trong quân đội Tây Ban Nha khi chiến đấu với quân Moor, và rõ ràng là không có chút cơ sở sự thật nào cả.
Nhưng một quan chức dân sự, tuy vậy, lại nhiệt tình muốn thăm bờ tây vào lúc ấy. Đó chính là Dmitry Manuisky, một người kỳ cựu của quốc tế cộng sản III, người đã cùng triển khai một cố gắng bất thành với Karl Radek nhằm nổ ra cuộc cách mạng Đức lần thứ hai vào tháng Mười năm 1923, ngay trước khi Lê nin qua đời. Sau đó ông là người Ukraina có trách nhiệm lớn cho cuộc tàn phá của Stalin dành cho Ukraina trong năm 1933. Manuisky có sự nhiệt tình đặc biệt cho việc kể trên, nhưng tướng Chuikov đã kiên quyết từ chối yêu cầu của ông sang thăm bờ Tây.
Trở lại Berlin, tâm trạng của Goebbel chao đảo giữa việc thuyết phục rằng sự sụp đổ của Stalingrad là sắp xảy ra – ông ta đã ra lệnh vào ngày 19 tháng Mười rằng tất cả những người nhận huân chương chữ thập hiệp sỹ phải được đưa về để báo chí phỏng vấn – và sự cẩn trọng. Lo rằng người dân Đức có thể thất vọng với diễn tiến chậm chạm này, ông ta cảm thấy họ cần phải được nhắc nhở rằng quân đội Đức đã tiến bao xa trong 6 tháng qua. Ông cũng ra lệnh rằng hình ảnh đó phải được công bố tại các thành phố Đức để cho thấy khoảng cách đến Stalingrad.
Ba ngày sau, ông lại ra lệnh rằng những cái tên như Tháng Mười Đỏ, Barricade phải được bỏ ra với bất kỳ giá nào trong các bài báo về trận chiến ác liệt, nếu nó cổ vũ cho “vòng vây bệnh dịch cộng sản”.
Trong khi những trận đánh lớn ở khu công nghiệp phía bắc thành phố nổ ra, thì cuộc chiến dành giật từng căn nhà với những lần xung phong, phản xung phong vẫn tiếp diễn ở những quận trung tâm. Một trong những hồi nổi tiếng nhất của trận Stalingrad chính là công cuộc phòng thủ “căn nhà Paplov”, kéo dài tới 58 ngày.
Vào cuối tháng Chín, một trung đội thuộc trung đoàn cận vệ số 42 đang giữ một khối nhà bốn tầng nhìn ra quảng trường, cách bờ sông chừng 300 thước Anh. Trung đội trưởng, trung úy Afanaev, sớm bị mù trong chiến đấu, nên trung sỹ Jakob Paplov nắm quyền chỉ huy. Họ tìm thấy vài thường dân ở dưới tầng hầm, và những người này đã ở lại trong suốt cuộc chiến. Một trong số đó là Mariya Ulyanova, cũng góp phần trong công cuộc phòng thủ. Quân của Paplov đục vách để dễ liên lạc hơn, và khoét những lỗ trên tường để tạo các vị trí bắn tốt hơn cho đại liên và súng trường chống tăng nòng dài. Mỗi khi xe tăng địch tiến đến, quân Paplov tản ra, từ hầm cho đến tầng nhà cao nhất, từ đó họ có thể giao chiến ở tầm gần. Xe tăng Đức không thể nâng góc của pháo chính để bắn lại hữu hiệu. Sau này, tướng Chuikov thường thích chỉ ra rằng quân của Paplov tiêu diệt được nhiều hơn cả số quân Đức thiệt mạng khi chiếm Paris (Jakov Paplov được tặng danh hiệu Anh hùng Liên Xô, sau này ông làm tu viện trưởng Chính thống giáo tại một nhà thờ ở Sergievo – trước tên là Zagorsk – nơi ông thu hút được vô số người sùng đạo rằng không có gì để làm với danh tiếng của ông có từ Stalingrad. Giờ đây ông trông rất yếu đuối).
