Phần 1: Toàn thế giới nín thở chờ đợi Chương 1: thanh kiếm hai lưỠi của barbarossa


Chương 22: Một thống chế Đức không thể tự tử bằng kéo cắt móng tay!



tải về 2.43 Mb.
trang16/18
Chuyển đổi dữ liệu25.03.2018
Kích2.43 Mb.
#36541
1   ...   10   11   12   13   14   15   16   17   18

Chương 22: Một thống chế Đức không thể tự tử bằng kéo cắt móng tay!
Khi những chiếc phi cơ Không quân Đức bay mất, mọi người nhìn theo khát khao, và tiếp tục trông lên bầu trời cho đến khi đóm sáng nhỏ nhoi ấy biến mất hẳn. “Với trái tim nặng nề” một người lính viết “chúng tôi trông theo chiếc máy bay và nghĩ rằng thật tuyệt biết bao nếu được bay ra, khỏi cái địa ngục mà chúng tôi đang bị bỏ rơi này”. Sau khi phi trường Gumrak bị chiếm vào sáng sớm ngày 22 tháng Giêng, chỉ còn một ít chuyến bay cố hạ cánh được ở phi đạo Stalingradsky bé tý. “Cầu không vận”, và là lối thoát cuối cùng, đã sụp đổ.
Việc tiếp liệu giờ phụ thuộc vào những thùng hàng được thả dù xuống, “những quả bom hậu cần”, nhưng dù Tập đoàn quân VI yêu cầu dùng dù màu đỏ, phía Không quân Đức vẫn dùng dù trắng. Hệ thống thả dù càng lúc càng trở nên thả-và-mất, bởi rất ít đơn vị còn pano nhận dạng và Quân đoàn không quân VIII đã mất liên lạc vô tuyến với sở chỉ huy Tập đoàn quân VI kể từ ngày 24 tháng Giêng. Tướng Hube nhận một thông điệp rằng lính ở trong thành Stalingrad đổ nát, khi nghe tiếng động cơ máy bay, sẽ nằm trên tuyết xếp thành một hình dạng chữ thập để định dạng rằng “Quân Đức đang ở đây”. Khi ánh sáng hoặc tầm nhìn xấu, họ sẽ bắn pháo sáng lên ngay hướng máy bay, nhưng quân Nga ở quanh đó cũng bắn ngay lập tức pháo sáng cùng màu lên trời nhằm rối trí phi công. Gió mạnh cũng mang nhiều kiện hàng sang các tuyến mặt trận đã nhanh chóng rơi vào tay quân địch. Nhiều người liều mạng tới mức ráng chạy ra lấy những kiện hàng rơi ở bên ngoài. Những tay súng bắn tỉa Nga dễ dàng kết thúc họ. Trong những đống đổ nát ở Stalingrad, quân Đức đói khác cố mai phục lính Nga để cướp bánh mỳ.
Gumrak thất thủ đồng nghĩa với một chuyến đi kinh hoàng khác với các thương binh, mà đa số họ vừa mới chuyển từ Pitomnik sang, nơi họ đã thất bại khi tìm một chỗ trên các chuyến bay. “Thương binh kiệt sức tự băng bó nhau trong thị trấn đổ nát” một người sống sót báo cáo “họ bò đi như những con vật trên bốn chân, trong hi vọng tìm được vài sự giúp đỡ”.
Điều kiện trong các bệnh viện tạm thời ở Stalingrad còn tệ hơn cả Gumrak, với chừng 20.000 thương binh chen chúc trong các căn hầm đào dưới đống đổ nát của thành phố, đó là không nói đến số bệnh binh, mà có thể đến con số 40.000. Chừng 600 thương binh nặng nằm trong tầng hầm nhà hát Stalingrad, không đèn, không hệ thống vệ sinh. “Tiếng than, tiếng gọi giúp đỡ và cầu nguyện” một bác sỹ viết từ sư đoàn bộ binh cơ giới hóa số 60 “hoà cùng tiếng gầm của bom đạn. Mùi khói thuốc, mùi máu và mùi hôi thối từ các vết thương quyện đặc trong phòng”. Không có băng gạc, không thuốc và cũng không nước sạch.
Một số các bác sỹ thuộc các đơn vị tiền duyên được lệnh đến giúp sức trong hệ thống hầm ở hẻm núi Tsaritsa. Khu phức hợp này, trông như những đường hầm trong mỏ, giờ chứa đến 3000 thương binh hoặc bệnh binh nặng. Bác sỹ Hermann Achleitner, khi đến theo mệnh lệnh, đã được nhắc nhở ngay một câu: “Những ai vào đây là đã hết hi vọng”. Hàng đống xác lạnh cứng bên ngoài làm ông sốc mạnh. Bên trong, cảnh tượng địa ngục càng được tăng thêm bởi những ngọn đèn dầu tự chế, nguồn ánh sáng duy nhất ở đó. Không khí hôi thối, ngột ngạt khó thở. Ông được chào đón bằng những lời than vãn đáng thương: “Làm ơn cho tôi chút gì để ăn!”. Mỗi bệnh nhân chỉ nhận được một lát mỏng bánh mỳ cũ mốc cho cả ngày. Các bác sỹ biến nó thành một dạng súp, nóng và tốt hơn chút đỉnh. Băng gạc thiếu nghiêm trọng cho những ca bỏng tuyết nặng. Ông ghi nhận “Thường thì ngón chân, ngón tay đã nằm trong các lớp băng cũ bẩn thỉu khi chúng tôi thay”. Không thể khử rận. Các y tá khi thay băng đều thấy hàng đống rận xám lúc nhúc bò trên cổ tay, cẳng tay của bệnh nhân. Và khi người ấy chết, rận lũ rận sẽ kéo đàn bò đi khỏi thi thể anh ta để tìm một cơ thể còn sống khác. Các bác sỹ cách ly ngay những ca bệnh sốt Rickettsia ngay khi chẩn đoán ra, nhưng họ hiểu họ không còn nhiều thời gian trước khi có một trận dịch diễn ra ngay trong tầm tay. Một người lính trẻ, vẽ lại cảnh cơ cực đó, đã nghe thấy thời xì xào “Ở nhà họ sẽ không bao giờ biết được nơi đây như thế nào”.
Rút lui về từ thảo nguyên, khi vòng vây bị các Tập đoàn quân của Rokossovsky tiến đánh, làm số lính Đức trong thành phố đổ nát lên đến trên 100,000 người. Nhiều, nếu không phải là hầu hết, mắc bệnh lỵ, vàng da hoặc các bệnh khác, mặt họ nhuốm màu vàng xanh.
Phản ứng của thường dân Stalingrad không phải lúc nào cũng là thù địch, như một thương binh thuộc sư đoàn bộ binh 297 phát hiện ra. “Người phụ nữ Stalingrad đã xoa bóp đôi chân lạnh cứng của tôi trong cả giờ để không bị bỏng tuyết nặng” một sỹ quan viết “Nhiều lần họ nhìn tôi với sự trắc ẩn và bảo “cậu ấy quá trẻ và chắc chết mất””. Một nhóm lính, ngạc nhiên khi thấy vài phụ nữ Nga trong một ngôi nhà đổ nát một phần. Họ vừa nướng xong ít bánh mỳ, và đồng ý đổi một ổ lấy một khoang thịt ngựa đông lạnh.
Các trung đoàn, sư đoàn chẳng còn gì. Sư đoàn xe tăng 14 còn không quá 80 lính có khả năng chiến đấu. Khó lắm mới có một chiếc tăng hay một vũ khí hạng nặng nào đó còn đạn. Trong tình cảnh tuyệt vọng đó, kỹ luật bắt đầu bị tan vỡ. Sau khi tướng Paulus từ chối đầu hàng, việc kháng cự vẫn tiếp tục rộng khắp vì sợ quân Nga trả thù.