Một câu chuyện khác, với nhiều đoạn ngắn trích ra từ các bức thư, liên quan đến trung úy Charnosov, một trinh sát pháo thuộc trung đoàn pháo binh 384. Vị trí quan sát của ông nằm ở đỉnh một tòa nhà bị đại bác làm hư hại, từ đó ông gọi cho pháo bắn. Lá thư cuối cùng của ông cho vợ viết “Chào em, Shura! Anh gửi đến hai con chim bé bỏng của chúng ta, Slavik và Lydusia  những chiếc hôn. Anh vẫn khỏe. Anh bị thương hai lần nhưng chỉ là xước qua và vì thế nên anh vẫn xoay sở để dẫn hướng cho pháo quân ta bắn trúng đích. Lúc này, cuộc chiến ở thành phố mang tên lãnh tụ kính yêu của chúng ta, thành phố Stalin, đang vào hồi ác liệt. Trong những ngày chiến đấu gian khổ này anh đang báo thù cho quê hương thân yêu của anh, Smolensk, rồi khi đêm xuống, anh trở về dưới tầng hầm cùng hai đứa trẻ tóc vàng hoe ngồi trong lòng. Chúng làm anh nhớ đến Slavik và Lyda”. Trên xác ông, còn tìm thấy lá thư trước đó của vợ ông “Em rất mừng là anh đã chiến đấu tốt” bà ấy viết “và rằng anh đã được thưởng huy chương. Anh hãy chiến đấu cho đến giọt máu cuối cùng anh nhé, đừng để chúng bắt được anh, vì trại tù binh còn tệ hơn cả cái chết”. 
Những lá thư qua lại này dường như quá mẫu mực, nhưng lại rất thông thường ở thời điểm đó. Họ có thể rất chân thật, nhưng như nhiều người khác, họ cho thấy chỉ một phần sự thật. Khi người lính ngồi ở góc chiến hào hoặc một căn hầm thiếu ánh sáng để viết thư về nhà, họ thường gặp vấn đề về việc bày bỏ chính mình. Chỉ một tờ giấy, sau đó được gấp thành hình tam giác, như một chiếc thuyền giấy, bởi không có bao thư, dường như quá to và cũng quá nhỏ cho mục đích của họ. Và như thế, kết quả của lá thư là gồm ba phần chính: tìm hiểu tình hình gia đình, thuyết phục an tâm (anh vẫn ổn – vẫn còn sống), và mối ưu tư về trận chiến (bọn anh liên tục tiêu diệt quân và thiết bị của chúng. Ngày lẫn đêm, bọn anh không để chúng yên thân).
Những người lính Hồng quân ở Stalingrad biết rằng cả nước đang quan tâm tới họ, nhưng đa số phải tự biến đổi một phần của lá thư bởi họ hiểu các Đơn vị đặc biệt sẽ kiểm duyệt thư cẩn thận.
Ngay cả khi họ muốn thoát ra để viết thư cho vợ hay người yêu thì cuộc chiến vẫn luôn tồn tại bên cạnh, trong chừng mực nào đó bởi giá trị của một người được xác định do ý kiến của đồng đội và chỉ huy. Một người tên Kolya viết “Mariya em, anh nghĩ em vẫn nhớ đêm cuối cùng ta bên nhau. Bởi bây giờ, giây phút này đây, là chính xác một năm ngày ta xa nhau. Thật khó để anh nói lời tạm biệt với em. Rất buồn, nhưng chúng ta phải tạm xa vì mệnh lệnh của Đất mẹ. Chúng ta sẽ chấp hành mệnh lệnh tốt nhất có thể. Tổ quốc yêu cầu tất cả bọn anh đang bảo vệ thành phố này đứng vững cho đến cùng. Và bọn anh sẽ làm đúng mệnh lệnh đó”.
Phần lớn lính Nga dường như đã dẹp những cảm xúc cá nhân trong hoàn cảnh của cuộc chiến tranh Vệ quốc vĩ đại. Có thể họ e sợ bộ phận kiểm duyệt hơn so với phía Đức, họ cũng có thể đã bị tẩy não bởi chế độ Stalinist và rồi ý niệm về sự quên mình ập đến lớn hơn bất kỳ câu chữ kêu gọi ý thức hệ nào. Nó gần như là một phản ứng tự nhiên, một kiểu ép buộc về mặt lương tâm khi đối mặt với quân xâm lược. “Mọi người có thể chỉ trích anh”, một trung úy Hồng quân viết từ Stalingrad cho người vợ mới cưới chỉ vài tuần trước “nếu họ đọc lá thư này về cái lý do tại sao anh đang chiến đấu đó là vì em. Nhưng anh không thể phân biệt em ở đâu và tổ quốc ở đâu. Em và tổ quốc đều bằng nhau trong anh”.
Một nghiên cứu so sánh thư từ gửi về nhà viết bởi sĩ quan và binh lính ở cả hai phía cung cấp rất nhiều vấn đề. Với đa số thư của phía Đức ở Stalingrad tại thời điểm đó, thường nói về niềm đau thương, sự tỉnh ngộ và ngay cả việc không tin tưởng vào những gì đang diễn ra, như thể nó không còn là cuộc chiến mà họ đang dấng thân vào. “Anh thường tự hỏi mình” một trung úy Đức viết cho vợ “tất cả việc này là vì cái gì. Loài người điên dại cả rồi sao? Giai đoạn kinh khủng này sẽ ảnh hưởng lên phần lớn bọn anh cả đời”. 
Cũng có một số lượng đáng ngạc nhiên những người lính Nga bất mãn, họ quên rằng thư của họ sẽ bị kiểm duyệt, hoặc vì quá nản lòng nên họ bất cần. Nhiều người than vãn về khẩu phần ăn. “Dì Lyuba” một người lính trẻ viết “dì làm ơn gửi cho cháu ít thức ăn. Cháu rất xấu hổ khi xin dì như thế, nhưng cái đói buộc cháu phải làm”. Nhiều người thừa nhận rằng họ buộc phải đào bới kiếm ăn, và những người khác kể với gia đình rằng binh lính đang bịnh tật “bởi thiếu thức ăn và điều kiện y tế kém”. Một người lính bị bệnh lỵ viết “Nếu cứ tiếp tục thế này thì không thể nào tránh bệnh dịch lan tràn. Bọn anh đầy rận, mà chúng là nguồn cơn của bệnh tật”. Tiên đoán của người lính đó nhanh chóng được xác nhận.
Tại bệnh viện 4169, những người lính bị sốt Rickettsia nhanh chóng được cách ly. Các bác sỹ cho rằng “những thương binh bị lây bệnh sốt đó từ dân địa phương khi trên đường đến bệnh viện, và bắt đầu phát tán rộng từ đó”.
Song hành với những lời than vãn về thức ăn và điều kiện sống, là những thể hiện của chủ nghĩa chủ bại. Các chính trị viên rõ ràng bị đảo lộn bởi kết quả của việc kiểm duyệt thư từ do NVKD thực hiện. “Chỉ riêng tập đoàn quân 62, trong nửa đầu tháng Mười, bí mật quân sự bị tiết lộ với 12.747 lá thư” Ban chính trị báo cáo về cho Moscow “Vài lá thư còn mang những lời lẽ chống Sô viết, ủng hộ phát xít và mất niềm tin vào chiến thắng của Hồng quân”.
Một vài ví dụ cũng được nêu ra. “Hàng trăm, hàng ngàn người chết mỗi ngày” một người lính viết cho vợ “Giờ thì mọi thứ đều rất khó khăn, anh không thấy đường ra. Bọn anh có thể cho rằng Stalingrad tốt nhất là nên đầu hàng quách”. Vào thời điểm đó, nhiều người dân Nga sống chỉ với xúp nấu từ rau quả dại, một người lính thuộc trung đoàn bộ binh 245 viết cho gia đình “Ở hậu phương, họ la lên rằng mọi thứ nên để dành cho tiền tuyến, nhưng ở đây, mặt trận, bọn anh chẳng có gì cả. Thức ăn thì kém và ít ỏi. Những gì họ nói không phải là sự thật”. Hầu hết sự thật trong một lá thư viết về nhà gây ra tai họa. Một trung úy viết rằng “Không quân Đức rất giỏi… lính phòng không của ta chỉ bắt hạ được có vài chiếc” cũng bị xem là phản bội.