Không còn e ngại đại bác chống tăng, những chiếc T-34 của Liên Xô nghiền nát các ổ vũ khí và pháo thủ Đức dưới vòng xích. Hầm hố, boongke và các tòa nhà được gia cố bị phá nát bởi một khẩu dã pháo kéo đến trong tầm bắn thẳng. Lính Đức giờ đây trong tình cảnh bất lực cực độ, không làm gì được cho những đồng đội bị thương và ngay cho cả chính mình. Những trận tấn công tàn nhẫn của họ trong mùa hè năm trước dường như thuộc về một thế giới nào đó khác. Ngày 25 tháng Giêng, tướng Paulus và đại tá Wilhelm Adam, một trong các sỹ quan tham mưu cao cấp của ông, bị thương nhẹ ở đầu do mảnh bom. Tướng Morizr von Drebber đầu hàng cùng với một phần của sư đoàn bộ binh 297 ở cách phía tây nam Tsaritsa 3 dặm. Khi viên đại tá Liên Xô đến nhận sự đầu hàng đã hỏi rằng: “Các trung đoàn của ông ở đâu?”. Morizt von Drebber, theo phiên bản được phát sóng sau đó hai ngày trên truyền thanh Liên Xô bởi tiểu thuyết gia Theodor Plievier – một người cộng sản Đức “Cư dân Moscow”, đã nhìn quanh nhúm người còn lại, kiệt sức và bỏng tuyết, trả lời: “Tôi có cần phải giải thích cho ông không, thưa ông đại tá, về việc những trung đoàn của tôi ở đâu?
Trưởng ban quân y Tập đoàn quân VI, tướng Renoldi, là một trong số những tướng lĩnh đầu tiên tự nộp mình (Lần đầu tiên tình báo Hồng quân nghe được rằng Paulus đang trong tình trạng sụp đổ, đó là kết quả của cuộc thẩm vấn ông ta). Tuy nhiên, vài vị tướng khác vẫn tiếp tục hành động. Tướng Schlomer, người thay thế tướng Hube, bị bắn vào đùi, và tướng Von Hartmann của sư bộ binh 71 bị giết bởi một viên đạn vào đầu. Tướng Stempel, sư đoàn trưởng sư đoàn bộ binh 371 tự sát, như một số sỹ quan khác lúc bị địch quân tràn ngập ở vùng nam Stalingrad đến sông Tsaritsa. Bình minh ngày 26 tháng Giêng, xe tăng của tập đoàn quân 21 đã tiếp xúc được với sư đoàn bộ binh cận vệ 13 của Rodimtsev ở phía bắc đồi Mamaev Kurgan, cạnh khu tập thể công nhân nhà máy Tháng Mười đỏ. Cảnh tượng này thật cảm động như đã được dự đoán trước, đặc biệt là với tập đoàn quân 62 của Chuikov, những người đã chiến đấu đơn độc trong gần 5 tháng qua. “Mắt của những người lính cứng cỏi gặp nhau tràn lệ vui mừng” Chuikov viết. Rượu được chuyền tay nhau trong niềm vui mãnh liệt.
Vòng vây Stalingrad bị chia cắt làm đôi, Paulus và phần lớn sỹ quan cao cấp bị kẹt trong cái túi nhỏ hơn, ở phía nam, và quân đoàn XI của Strecker ở phần phía bắc quanh khu vực nhà máy kéo Stalingrad. Liên lạc duy nhất với thế giới bên ngoài của ông ta là hệ thống vô tuyến của Sư đoàn xe tăng 24.
Trong hai ngày kế tiếp, quân lạc ngũ Đức và Rumani, những thương binh hoặc bị pháo dập, cũng như các nhóm vẫn còn sức chiến đấu, tất cả rút vào phần túi phía bắc nhỏ hơn, nơi Paulus và Schmidt thiết lập sở chỉ huy mới ngay dưới cụm cửa hàng bách hóa Univermag ở quảng trường Đỏ.
Biểu tượng cuối cùng của sự chiếm đóng Đức là lá cờ chữ thập ngoặc treo trên một cột cờ tạm ở ban công trên lối vào. Những đơn vị còn lại thuộc trung đoàn pháo thủ 194 của đại tá Roske làm lực lượng bảo vệ. Roske được thăng cấp tướng với cương vị sư đoàn trưởng sư đoàn bộ binh 71 đã bị tiêu ma. Số lượng sỹ quan cao cấp Đức đầu hàng đồng nghĩa với ban 7 của Phương diện quân sông Đon, chịu trách nhiệm “hoạt động tuyên truyền” bận rộn hơn bội phần. Nhiều tù binh được mang đến thẩm vấn đề từ khi trận tấn công bắt đầu, và khó để chọn ai “quan trọng hơn”.
Đại úy Dyatlenko nhận lệnh quay về sở chỉ huy Phương diện quân sông Đon ngay lập tức. Một vị tướng Đức khác được mang đến để thẩm vấn. Dyatlenko biết rằng việc tốn thời gian với người mới này là xứng đáng, tướng Edler von Daniels. Qua lục soát những túi thư từ một chiếc máy bay vận tải bị rơi lúc đầu tháng, tìm thấy những lá thư viết theo dạng nhật ký của tướng Daniels gửi cho vợ. Cũng như những tù binh vừa mới bị bắt khác, Daniels trong tình trạng dễ bị khuất phục. Là một thẩm vấn viên đầy kinh nghiệm, Dyatlenko biết rằng chiến thuật tốt nhất bắt đầu từ những điều đơn giản nhất. Anh hỏi người tù quanh co về “em bé – vòng vây” của ông và rồi làm ông mất thăng bằng bằng việc bất ngờ đưa ra những lá thư và giấy tờ mà Daniels nghĩ rằng nó đã được gửi an toàn về Đức.
Thưa tướng quân” Dyatlenko ghi âm lại phần trao đổi với ông ta “Xin vui lòng nhận lại những giấy tờ của ngài. Đây là tài sản cá nhân của ngài, và ngài có thể đưa nó vào tài liệu lưu trữ của gia đình khi ngài trở về sau chiến tranh”. Dường như Daniels bị mất tự chủ bởi lòng biết ơn. Ông nhận ly trà và bánh qui cùng thuốc lá Nga, rồi “trả lời câu hỏi của chúng tôi”. Dyatlenko giữ ông đến tận tối. 
Sau buổi ăn tối, lại tiếp tục đến tận nửa đêm.Trong nhiều trường hợp, cách tiếp cận tế nhị như vậy là không cần thiết. Bởi với tâm lý ngượng ngùng pha lẫn giận dữ vì thất bại, làm họ dễ bảo nếu không nói là hợp tác, những sỹ quan đó cảm thấy bị phản bội với tư cách cá nhân và thấy có lỗi với lính của mình vì đã bảo đảm với họ về lời hứa bảo vệ của Quốc trưởng. 
Trong suốt buổi hỏi cung, họ thường xúc phạm nặng đến Hitler và chế độ. Họ gọi Goebbel là “con vịt què” và lấy làm tiếc rằng tay Goering mập ú đã không phải chịu đựng cái gọi là “thực đơn ăn kiêng ở Stalingrad”. Nhưng dĩ nhiên nó cũng cho những người Nga thấy rằng những viên tướng đó chỉ nhận ra bộ mặt thật của Hitler khi họ phải nếm trải sự phản bội mà ông ta đã đối xử vơi họ và Tập đoàn quân VI. Một vài người trong số đó còn mô tả Hitler và những chính sách của ông ta là tội phạm khi họ tiến sâu vào lãnh thổ Nga và những hành động tàn bạo được làm ngay trước tuyến mặt trận, rằng họ phải biết đến việc đó, nếu không có trường hợp nào chịu trách nhiệm trực tiếp. 
Từ các cuộc thẩm vấn sỹ quan bị bắt, sở chỉ huy Phương diện quân sông Don, hình thành ấn tượng mạnh mẽ rằng Paulus “đang trong tình trạng căng thẳng nặng, và phải làm vai trò mà họ buộc ông phải làm”. Họ càng thêm tin rằng Paulus đang là một tù nhân trong chính sở chỉ huy của ông và cai ngục chính là viên tham mưu trưởng. Dyatlenko không chút nghi ngờ rằng Schimidt chính là “tay, mắt của đảng Quốc xã” trong tập đoàn quân 6, bởi những sỹ quan bị bắt khai rằng “Schmidt đang chỉ huy tập đoàn quân và cả bản thân Paulus”.