Mối nguy không chỉ đến từ việc kiểm duyệt. Một tay Ukraina 18 tuổi, rất ngờ nghệch, bị động viên vào sư đoàn của Rodimtsev, đã nói với những người lính đồng ngũ rằng họ không nên tin những gì được nói về kẻ thù: “Ở vùng bị chiếm, tôi còn một người cha và một người chị và quân Đức không giết hay cướp gì của ai hết. Họ đối xử với mọi người tốt lắm. Chị tôi đang làm việc cho người Đức”. Và đồng đội của tay đó đã bắt hắn ngay tại chỗ. “Một cuộc điều tra đang được tiến hành” báo cáo về Moscow thêm vào.
Một hình thức đàn áp chính trị khác trong Hồng quân, thực tế tại thời điểm đó, lại được làm giảm đi. Stalin, với một chính sách có tính toán để làm tăng tinh thần, đã thông báo đưa ra các phần thưởng mang hơi hướng phản động, như là huân chương Kutuzov, huân chương Suvorov. Nhưng hình thức công khai nhất, được thông báo vào ngày 9 tháng Mười, theo nhật lệnh 307, là áp dụng lại chế độ một thủ trưởng. Các chính trị viên bị giáng xuống làm cố vấn hoặc giáo dục luật lệ.
Các chính trị viên sửng sốt nhận ra rằng khá nhiều sỹ quan Hồng quân ghét và coi thường họ. Sỹ quan trong các trung đoàn không quân còn đặc biệt sỉ nhục họ. Ban chính trị phương diện quân Stalingrad phàn nàn rằng “thái độ hoàn toàn không đúng mực” đó lan rộng. Một chỉ huy cấp trung đoàn còn nói với viên chính ủy của mình rằng: “Không có lệnh của tôi, anh không được phép vào và nói chuyện với tôi”. Những chính trị viên khác thì nhận thấy “tiêu chuẩn sống bị giảm đi”, kể từ khi họ bị “ép phải ăn cùng với binh sỹ”. Ngay cả các thiếu úy cũng không ngại lưu ý rằng họ không thấy có lý do để các chính trị viên nhận lương sỹ quan nữa “bởi bây giờ họ không có nhiệm vụ gì cả. Họ đọc báo, rồi đi ngủ”. 
Ban chính trị giờ phải cân nhắc đến một “Phụ lục bổ sung”. Để nói rằng chính ủy hết thời, Dobronin đã viết cho Shcherbatov trong nỗ lực tìm kiếm sự hỗ trợ, với không có chút chỉ trích nào, rằng một người lính đã nói: “Họ đã cho ra huân chương Kutuzov và Suvorov. Và giờ chắc họ sẽ thêm huy chương thánh Nicolas, thánh George, và thế là kết thúc Liên bang Sô viết”.
Các phần thưởng cao quí khác của người Cộng sản – Anh hùng Liên Xô, huy chương Cờ đỏ, Sao đỏ - dĩ nhiên, vẫn chiếm vị trí rất quan trọng với nhà cầm quyền, ngay cả với huy chương Sao đỏ, vốn trở thành một thứ na ná như khẩu phần Stakhanovite được phát cho bất cứ ai tiêu diệt được một chiếc tăng Đức. Trong đêm 26 tháng Mười, một lãnh đạo Ban quân lực tập đoàn quân 64 đánh mất chiếc cặp có chứa 40 chiếc huy chương Cờ đỏ khi đợi phà qua sông, một sự kiện kinh khủng. Mọi người hầu như nghĩ rằng các kế hoạch phòng thủ của cả phương diện quân Stalingrad cũng bị mất. Nhưng rồi chiếc cặp được tìm thấy cách đó hai dặm trong ngày hôm sau. Chỉ thiếu mất có một chiếc huy chương. Có lẽ một người lính nào đó đã quyết định lấy đi, sau khi uống vài ly, và cho rằng nỗ lực của anh ta ở mặt trận không được ghi nhận đúng đắn… Vị lãnh đạo của Ban quân lực đó bị đưa ra tòa án binh với tội danh “tội bất cẩn”.
Lính tráng, mặt khác lại có quan điểm mạnh mẽ hơn với những biểu tượng của lòng dũng cảm. Khi một trong số họ được nhận huân-huy chương, đồng đội của anh ta sẽ thả nó vào trong một vại vodka, anh ấy phải uống và phải bắt cho được cái mề đay bằng răng khi cạn đến giọt cuối cùng.
Những ngôi sao Stakhanovite thực thụ của Tập đoàn quân 62, trên thực tế không phải là những người diệt tăng mà là các xạ thủ bắn tỉa. Mốt mới “chủ nghĩa bắn tỉa” được triển khai, và nhân dịp kỷ niệm lần thứ 25 Cách mạng tháng Mười, các phương tiện tuyên truyền cho cái nghệ thuật đen tối ấy càng trở nên điên cuồng hơn, với “một làn sóng mới của cuộc thi đua xã hội chủ nghĩa giết nhiều tên phát xít nhất”. Một tay xạ thủ có thành tích hạ được 40 tên địch sẽ nhận huy chương “Vì lòng dũng cảm” và danh hiệu “Xạ thủ cao quý”.
Người xạ thủ bắn tỉa nối tiếng nhất, dù không phải là có thành tích cao nhất, chính là Zaitsev thuộc sư đoàn Batyuk, người trong dịp kỷ niệm Cách mạng tháng Mười được ghi nhận hạ 149 lính Đức. (Ông ta vốn hứa sẽ đạt con số 150, nhưng thiếu mất một). Thành tích cao nhất, thuộc về “Zikan”, hạ được 224 lính Đức tính đến ngày 20 tháng Mười Một. Với tập đoàn quân 62, con người lầm lỳ Zaitsev, một người chăn cừu dưới chân dãy Ural, được miêu tả nhiều hơn bất kỳ một người hùng thể thao nào. Tin tức và cả những thêm thắt về thành tích của ông truyền miệng từ người này sang người khác khắp cả mặt trận.
Zaitsev, theo nghĩa tiếng Nga là thỏ rừng, được trao nhiệm vụ huấn luyện cho các xạ thủ bắn tỉa trẻ, và học trò của anh được biết đến với tên zaichata hay “những chú thỏ con”. Và thế là bắt đầu của “xu thế bắn tỉa” trong Tập đoàn quân 62. Các cuộc thảo luận được tổ chức nhằm nhân rộng học thuyết của “chủ nghĩa bắn tỉa” và trao đổi ý tưởng kỹ thuật. Phương diện quân Sông Đôn và Phương diện quân Tây Nam cũng theo “xu thế bắn tỉa” và đưa ra các ngôi sao của họ, như trung sỹ Passar của tập đoàn quân 21. Ông ta được ghi nhận với thành tích 103 lần hạ sát địch, đặc biệt bằng kỹ năng bắn vào đầu.
Những xạ thủ không phải người Nga cũng được lựa chọn ra để ca ngợi: Kucherenko, một người Ukraina, giết được 19 lính Đức, và một người Uzbek thuộc sư đoàn bộ binh 169 hạ được 5 tên trong ba ngày. 