Đại tá Adam, sau này khai với Dyatlenko rằng, chính Schmidt là người lệnh cho việc đuổi đoàn sứ giả ngưng chiến về (Dyatlenko không hề tiết lộ rằng anh chính là người trong đoàn ấy). Các sỹ quan cao cấp ở Tập đoàn quân VI hình như đều biết rõ nội dung chứa trong chiếc túi da bóng ấy. Vào cái buổi sáng ngày 9 tháng Giêng đó, khi Dyatlenko và Smyslov đợi trong hầm, họ đang đọc trong bữa ăn sáng các truyền đơn được thả từ máy bay Nga với dòng tối hậu thư. Cũng trong sáng đó, tướng Hube bay về trong vòng vây sau chuyến làm việc với Hitler. Ông ta mang theo mệnh lệnh không được đầu hàng. Theo đại tá Adam, điều này đã làm tăng vị trí của người không khoan nhượng Schmidt tại sở chỉ huy Tập đoàn quân VI.
Ngày 29 tháng Giêng, đêm kỷ niệm năm thứ mười ngày Hitler chiếm quyền lực, sở chỉ huy Tập đoàn quân VI gửi một điện tín chúc mừng từ căn hầm đổ nát của họ: “Kính gửi quốc trưởng! Tập đoàn quân 6 chúc mừng Quốc trưởng nhân ngày kỷ niệm sự kiện ngài nắm quyền. Lá cờ chữ vạn vẫn phất phới trên thành Stalingrad. Cuộc chiến đấu của chúng tôi có lẽ là một tấm gương cho các thế hệ hiện tại và tương lai sẽ không đầu hàng cho dù tình hình tuyệt vọng và rằng nước Đức sau cùng sẽ chiến thắng.
Heil mein Fuhrer! Paulus”.
Bức điện kỳ cục trong hoàn cảnh lúc đó, dường như được thảo và gửi bởi tướng Schmidt. Từ ngữ rõ ràng mang giọng lưỡi ông ta. Còn Paulus, khi ấy, bị bệnh lỵ, bàng hoàng vì các sự kiện và mất tinh thần, nên không khó để tưởng tượng ra rằng ông chỉ biết gật đầu chấp thuận khi được cho xem bức điện. Groscurth, như để chứng minh, đã báo cáo trong một lá thư không lâu trước đó rằng: “Tướng Paulus trong tình trạng kiệt quệ về thể xác lẫn tinh thần”.
Ngày 30 tháng Giêng, ngay trong lễ kỷ niệm, Goering đã phát biểu trên đài, so sánh Tập đoàn quân VI với quân Spartan ở Thermopylae. Bài diễn thuyết này không đón nhận tốt mấy ở Stalingrad khi nghe qua sóng radio. Sự thật là, với mọi người, Goering đã đọc “bài điếu văn cho chúng tôi”, lăng nhục đến thanh danh của họ. Gottfried von Bismarck đã mô tả ảnh hưởng là “kinh khủng”. Trong những căn hầm trong nhà hát Stalingrad lèn chặt thương binh, giọng của Goering được nhận ra ngay. “Tắt ngay đi” vài người hét lên. “Chuyển kênh đi” những người khác gào theo và nguyền rủa ông ta. Chương trình phát thanh kết thúc bằng bảng giao hưởng số năm của Bruckner. Nhiều sỹ quan đùa cợt chua cay rằng cuộc “tự sát của người Do Thái” trên đỉnh Masada có lẽ là một so sánh hợp lý hơn là Thermopylae. 
Họ không biết rằng nó cực kỳ chính xác thế nào. Hitler đã tính toán đến một cuộc tự sát tập thể, bao gồm tất cả những sỹ quan cao cấp. Bài diễn thuyết của chính Hitler được Goebbel phát sóng sau đó trong ngày kỷ niệm, bị trễ lại bởi máy bay ném bom Nga. Nghe có vẻ cay đắng, nhưng hồi tự-bào-chữa xem chừng quá thô để dấu. Ông ta chỉ dành một câu cho Stalingrad, bởi thảm họa sẽ phủ bóng lên ngày vui của chế độ: “Trận đánh anh hùng của quân ta trên dòng Volga là sự cổ vũ cho mọi người làm hết sức mình cho cuộc chiến vì tự do và tương lai của nước Đức, và rộng hơn là sự bảo tồn cho cả châu Âu”. Đó là lần thú nhận đầu tiên rằng kể từ đó quân đội Đức phải chiến đấu để ngăn chặn sự thất bại.
Ngày hôm sau, Hitler, như thể bù đắp cho cảm xúc của thảm họa, đã phong tước cho 4 vị thống chế mới, bao gồm cả Paulus. Đây là đợt thăng chức cao cấp lớn nhất kể từ lần chiến thắng nước Pháp. Khi điện tín thông báo về việc thăng chức lên thống chế đến, Paulus ngay lập tức đoán ra rằng ông được cho một ly thuốc độc. Ông kêu lên với tướng Pfeffer trong cuộc hội họp cấp tướng lần cuối rằng: “Tôi không có ý định tự bắn mình vì tay hạ sỹ lang thang đó” (I have no intention of shooting myself for this Bohemian corporal). 
Một viên tướng khác nói với thẩm vẩn viên NKVD của ông rằng Paulus đã nói: “Đó trông có vẻ như là một lời mời chào tự sát, nhưng tôi không làm cái đặc ân đó cho Hitler đâu”. Theo bản năng Paulus không chấp nhận việc tự sát. Khi ông nghe quân của mình chọn kiểu “tự sát theo lối lính” – đứng trên giao thông hào để đợi quân địch bắn hạ - ông ra lệnh cấm ngay kiểu đó. Còn Hitler, dĩ nhiên không thèm quan tâm tới việc cứu mạng, mà chỉ chú trọng tới việc tạo nên những huyền thoại đầy thuyết phục. Rõ ràng là ông ta hy vọng các sỹ quan cao cấp của Tập đoàn quân sẽ theo gương của Đô đốc Lutjen trên thiết giáp hạm Bismarck, một ý nghĩ kỳ quặc, không nghi ngờ gì, được khuyến khích từ tin cái chết của tướng Von Hartman và tướng Stempel.
Túi phía nam tiếp tục co lại nhanh chóng. Ngày 30 tháng Giêng, các đơn vị Soviet đã xuyên thủng đến ngay trung tâm thành phố. Trong những căn hầm nơi phần lớn quân Đức đang trốn cái lạnh và pháo kích, tâm trạng tuyệt vọng và đề phòng kinh khủng dâng cao. Ở trụ sở của NKVD, bầu trời mùa đông có thể nhìn thấy qua mái vòm bị xuyên thủng. Sàn bằng đá phủ đầy gạch vỡ và vụn vữa trong cái kiến trúc như cái lồng gồm cầu thang và rào chắn vặn xoắn vào nhau. Một lá cờ chữ thập đỏ bên ngoài lối vào làm một sỹ quan bộ binh Đức nổi điên, vì cho đó là dấu hiệu đầu hàng.
Anh ta bước xuống hầm, ở đó các bác sỹ vẫn tiếp tục phẫu thuật trong ánh đèn cháy bằng gas của bệnh viện dã chiến, trong khi đợi quân Nga đến. Dữ tợn với ánh mắt hoang dại, viên sỹ quan đe dọa họ bằng khẩu tiểu liên. “Việc gì ở đây vậy? Sẽ không có đầu hàng gì cả! Cuộc chiến vẫn tiếp tục”. Nhiều người bị mất thăng bằng do căng thẳng và ảo giác vì thiếu ăn nghiêm trọng. Trong hầm đầy người còn trong cơn mê sảng. Bác sỹ Marksein, một người Danzig, nhún vai thờ ơ “Đây là trạm y tế”, ông nói. Người chiến binh loạn trí không bắn họ, vẻ ma quái của anh biến mất và trở nên u ám mà không một lời nói.