Trong tập đoàn quân 64, xạ thủ Kovbasa (tiếng Ukraina nghĩa là xúc xích) hành động với một mạng lưới ít nhất là ba chiến hào, một để nghỉ ngơi và hai để chiến đấu, tất cả liên kết với nhau. Thêm vào đó, ông dựng các vị trí giả ở phía trước trung đội láng giềng. Ở đó, ông cắm cờ trắng gắn liền với các đòn bẩy, để có thể điều khiển từ xa bằng dây thừng. Kovbasa hãnh diện khẳng định rằng, ngay khi một lính Đức nhìn thấy một trong các lá cờ trắng của ông, thì hắn sẽ nhô mình lên khỏi chiến hào để nhìn rõ hơn và la to: “Rus, komm, komm”. Thế là Kovbasa tóm được hắn trong góc bắn. Danielov của trung đoàn bộ binh 161 cũng làm chiến hào giả, và trang trí bằng các con bù nhìn có mang chút ít trang bị Hồng quân. Rồi ông đợi những tên lính Đức thiếu kinh nghiệm bắn vào. Có bốn trong số đó là nạn nhân. Ở sư đoàn bộ binh Cận vệ số 13, thượng sỹ Dolymin, dựng ra một gác mái để bắn hạ các tổ đại liên hoặc pháo dã chiến. 
Những mục tiêu giá trị nhất, tuy thế, lại là các trinh sát pháo binh Đức. “Trong hai ngày [hạ sỹ Studentov] đã theo dõi tên sỹ quan quan trắc pháo và giết hắn bằng một phát súng”. Studentov đã thề sẽ đạt thành tích 170 lính Đức từ mức 124 để chào mừng ngày Cách mạng tháng Mười.
Tất cả các xạ thủ ngôi sao đều có kỹ thuật riêng của riêng mình và những chỗ ẩn nấp ưa thích. “Xạ thủ cao quý” Ilin, người được công nhận với thành tích “185 tên phát xít”, thỉnh thoảng dùng một cái thùng hoặc ống nước cũ để ẩn nấp. Ilin, chính trị viên thuộc một trung đoàn bộ binh cận vệ hoạt động trong khu vực nhà máy Tháng Mười Đỏ. Ông tuyên bố “Bọn phát xít sẽ hiểu được sức mạnh của vũ khí trong tay những siêu nhân Sô viết”, và hứa sẽ đào tạo mười xạ thủ khác.
Vài nguồn tin Sô viết tuyên bố rằng phía Đức đã mang hiệu trưởng trường bắn tỉa của họ sang để lùng diệt Zaitsev, nhưng cuối cùng Zaitsev đã hạ được ông ta. Zaitsev, sau vài ngày săn tìm, đã phát hiện được ông ta nấp dưới một tấm tôn, và bắn chết. Chiếc kính ngắm trên súng nạn nhân, được cho là chiến lợi phẩm quí giá nhất của Zaitsev, vẫn còn đang trưng bày tại viện bảo tàng các lực lượng vũ trang ở Moscow, nhưng câu chuyện đầy màu sắc sân khấu này vẫn thiếu tính thuyết phục. Chẳng nhẽ nó không có chút giá trị nào đến nỗi hoàn toàn không được nhắc tới trong các báo cáo cho Shcherbakov, trong khi hầu hết mọi thứ của “chủ nghĩa bắn tỉa” được báo cáo với sự hứng thú.
Nhà văn Grossman bị mê hoặc bởi thân thế và sự nghiệp của các xạ thủ bắn tỉa. Ông quen biết với Zaitsev và vài người khác nữa, bao gồm cả Anatoly Chekov. Vốn Chekov theo bố, một người nát rượu, vào làm việc ở một xí nghiệp hóa chất. Ông đã “học được mặt tối của cuộc sống” từ lúc còn bé thơ, nhưng ông cũng đã phát hiện ra tình yêu với môn địa lý, và giờ đây, trong cả ngày dài nấp và chờ đợi kẻ thù xuất hiện, ông mơ về những miền đất khác nhau trên thế giới. Chekov đã trở thành một trong các sát thủ một cách tự nhiên như cách mà cuộc chiến đã mang đến. Ông thể hiện xuất sắc ở trường bắn tỉa, vào lúc tuổi 21 ở Stalingrad, ông dường như kinh qua mà không chút sợ hãi “chỉ như con chim ưng không bao giờ sợ độ cao”. Ông sở hữu một kỹ năng hiếm có cho việc ngụy trang để ẩn nấp trên đỉnh các tòa nhà cao tầng. Để tránh ánh chớp đầu nòng có thể làm lộ vị trí, ông sáng chế ra một tấm chắn sáng ở cuối nòng súng và không bao giờ bắn trong điều kiện ánh sáng kém. Để phòng xa hơn, ông còn cố chọn vị trí cho mình ở phía trước các bức tường màu trắng.