Khi tướng Von Seydlitz, ở trong cùng tòa nhà, cho phép các sư đoàn trưởng thuộc quyền, kể từ ngày 25 tháng Giêng tự quyết họ sẽ đầu hàng hay không, Paulus đã giải phóng nhiệm vụ chỉ huy của ông ta. Ông đặt tất cả các sư đoàn của Seydlitz dưới quyền tướng Walter Heitz, tư lệnh quân đoàn VIII. Khi ấy, Heitz ra một mệnh lệnh rằng ai cố đầu hàng sẽ bị bắn tại chỗ. Lúc Seydlitz cùng hơn một tá sỹ quan khác đầu hàng – trong đó gồm cả tướng Pfeffer, Korfes và Sanne – hỏa lực đại liên đã bắn vào họ từ tuyến quân Đức khi phía Nga giải họ đi. Sau nay Seylitz tuyên bố rằng hai sỹ quan Đức đã tử thương là kết quả của cái “mệnh lệnh khải huyền” của Heitz.Tuy vậy, tướng Heitz, khi đưa ra lệnh “Chúng ta chiến đấu đến viên đạn cuối cùng”, đã không bao gồm cá nhân ông và sở chỉ huy của ông vào trong câu nói hoa mỹ tu từ đó. Một sỹ quan dưới quyền đã nhận thấy rằng, ban tham mưu của ông ta, rõ ràng là ông ta biết, đã chuẩn bị cờ trắng.
Đại tá Rosenfeld, sỹ quan không quân chỉ huy trung đoàn cao xạ 104 lại tuân thủ sự khoa trương đó đúng như mong đợi của chế độ. “Lá cờ chữ vạn tung bay trên đầu chúng tôi” ông đánh điện về trong đêm 30 tháng Giêng “Mệnh lệnh của tổng tư lệnh tối cao sẽ được thực hiện đến cùng. Quốc trưởng muôn năm!”. Đêm đó, sở chỉ huy tập đoàn quân 6 gửi một điện tín cảnh báo rằng một số chỉ huy đang đầu hàng bởi quân mình hết đạn, nhưng cũng kế tục lối nói hoa mỹ như của Rosenfeld, tuyên bố rằng họ đang “lắng nghe bài quốc ca lần sau chót với cánh tay giơ cao chào nước Đức”. Một lần nữa, giọng điệu này mang hơi hớm của Schmidt hơn là của Paulus. Mà cho dù sự thật thế nào, thì chẳng có mấy người lính có ước mơ hoặc đủ sức để chia sẽ cảm xúc đó. “Trong đêm 30 tháng Giêng,” một trung sỹ ghi lại “mọi người bận rộn với suy nghĩ riêng, với cái đói cồn cào, với vết thương đau nhức và bỏng tuyết, cùng những suy tư về nhà và về số mệnh của họ”. Các sỹ quan thì đặc biệt lo sợ bị tử hình. Nhiều người tháo quân hàm.
Cũng trong giữa đêm đó, tướng Voronov trong căn nhà izba ở sở chỉ huy phương diện quân sông Don, hốt hoảng tỉnh giấc sau một giấc ngủ chập chờn. Một ý nghĩ đột nhiên ồ đến với ông rằng Paulus có thể đã trốn thoát bằng một chiếc máy bay hạ trên lớp băng của sông Volga. Phản ứng của Stalin trước việc mất một giải thưởng có giá như vậy thì thật là rõ ràng để tưởng tượng. Ông nhảy khỏi giường và gọi điện ra lệnh cho pháo binh dọc bờ đông Stalingrad phải được nhắm vào lớp băng để phòng xa.
Sáng ngày kế tiếp, 31 tháng Giêng năm 1943, Tập đoàn quân 64 của Sumilov siết chặt toàn bộ trung tâm thành phố Stalingrad. Những tòa nhà đổ nát và hầm hố được quét sạch bằng thủ pháo và súng phun lửa. Quảng trường Đỏ bị pháo cối tập trung hỏa lực trước khi lính tiến vào cửa hàng Univermag. Lính thủ pháo còn lại của Roske xung quanh sở chỉ huy Paulus cuối cùng cũng hạ vũ khí. 7h30 sáng, đại úy Behr thuộc đội đặc nhiệm Milch nhận điện: “Quân Nga ở ngay cửa. Chúng tôi chuẩn bị đầu hàng”. Mười phút sau, thượng úy Fyodor Ilchenko bước vào tầng hầm chật cứng và hôi hám, thì điện tín được gửi đi: “Chúng tôi đầu hàng”. Behr chuyển ngay thông điệp đó cho sở chỉ huy thống chế Manstein ở cụm tập đoàn quân sông Don. Đến Đức, truyền thông nhà nước loan tin: “Tình hình ở Stalingrad không thay đổi. Tinh thần của những người phòng thủ không sứt mẻ”.
Các sỹ quan tham mưu của tướng Sumilov đến thảo luận các điều kiện đầu hàng với tướng Schmidt trong tầng hầm. Paulus vẫn ở phòng cạnh bên và Adam thông báo cho ông mọi bước. Đây là một mánh lới cho việc Paulus tránh khỏi tiếng đầu hàng hay là một chỉ dấu khác cho thấy Schmidt điều khiển mọi việc vì Paulus hoàn toàn suy sụp, không rõ. Cuối cùng, hai giờ sau khi thượng úy Ilchenko xuất hiện, tướng Laskin đến nhận sự đầu hàng chính thức của Paulus, trước ông, Schmidt và Adam được đưa đến sở chỉ huy của Smilov bằng xe hơi, cùng với tướng Roske khi ông này cố nài.
Cũng giống như quân lính của họ, ba người đó nổi bật trong ánh mặt trời với bộ râu xanh rì, ngay cả khi họ không quá nhợt nhạt như các binh sỹ. Đại tá Adam, như Vasily Grossman ghi nhận, đập đen đét chiếc mũ lông ushaka xuống “như tai của một con chó nòi vừa ngoi lên khỏi mặt nước”. Các tay quay film thời sự đang đợi để ghi hình sự kiện này.Những người khác vẫn ở trong các hầm hào ở trung tâm thành phố đợi đến khi quân Nga xuất hiện. Vẫy nòng tiểu liên, họ lệnh cho quân Đức ném vũ khí sang một góc và đi ra. Phía bại trận đã sẵn sàng cho việc bị giam giữ bằng cách quấn chặt giẻ xé từ các bộ quân phục quanh ủng của họ. Nhiều người lính gào to “Đả đảo Hitler!”như một thứ tín hiệu đầu hàng. Quân Nga có thể trả lời “Kameraden. Krieg kaputt! Paulus kapituliert!” nhưng hầu hết họ hét “Faschist!” hoặc “Frizt! Komm! Komm”.
Khi quân Nga tiến vào tầng hầm của nhà hát, họ ra lệnh: “Những ai có thể đi được, hãy ra ngoài và hành quân đến trại tù”. Những người đứng dậy được cho rằng các thương binh bị bỏ lại sẽ được chăm sóc. Nhưng chỉ sau này họ mới biết được rằng phía Hồng quân hành động theo nguyên tắc rằng những tù binh không thể đi được sẽ tự kết liễu ở nơi họ nằm. Một hai trường hợp, sự thịnh nộ cùng nỗi tuyệt vọng tạo thành một hỗn hợp nổ. Ngay trong tòa nhà NKVD, tất cả lính Đức chờ đợi bị giết để trả thù, sau khi một sỹ quan dấu được một khẩu súng ngắn theo, đã bất ngờ bắn gục một thiếu tá Nga ở khoảng cách gần, rồi tự quay súng về phía mình. Không rõ vì sao mà khoảng khắc giận dữ của lính Nga qua đi, và những tù binh được dung thứ.
Việc đầu hàng ở Stalingrad mang lại một số mệnh bấp bênh, không thể đoán trước được với quân Đức. Lính Nga, không rõ là có chủ định hay chỉ là tai nạn, đã phóng hỏa một bệnh viện tạm thời chứa đầy thương binh trong một lán trại công binh ở phi trường. Trong khi đó, có hai sỹ quan phòng không Đức, đang bị giải lên lầu bởi lính Nga do nhận thấy các miếng đỏ trên cổ áo thể hiện cấp bậc cao, đã phóng mình nhảy qua một cửa sổ vỡ. Họ rớt xuống một nhà xí, rồi quân Nga xuất hiện chung quanh sẵn sàng nhả đạn. Viên trung úy trẻ tuổi hơn đã cứu mạng cho cả hai người bằng suy nghĩ nhanh nhẹn và tâm lý sắc bén. Anh bảo người đi cùng cởi quần ra. Lính Nga cười rộ lên và tha cho hai người. Họ không thể bắn những ai cởi truồng ra.