Vào một ngày, ông mang theo Grossman đi cùng. Mục tiêu thông thường, dễ dàng nhất, là nhóm lính tải thực phẩm lên các chốt tiền duyên. Không quá lâu, một tay lính bộ binh với đồ ăn xuất hiện. Sử dụng ống ngắm, Chekov ngắm lên chừng 2 inches so với đỉnh mũi. Người lính Đức ngã vật ra phía sau, đánh rơi thùng thức ăn. Chekov run lên vì hào hứng. Người lính thứ hai xuất hiện. Chekov bắn hạ. Rồi người thứ ba bò lui. Chekov cũng giết nốt. “Ba”. Chekov lầm bầm với chính mình. Kết quả đầy đủ sẽ ghi nhận lại sau đó. Thành tính tốt nhất của ông là 17 mạng trong một ngày. Bắn một tên mang bình nước là có thưởng, Chekov lưu ý thêm, vì nó buộc những tên khác phải uống nước bẩn. Grossmna đã băn khoăn về chàng trai này, người luôn mơ về những vùng đất xa lạ, “người không bao giờ làm đau một chú chim” và cũng không là “một vị thánh của cuộc chiến vệ quốc” (Dường như Grossman đã trải qua một giai đoạn lý tưởng hóa tâm hồn, nhìn người lính Hồng quân trong khuôn khổ như Tolstoy. Ông viết trong một quyển khác “trong chiến tranh, người Nga phủ một chiếc áo trắng tinh lên tâm hồn. Anh ta có thể sống với đầy tội lỗi nhưng chết như một vị thánh. Ở mặt trận, suy nghĩ và tâm hồn của phần lớn là trong sạch và khiêm tốn như thầy tu)
Phong trào bắn tỉa được phỏng theo với cả những loại vũ khí khác. Manenkov thuộc sư đoàn bộ binh 95 trở nên nổi tiếng với khẩu súng trường chống tăng nòng dài PTR. Ông được tặng danh hiệu Anh hùng Liên Xô với 6 chiếc tăng bị bắn hạ trong cuộc chiến quanh khu xí nghiệp pháo binh Barrikady. Thiếu úy Vinogradov thuộc sư đoàn pháo binh 149 cũng trở nên lừng lẫy như là người ném lựu đạn giỏi nhất. Khi anh và 26 người khác bị vây mà không có thức ăn trong ba ngày, thông điệp đầu tiên Vinogradov gửi về phía sau là xin thêm lựu đạn chứ không phải thức ăn. Ngay cả lúc bị thương và điếc đặc, Vinagradov vẫn là “người săn phát xít giỏi nhất”. Có lần anh còn theo đuổi và giết một đại đội trưởng quân Đức và lấy về tài liệu từ xác địch.
Khi các sư đoàn Đức tiến về phía nam từ khu nhà máy máy kéo đến tuyến phòng thủ ở xí nghiệp Barrykady, tướng Chuikov, một lần nữa, trong đêm 17 tháng Mười, đổi địa điểm sở chỉ huy. Ông dừng ở cuối bờ sông, song song với đồi Mamaev Kurgan. Một lực lượng mạnh của Đức đã chọc thủng đến sông Volga trong ngày hôm sau, nhưng bị đánh bật lại trong một trận phản công.