Đơn vị đặc biệt NKVD tìm kiếm lính Hiwis cũng như những “con chó phát xít”, trong nghĩa của họ là quân “SS, Gestapo, lính tăng, và quân cảnh”. Một số lính Đức nhận nhầm là SS, bị đẩy sang một bên và giết chết bằng súng tiểu liên. Hình như lính Hồng quân từ một sư đoàn Siberia đã quay mặt đi, kinh tởm cảnh tượng đó. Cũng theo cùng một nguồn tin, dựa trên việc thẩm vấn một nữ sỹ quan điệp viên Soviet bởi cảnh sát dã chiến mật vào sáu tháng sau đó, đã ghi nhận việc tử hình một nhóm 23 lính Hiwi.
Việc tìm kiếm quân Hiwi của NKVD là rất gay gắt. Bất kỳ một ai (là người Nga) trong quân phục Đức có cơ bị bắn tại chỗ, như một tiểu đoàn trưởng thuộc sư đoàn bộ binh 297 nhận ra. “Lính Liên Xô đột nhiên dừng chúng tôi lại, và bởi vì quân phục của tôi không đủ, thiếu nón, nên muốn bắn tôi vì tôi là Hiwi. Chỉ nhờ một bác sỹ Nga có kiến thức mà tôi được cứu”. Một số đáng kể lính Hiwi trung thành với nước Đức cho đến phút cuối. Trong đống đổ nát của Stalingrad ngay trước giờ đầu hàng, nhiều người lính trong sư đoàn bộ binh 305 đang chết đói. Những tay Hiwi ở cùng với họ biến mất, họ cho rằng đó là lần sau cùng còn nhìn thấy chúng, nhưng rồi những người Nga đó quay lại với thức ăn cho họ. Những tay Hiwi đó tìm thấy thức ăn ở đâu, họ không nói. Tuy vậy, lòng trung thành đó không phải luôn luôn được đáp lại. Ngay trước lúc đầu hàng, một sỹ quan đã hỏi viên chuẩn úy: “Chúng ta nên làm gì với tám thằng Hiwi của mình nhỉ? Tôi có nên giết chúng không?”. Viên chuẩn úy giật mình trước kiểu máu lạnh đó, bác bỏ ngay ý kiến ấy. Anh bảo những tay Hiwi đó hãy tìm các trốn hoặc lẩn đi theo cách tốt nhất có thể. Họ tự lo cho mình.
Số phận của quân Hiwi trong vòng vây lúc kết thúc trận chiến Stalingrad vẫn còn không rõ ràng, một phần bởi đến giờ hồ sơ của sư đoàn NKVD số 10 vẫn chưa được giải mật. Không có cách nào để biết bao nhiêu người đã chết trong mười tuần bị vây và trong ba tuần chiến đấu ác liệt sau cùng. Một số bị bắn khi bị bắt, một số ít khác được dùng làm thông ngôn hay chỉ điểm, rồi hầu hết chắc cũng bị giết sau đó, nhưng phần lớn bị NKVD giải đi. Ngay cả tình báo Hồng quân cũng không biết được về sau những người đó ra sao. Có thể họ bị tàn sát – có những nguồn tin sau này nói rằng những người Hiwi bị bắt đã bị đánh đến chết, thay vì bắn, vì để tiết kiệm đạn – nhưng vào đầu năm 1943 lúc đó nhà cầm quyền Liên Xô muốn tăng lực lượng lao động khổ sai, đặc biệt khi chuyển những tù nhân trại Gulag vào các đại đội trừng giới. Giải pháp bắt Hiwi lao động đến chết chắc chắn là một sự báo thù khắc nghiệt hơn vì nó kéo dài sự chịu đựng. Mặt khác, Stalin và Beria hẳn cũng ám ảnh bởi suy nghĩ rằng một cái chết tức thời cho bọn phản quốc thì thỏa mãn cho chúng quá. 
Trong những ngày sau cùng của trận chiến, giới chức quân sự Liên Xô gia tăng cảnh giác nhằm ngăn ngừa những nhóm nhỏ thoát khỏi lưới của họ. Ba sỹ quan Đức trong quân phục Hồng quân, chỉ huy là một trung tá đã bị bắt vào ngày 27 tháng Giêng. Một trung úy Nga thuộc một trung đoàn xe tăng đã dồn được hai sỹ quan Đức khác, và đã bị thương do họ bắn trả. Ước lượng có chừng 9 hay 10 nhóm nhỏ quân Đức chọc thủng được vòng vây, nhưng không ai trong số họ được ghi nhận là thoát được, bởi lúc đó cụm Tập đoàn quân sông Don đã bị ép lùi về đến tận sông Donet, cách vòng vây 200 dặm. Tuy vậy, có một câu chuyện không được kiểm chứng và không đáng tin của một người lính kể lại, nhưng anh ta bị giết ngay ngày hôm sau bởi một quả bom rơi trúng bệnh viện dã chiến, nơi anh nằm điều trị vì kiệt sức và bỏng tuyết. Những người khác được nói là đã cố thoát về hướng Nam trong thảo nguyên và tìm nơi trú ẩn trong dân Kalmyk, vốn khá thân thiện, nhưng chính những người Kalmyk cũng như đa số các dân tộc khác ở các vùng phía nam Liên bang Sô viết, nhanh chóng nhận được sự trả đũa từ quân NKVD của Beria.
Lính Nga ở tiền tuyến, đặc biệt là ở các sư đoàn Cận vệ, được nói là đối đãi nghiêm túc với kẻ bại trận hơn các đơn vị thuộc tuyến hai. Nhưng vài tay lính say, ăn mừng chiến thắng, đã bắn tù binh, dù cho mệnh lệnh là ngược lại. Ngay cả quân của các đơn vị tinh nhuệ cũng nhanh nhẹn lột đồng hồ, nhẫn, máy chụp hình cũng như cà men bằng nhôm có giá trị cao của quân đội Đức từ những người bị bắt. Đa số những thứ đồ đó được đổi lấy vodka. Trong vài trường hợp, một đôi ủng lông ngon lành bị tước khỏi tay một tù nhân sẽ được ném đổi lại bằng một đôi của Nga rách nát. Một bác sỹ bị mất một bảng sao có giá trị của cuốn Faust in trên giấy vỏ củ hành, bởi một tay lính Nga muốn cuốn một điếu makhorka. Chăn mền cũng bị nẫng, đôi khi chỉ vì thỏa mãn cho sự trả thù bởi quân Đức đã cướp quần áo ấm của thường dân Nga.
Lúc những tù binh hốc hác nghiêng ngả đi ra từ hầm hào, tay họ giơ cao để đầu hàng, nhưng mắt láo liêng nhìn quanh tìm một khúc củi làm nạng chống. Nhiều trong số họ bị bỏng tuyết nặng và đi lại khó khăn. Hầu hết mọi người bị sứt móng chân, nếu không phải là mất cả ngón chân. Các sỹ quan Soviet nhận thấy lính Rumani còn ở trong tình trạng tệ hơn quân Đức. Hình như khẩu phần ăn của họ bị cắt sớm hơn nhằm duy trì sức lực cho quân Đức. 
Những người tù giữ mắt nhìn xuống, không dám liếc nhìn lính gác cũng như vòng người dân thường vây quanh, hiện lên từ đồng đổ nát với số lượng đáng ngạc nhiên. Đâu đó, những phát súng lẻ loi phá vỡ sự yên tĩnh của nơi từng là chiến trường. Đâu đó trong các boongke có tiếng kêu nghèn nghẹt. Không ai biết đó là tín hiệu báo cho biết đã kết liễu một người lính còn đang trốn, hay của một người đang tìm cách kháng cự nào đó, hoặc là một thương binh nặng đang nhận được cú coup de grace sau cùng.
Tàn dư bại trận của Tập đoàn quân VI, không vũ khí, không nón trận, đội những chiếc mũ lông tùm hụp hoặc chỉ quấn giẻ quanh đầu để chống lạnh, run lẩy bẩy trong những chiếc áo bành tô mỏng cột chặt bằng dây điện thoại thay cho thắt lưng, bị dồn lại thành từng hàng dài để giải đi. Một nhóm người sống sót thuộc sư đoàn bộ binh 297 bị một sỹ quan Nga đe dọa, anh ta chỉ vào đống đổ nát chung quanh và hét lên với họ: “Rồi Berlin cũng sẽ như thế này đây!”.
Thống chế Paulus, áp giải bởi trung úy Lev Bezyminsky thuộc quân báo Nga, được chở từ sở chỉ huy Tập đoàn quân 64 bởi chính xe của ông đến sở chỉ huy Phương diện quân sông Don nằm bên ngoài Zavarykino, cách Stalingrad chừng 50 dặm. Schmidt và Adam cũng được hộ tống đi sau trên một chiếc xe khác. Họ được chỉ cho thấy nơi ở của họ, một căn nhà izba-năm-bức-tường khác. Một phân đội lính gác thường trực dưới quyền trung úy C.M. Bogomolov đợi họ. Các “tướng Stalingrad” khác cũng được mang đến các izba khác gần kề, ở đó họ được canh phòng bởi một trung đội lính dưới quyền trung úy Spektor.
Bogomolov và quân của anh, hăng hái bởi nhận thức được thời khắc lịch sử, nên tập trung vào công việc của họ với sự đam mê. Vì cao cho nên  Paulus phải cúi đầu thấp mới vào được. Và theo gương của Adam, ông cũng bỏ chiếc nón mềm và thay bằng một chiếc mũ lông ushanka. Ông vẫn còn mặc bộ quân phục cấp đại tướng. Theo sau Paulus là tướng Schmidt và đại tá A dam, người gây ấn tượng với các lính gác bởi “ra lệnh bằng tiếng Nga khá tốt”. Người lính lái xe của Paulus đi sau chót cùng các va li nặng nề. Chiếc xe Mercedes giờ được thông báo là dùng riêng cho tướng W.I. Kazakov, tư lệnh pháo binh Phương diện quân.
Paulus và Schmidt chiếm buồng trong, trong khi Adam và người cận vệ lấy phòng ngoài. Họ ở cùng với hai điệp viên NKVD gửi bởi Beria từ Moscow. Tối muộn, tướng Malinin, tham mưu trưởng phương diện quân và đại tá Yakimovich, một sỹ quan tham mưu cao cấp, đến. Bezyminsky đóng vai trò phiên dịch, thông báo với Paulus và Schmidt rằng nhiệm vụ của họ là phải khám hành lý để tìm những “vật cấm”, bao gồm cả những đồ vật sắt bén bằng kim loại. Schmidt bùng lên. “Một thống chế Đức” ông hét “không thể tự tử bằng một chiếc kéo cắt móng!”. Còn Paulus, thì mệt mỏi, ra hiệu cho ông ta bằng một cái phẩy tay không làm phiền, và đưa ra bộ đồ cạo râu của mình.
Ngay trước lúc nửa đêm, Paulus được bảo là chỉ huy Hồng quân đã đến và đợi để thẩm vấn ông. Trung úy Yevgeny Tarabrin, một sỹ quan NKVD nói được tiếng Đức, được đưa đến để hộ tống ông ta đi khắp mọi nơi, nghe Paulus thì thầm với Schmidt khi ông nọ giúp ông mặc áo bành tô: 
Tôi nên nói gì nhỉ?”
Hãy nhớ anh là một Thống chế quân đội Đức” 
Schmidt nói rít lên. Ngạc nhiên hơn và có ý nghĩa nhất với những đôi tai tình báo Hồng quân, là việc các sỹ quan Nga báo rằng Schmidt đã dùng từ du một thể thức thân mật để nói với vị chỉ huy của mình (Winrich Behr, người hiểu rõ Schmidt, nghĩ rằng việc dùng từ du này với ý tôn trọng không chắc đúng dù anh tin rằng “rõ ràng là tướng Schmidt tạo được một ảnh hưởng mạnh với Paulus”).
Chỉ nửa giờ trước khi cuộc thẩm vấn bắt đầu, đại úy Dyatlenko của NKVD nhận được lệnh đến trình diện ở izba của nguyên soái Voronov, ông ta vừa được thăng chức này. “Này đại úy” Voronov ân cần chào anh “Cậu hẳn còn nhớ cái lúc ông già này không muốn nhận cậu. Ừ, giờ thì ông ý phải tự đến thăm chúng ta. Và cậu sẽ nhận ông ý nhé”. Voronov ngồi vào bàn cùng với đại tướng Rokossosky, tư lệnh phương diện quân, và tướng K.F. Telegin, chính ủy phương diện quân.
Một phóng viên ảnh xuất hiện trong chiếc áo khoát lông thú. Với sự ngạc nhiên của Dyatlenko, ông chào Voronov với vẻ bình thản thân thiết. Thì ra đây nhà làm phim tài liệu nổi tiếng Roman Karmen, ông là bạn bè của Voronov từ thời Nội chiến Tây Ban Nha. Karmen xếp đặt ghế sẽ dùng cho Paulus, nhằm có thể chụp tốt từ cửa phòng ngủ của Voronov. Ông biết kết quả của cú hình sẽ được dùng loan tin với thế giới về chiến thắng vĩ đại của Liên Xô (Bức ảnh của Karmen được chỉnh sửa ở Moscow. Tướng Telegin bị xóa khỏi bản in bởi Stalin cho rằng ông không đủ tầm quan trọng trong khoảng khắc lịch sử như thế (Ngay cả việc Dyatlenko thăng lên thiếu tá cũng được thúc nhanh để phát hành bức ảnh). Kiểu lộn xộn này là một trong những trò hề quái dị trong thời đại Stalin. Khi bức ảnh ra tới mặt trận trên tờ Pravda, thấy mặt mình biến mất, Telegin sợ rằng ai đó đã lên án ông. Tuy nhiên, không có gì xảy ra cả, nên ông ta nghĩ mình an toàn, nhưng rồi đến năm 1948, ông bị bắt đột ngột theo lệnh của Abakumov (trưởng ban SMERSH) mà không có lý do rõ ràng).
Không khí trong căn nhà izba của Voronov căng lên khi vị “khách” của họ đến. Thống chế Paulus, gầy, cao, lom khom trong một nhân dạng xám xịt, từ bộ đồng phục màu “lông chuột” đến gương mặt xanh xám vì thần kinh căng thẳng. Tóc ông ngả sang màu muối tiêu, và ngay cả râu cũng lẫn lộn màu trắng và đen. Chỉ khi Paulus đến gần bàn, thì Voronov mới chỉ chiếc trống và nói: “Mời ngài ngồi”, ông nói bằng tiếng Nga. Dyatlenko đứng nghiêm và dịch lại. Paulus nắm tay chào và ngồi xuống. Khi đó Dyatlenko giới thiệu hai vị tư lệnh phía Sô viết: “Đại diện của Đại bản doanh Bộ tổng tư lệnh tối cao, Nguyên soái pháo binh Voronov! Tư lệnh phương diện quân sông Don, Đại tướng Rokosovsky!” Paulus giật chân và nắm tay chào theo hướng từng người.
Voronov bắt đầu nói, ngừng mỗi khúc để Dyatlenko dịch. “Thưa Đại tướng, giờ đã khá trễ và chắc ngài cũng mệt. Chúng tôi cũng làm việc rất nhiều trong vài ngày qua. Đây là vì chúng ta sẽ thảo luận ngay bây giờ chỉ một vấn đề rất khẩn cấp”.“Tôi xin lỗi” Paulus cắt ngang, làm Dyatlenko chới với: “Nhưng tôi không còn là Đại tướng. Ngày hôm kia, sở chỉ huy của tôi đã nhận được một điện tín báo tin tôi đã được thăng chức Thống chế. Nó cũng được viết trong chứng thư quân nhân của tôi”. Ông sờ vào túi áo ngực của bộ quân phục “Tuy nhiên, trong hoàn cảnh này tôi không thể thay đổi quân phục”.
Voronov và Rokossovsky trao nhau một cái nhìn châm biếm vui vẻ. Tướng Shumilov đã báo về sở chỉ huy Phương diện quân sông Don việc thăng chức trong phút chót của Paulus.“Vậy thì, thưa ngài thống chế!” Voronov quay lại “chúng tôi yêu cầu ngài ký một mệnh lệnh cho phần còn lại của Tập đoàn quân ngài vẫn đang còn kháng cự, bảo họ đầu hàng để tránh thiệt hại nhân mạng vô ích”.