Chỉ có tin tức được cam đoan của đại tá Kamynin, gửi từ túi kháng cự còn lại ở phía bắc khu vực nhà máy máy kéo ở Rynok và Spartakovka. Rằng tình hình đã được khôi phục, và quân sỹ đã chiến đấu dũng cảm. Tuy thế, vẫn còn nhiều vấn đề với các lữ đoàn dân quân. Trong đêm 25 tháng Mười, cả một bộ phận của lữ đoàn đặc biệt 124 “là cựu công nhân ở nhà máy máy kéo Staligrad”, đã bỏ chạy sang phía Đức. Chỉ có một anh lính gác là chống lại ý định đó, nhưng anh ta phải đồng ý tham gia khi bị đe dọa. Khi đến khu phân tuyến, anh lính làm như có chút vấn đề với xà cạp chân và dừng lại. Anh chớp lấy cơ hội để thoát khỏi cả đám và chạy về với tuyến quân Nga. Bọn đảo ngũ bắn sau anh, nhưng thất bại. Anh lính gác, D., đã về lại trung đoàn an toàn, nhưng sau đó bị bắt và ra tòa án binh “vì đã không có các biện pháp thông báo cho chỉ huy về tội ác sắp sảy ra và ngăn chặn bọn phản bội đào ngũ”.
Những trận đánh tiêu hao quanh xí nghiệp Barrikady và nhà máy tháng Mười Đỏ vẫn tiếp tục với những trận đột kích và phản đột kích. Vị trí của đài chỉ huy một tiểu đoàn thuộc sư đoàn bộ binh 305 (Đức), theo lời một sỹ quan, gần quân địch đến nổi trung đoàn trưởng có thể nghe thấy tiếng quân Nga “Urrah!” qua máy điện thoại. Một trung đoàn trưởng của quân Nga, tuy vậy, lại ở giữa trận chiến. Khi sở chỉ huy của mình bị tràn ngập, ông đã gọi điện báo yêu cầu Katyusha bắn trùm ngay vào vị trí của mình.
Quân Đức phải thừa nhận rằng “bọn chó chiến đấu như sư tử”. Lượng thương vong của họ tăng lên nhanh chóng. Tiếng hét “Sani! Hilfe” từ thương binh cũng nhiều như số lượng các phát đạn nổ, như những lần nghe tiếng đổ ầm từ đống gạch nát. Nhưng rồi Tập đoàn quân 62 chỉ còn ở vài đầu cầu bên bờ tây, không có nơi nào có chiều sâu quá vài trăm thước. Các con đường bị chiếm, các vị trí Sô viết bị đẩy lùi đến sát mép dòng Volga, xí nghiệp pháo binh Barrikady gần như đã thất thủ. Điểm vượt sông cuối cùng của tập đoàn quân 62 nằm ngay dưới hỏa lực đại liên bắn thẳng, tất cả lực lượng tăng viện được ném vào đó để giữ. Các sư đoàn Sô viết chỉ còn một vài trăm tay súng, nhưng họ vẫn phản công khi đêm xuống. Chuikov đã viết “chúng tôi cảm thấy như ở nhà khi đêm xuống”.
“Cha ạ” một hạ sỹ Đức viết về nhà “cha vẫn bảo con: Hãy làm tròn trách nhiệm và con sẽ chiến thắng. Cha chắc sẽ không quên được những lời đó bởi hiện nay, mọi người có đầu óc ở Đức đều nguyền rủa cuộc chiến tranh điên khùng này. Không thể mô tả được những gì đã diễn ra. Mọi người ở Stalingrad có đầu óc và chân tay, đàn bà cũng như đàn ông, tiếp tục chiến đấu”. Một lính Đức khác cũng viết về nhà với tâm trạng chua xót: “Đừng lo ngại, đừng đau khổ, bởi nếu anh về với tổ tiên sớm thì chịu đựng ít hơn. Chúng ta thường nghĩ rằng nước Nga sẽ đầu hàng, nhưng giờ thì chỉ có những kẻ vô học ngu xuẩn mới tin vào điều đó.” Người lính thứ ba thì quan sát đống đổ nát quanh anh: “Tại nơi này, một lời Phúc âm thường chạy qua đầu tôi: Không một hòn đá nào còn tồn tại sau tất cả. Ở đây, đó là sự thật”.

tải về 2.43 Mb.

Chia sẻ với bạn bè của bạn:
1   2   3   4   5   6   7   8   9   10   ...   18




Cơ sở dữ liệu được bảo vệ bởi bản quyền ©hocday.com 2024
được sử dụng cho việc quản lý

    Quê hương