Điều đó không xứng đáng với danh dự một người lính
Paulus bung ra ngay trước khi Dyatlenko kết thúc phần dịch.
Có thể nói cứu mạng những người dưới quyền là hành vi không xứng đáng của một người lính trong khi chính người chỉ huy đầu hàng sao?  Voronov hỏi.
Tôi không đầu hàng. Tôi bị bắt bất ngờ”.
Câu trả lời ngờ nghệch này không tác dụng gì với các sỹ quan Nga, vốn biết rõ tình hình lúc đầu hàng.
Chúng ta đang nói về một hành động nhân đạo” Voronov tiếp tục:
Chúng tôi sẽ chỉ mất thêm một vài ngày hay thậm chí chỉ một vài giờ để tiêu diệt những gì còn lại của các đơn vị dưới quyền ngài vẫn đang chiến đấu. Kháng cự là vô ích. Nó chỉ gây ra cái chết vô nghĩa của hàng ngàn binh sỹ. Nghĩa vụ của ngài ở cương vị tư lệnh Tập đoàn quân là cứu mạng họ, và còn quan trọng hơn bởi ngài đã tự cứu mạng mình bằng cách đầu hàng”.
Paulus, bồn chồn nghịch hộp thuốc là gạt tàn được đặt trên bàn cho ông dùng, né tránh câu trả lời bằng cách gắn vào một thể thức: 
Ngay cả khi tôi ký vào mệnh lệnh, họ cũng sẽ bất tuân. Bởi khi tôi đầu hàng, thì tư lệnh của tôi cũng bị họ tự động bãi bỏ”.
Nhưng vài giờ trước ông còn là tư lệnh của họ”
Từ lúc quân của tôi bị chia làm hai nhóm” Paulus khăng khăng:
Tôi chỉ còn là tư lệnh của túi kia trên lý thuyết. Lệnh được đưa trực tiếp từ đại bản doanh Quốc trưởng và mỗi nhóm được chỉ huy bởi một viên tướng khác nhau”.
Cuộc thảo luận trở nên “xà quần”. Cái tật máy ở mặt khi lo lắng của Paulus trở nên nhiều hơn, cũng như Voronov, vốn biết Stalin đang chờ ở điện Kremlin để nghe kết quả, cũng bắt đầu cho thấy sự căng thẳng. Môi trên của ông giật giật, di chứng của một cú đụng xe ở Belorussia. Paulus, trong chiến thuật ngăn chặn của mình, còn tuyên bố rằng cho dù ông có ký vào giấy đi nữa thì nó cũng có thể bị xem là giả mạo. Voronv trả lời rằng, trong trường hợp đó, một trong những vị tướng dưới quyền của ông ta có thể mang ra làm nhân chứng cho chữ ký, và ông ta có thể được gửi vào túi phía bắc với giấy tờ đảm bảo tính xác thực. Nhưng Paulus, dù lý luận cùn, vẫn trung thành với việc từ chối ký. Sau cùng Voronov cũng phải chấp nhận rằng những nổ lực hơn nữa để thuyết phục ông ta là vô nghĩa.
Tôi phải thông báo với ngài rằng, thưa ngài Thống chế 
Dyatlenko dịch “vì ông từ chối cứu mạng sống cho thuộc hạ, ông sẽ phải chịu trách nhiệm nặng nề trước nhân dân và tương lai nước Đức 
Paulus nhìn vào bức tường, phiền muộn và im lặng. Trong “tư thế đau khổ” này, chỉ có tật máy mặt mới chỉ ra được suy nghĩ của ông.Sau đó Voronov đưa cuộc thẩm vấn trở nên thân thiện bằng cách hỏi Paulus rằng chỗ ở tạm thời có được vừa ý không và rằng ông có cần chế độ ăn đặc biệt nào phù hợp với bệnh tật của mình không. “Việc duy nhất tôi xin ở ngài” Paulus trả lời “là cho tù binh chiến tranh được ăn uống và được chăm sóc y tế”. Voronov giải thích rằng: “điều kiện ở mặt trận sẽ gây khó khăn cho việc tiếp nhận và đối phó với lượng tù binh lớn như vậy”, nhưng rằng họ sẽ làm tất cả những gì có thể. Paulus cảm ơn ông, đứng dậy, nắm tay chào lần nữa.
Hitler nhận được tin lúc ở tại Hang sói, nơi được bảo vệ chặt chẽ sâu trong một khu rừng Đông Phổ, một kiến trúc mà tướng Jodl mô tả là nửa như tu viện, nửa như trại tập trung. Lúc đó, ông ta không đập bàn, mà chỉ im lặng nhìn vào đĩa súp.Tiếng nói cùng cơn giận của ông ta trở lại vào ngày hôm sau.
Thống chế Keitel, tướng Jeschonnek, Jodl và Zeitzler được triệu tập đến dự cuộc họp trưa của Quốc trưởng. “Bọn chúng đã đầu hàng chính thức, vô điều kiện” Hitler nói trong sự giận dữ hoài nghi: “Thay vì tập hợp anh em, thiết lập cứ điểm phòng thủ con nhím, và dành cho nhau phát đạn sau cùng. Như các anh biết rằng một phụ nữ danh giá, sẽ tự khóa mình trong phòng và tự bắn vào đầu ngay khi nghe vài lời bình luận lăng nhục, nên tôi không thể đánh giá cao một người lính lại sợ làm điều đó và thích làm tù binh hơn”.
Tôi cũng chẳng hiểu được
Zeitzler đáp lời, người mà cách thể hiện trong trường hợp này làm mọi người khác ngạc nhiên khi biết ông đảm bảo với Manstein rằng sẽ thuyết phục Quốc trưởng quan tâm đúng đắn đến Tập đoàn quân VI.
Tôi vẫn giữ quan điểm rằng điều này không đúng; có lẽ ông ta bị thương nặng”.
Hitler cứ trở đi trở lại việc Paulus không chịu tự tử mãi.  Rõ ràng, điều này hoàn toàn làm hoen ố câu chuyện hoang đường Stalingrad trong tưởng tượng của ông ta. 
Việc này làm tổn thương tôi ghê gớm bởi chủ nghĩa anh hùng của đại đa số binh sỹ bị vô hiệu bởi một kẻ yếu ớt tầm thường đơn lẻ … Cuộc sống là gì? Là quốc gia. Dù gì thì mỗi cá nhân cũng phải chết … Điều làm tôi đau lòng nhất, về mặt cá nhân, là tôi vẫn phong hắn ta làm thống chế. Tôi muốn cho hắn tâm nguyện sau cùng. Lý ra hắn có thể tự giải phóng mình khỏi mọi phiền não, vào cõi tiếng tăm muôn đời, bất diệt cùng đất nước, nhưng hắn thích đến Moscow hơn.
Ở túi phía bắc, những gì còn lại của sáu sư đoàn dưới quyền tướng Strecker vẫn tiếp tục chống cự. Tại sở chỉ huy quân đoàn XI đặt ở khi xí nghiệp máy kéo Stalingrad, Strecker gửi điện về: “Các đơn vị đang chiến đấu mà không có hỏa lực mạnh yểm trợ và hậu cần. Quân lính gục ngã vì kiệt sức. Những người bị lạnh đến chết cóng vẫn không buông vũ khí. Strecker”.
Thông điệp của ông mạnh mẽ, nhưng lộ rõ việc chống kiểu nói rập khuôn của Nazi. Hitler nhận được điện tín này sau buổi họp với Zeitzler, đã hồi đáp trong buổi chiều muộn “Tôi mong phía bắc Kessel sẽ đứng vững đến cùng”. Để nhấn mạnh tầm nhìn xa, Hitler ra một chỉ thị của Quốc trưởng sau đó một chút: “Quân đoàn lục quân XI phải kháng cự cho đến cùng để trói càng nhiều lực lượng địch càng tốt, tạo điều kiện cho các chiến dịch ở những mặt trận khác”.
Bốn Tập đoàn quân Liên Xô được tái bố trí để nhanh chóng xuyên thủng túi sau cùng. Với sự tập trung của 300 đại bác trên chừng nửa dặm, quận nhà máy bị đập nát ra từng mảnh một lần nữa. Những boongke nào còn lại cũng bị phá hủy trong tầm ngắn, một số bởi đại bác, một số bởi súng phun lửa và đôi khi là xe tăng lái thẳng lên và đưa nòng súng vào lỗ châu mai.Strecker tin rằng, hoàn toàn để giúp Manstein, có lý do về mặt quân sự để tiếp tục chiến đấu, nhưng ông cương quyết từ chối bất kỳ ý tưởng về sự tự sát nào cho mục tiêu tuyên truyền. Trong đầu ông, rõ ràng xác định đúng trách nhiệm của một sỹ quan, như đoạn hội thoại với một quản trị trưởng trung đoàn ngay trước giây phút sau cùng cho thấy:
Khi đến lúc đó” 
Viên quản trị trưởng đoan chắc với ông “chúng tôi sẽ tự sát”
Tự sát?” Strecker la lên.
Vâng, thưa tướng quân! Đại tá của tôi cũng sẽ tự bắn mình. Ông tin là chúng tôi không nên để bị bắt”
Này, để tôi nói với anh vài thứ. Anh sẽ không tự sát, cả đại tá của anh cũng thế. Anh sẽ đi vào tù cũng với quân của anh và sẽ làm mọi thứ có thể để đưa ra gương tốt”
Ý ngài là…” mắt viên sỹ quan trẻ sáng lên “tôi không phải tự sát”.
Strecker dùng gần như cả đêm mồng 1 tháng Hai ở sở chỉ huy trung đoàn của một người bạn cũ, đại tá Julius Muller. Chỉ một ngọn đèn cầy thắp sáng trong góc hầm trong lúc một nhóm nhỏ hiện diện nói với nhau về trận đánh vừa qua, về những người bạn cũ và về về cuộc sống trong tù phía trước. “Không ai phàn nề về những gì trải qua” Strecker ghi nhận “không ai nói với vẻ cay đắng”. Đầu giờ sáng, Strecker đứng dậy “Muller, tớ đi đây” ông nói “Cậu và quân của cậu sẽ ở cùng với Chúa”. Strecker rất đồng tình với miêu tả của Thomas Carlyle về Đức Chúa là “Vị thống chế đúng nghĩa”. Rõ ràng, hình ảnh thiên đường của ông là một nơi có mệnh lệnh quân sự hoàn hảo.“Chúng tôi sẽ hoàn thành nhiệm vụ của mình, thưa tướng quân” Muller trả lời lúc họ siết tay nhau.
Strecker đã từ chối các yêu cầu được đầu hàng từ các sư đoàn trưởng thuộc quyền, nhưng rồi lúc 4h sáng ngày 2 tháng Hai, tướng von Lenski và Lattmann yêu cầu Strecker một lần nữa cho việc đó. Strecker lần nữa, lại từ chối. Lúc đó Lenski bảo rằng một sỹ quan của ông đã điều đình điều kiện với phía Nga. Strecker thấy không có gì để tiếp tục. Ông và Groscurth thảo bức điện cuối cùng: “Quân đoàn Lục quân XI với sáu sư đoàn thuộc quyền đã thực hiện nhiệm vụ cho đến người cuối cùng trong các trận chiến nặng nề. Nước Đức muôn năm!”. 
Bức điện này đã được cụm tập đoàn quân sông Đon nhận. Sau này Strecker khẳng định rằng ông và Groscurth đã cố ý bỏ qua bất kỳ sự tung hô Hitler nào, nhưng phiên bản ghi nhận và gửi về Đông Phổ kết thúc bằng câu “Quốc trưởng muôn năm!”. Mọi người phải hiểu rằng đó là mưu mẹo để bức điện được dễ chấp nhận hơn ở Hang sói.
Khi hai người lính Nga xuất hiện trông khá lưỡng lự ở cửa vào boongke chỉ huy, Groscurth hét to với họ để đem một vị tướng về. Strecker sau này viết rằng phần lớn lính của họ “chỉ vừa đủ chưa chết”.
Các phóng viên ngoại quốc được dạo một vòng quanh quận nhà máy vài ngày sau đó. Thông tín viên Anh quốc, Alexander Werth viết “Địa hình nguyên thủy của vùng đất này thế nào không ai có thể nói. Bạn lượn lên và xuống, rồi lại lên và xuống; đó là những con dốc tự nhiên hay là bề mặt của một tá hố bom chồng lên nhau; không ai biết được. Giao thông hào chạy xuyên qua các phân xưởng của nhà máy, xuyên qua các xí nghiệp; ở đáy chiến hào vẫn còn nằm đó xác quân Đức đông cứng màu xanh, xác quân Nga đông cứng màu xám, những mảnh xác người đông cứng; nón trận bằng thiếc của Đức, của Nga nằm lăn lóc cùng gạch vỡ; những chiếc nón đó nửa vùi trong tuyết. Ở đây có cả dây thép gai, có mìn nửa lộ thiên, khay đạn pháo, nhiều vụn vữa, và mảnh tường, cùng những mớ ngoằng nghèo hỗn độn rầm thiếc han rỉ. Làm thế nào mà người ta có thể sống ở đó, thật khó tưởng tượng”.
Sáng ngày 2 tháng Hai bắt đầu bằng sương mù dày đặc, nhưng sau đó bị ánh mặt trời xua tan và gió làm tung lên những đám bụi tuyết. Lúc tin về đợt đầu hàng cuối cùng lan khắp tập đoàn quân 62, pháo sáng được bắn lên đầy bầu trời trong một cuộc trình diễn ứng tác. Thủy thủ thuộc giang đoàn Volga cùng lính bên bờ trái chạy ù sang trên lớp băng, tay mang theo bánh mì, gà mèn thức ăn cho những thường dân bị khốn trong hầm, trong hố gần 5 tháng qua.
Từng nhóm, từng người đi đến ôm nhau trong niềm vui sướng. Âm thanh dịu bớt đi trong không khí lạnh. Không thiếu bóng người trong cái khung cảnh không màu của đống đổ nát, nơi thành phố tưởng chừng như đã bị bỏ hoang và chết chóc. Kết cục đột ngột, bất ngờ nên những người bảo vệ thấy khó tin nổi rằng trận chiến Stalingrad cuối cùng cũng đã kết thúc. Khi họ nghĩ về điều đó, nhớ về những người ngã xuống, việc họ sống sót làm họ kinh ngạc. Trong từng sư đoàn được gửi qua sông Volga, còn không hơn một vài trăm người sống sót. Tính toàn thể trận chiến Stalingrad, phía Hồng quân có đến 1,1 triệu thương vong, trong đó 485,751 người hi sinh.
Grossman nhìn lại năm tháng qua: “Tôi nhớ về con đường rộng, bẩn thỉu dẫn đến ngôi làng đánh cá bên bờ sông Volga – con đường của vinh quang và cái chết – và những hàng quân im lặng hành quân dọc trên đó trong đám bụi ngột ngạt của tháng Tám, trong đêm trăng tháng 9, trong những cơn mưa sũng nước tháng Mười và tuyết tháng Mười một. Họ hành quân với bước chân nặng nề - pháo thủ chống tăng, xạ thủ đại liên, ngay cả bộ binh – họ hành quân với sự im lặng dữ dội, trang nghiêm. Tiếng động duy nhất từ các hàng quân là tiếng va lanh canh của vũ khí và nhịp bước chân đi".
Chẳng còn mấy đặc điểm nhận biết của thành phố có trước những đợt ném bom của Richthofen vào một trưa tháng 8 ấy. Stalingrad giờ còn nhỏ hơn cả một bộ xương cháy xém, mòn vẹt. Mốc duy nhất còn lại là một đài phun nước với tượng các cô bé, cậu bé đang nhảy quanh. Điều này như là phép mầu đáng ngại sau khi có quá nhiều nghìn trẻ em đã chết trong đám đổ nát chung quanh.

tải về 2.43 Mb.

Chia sẻ với bạn bè của bạn:
1   ...   10   11   12   13   14   15   16   17   18




Cơ sở dữ liệu được bảo vệ bởi bản quyền ©hocday.com 2024
được sử dụng cho việc quản lý

    Quê hương