Chương 2
CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC
ĐỐI VỚI KHU VỰC GIÁO DỤC ĐẠI HỌC CAO ĐẲNG
TƯ THỤC Ở VIỆT NAM
2.1. THỰC TRẠNG KHU VỰC GIÁO DỤC ĐẠI HỌC CAO ĐẲNG TƯ THỤC TẠI VIỆT NAM
2.1.1 Quá trình hình thành và phát triển khu vực giáo dục đại học cao đẳng tư thục
2.1.1.1 Tình hình quản lý và phát triển giáo dục ĐH-CĐ
Sự hình thành nền GDĐH-CĐ Việt Nam được đánh dấu bằng việc nhà nước phong kiến thời Lý lập ra Quốc tử giám vào năm 1076, trường đại học đầu tiên, để đào tạo nhân lực cai trị quốc gia. Tuy nhiên, phải hơn 820 năm sau đó thì GDĐH theo mô hình phương Tây mới được du nhập với sự ra đời Viện Đại học Đông Dương của chính quyền thuộc địa ở Hà Nội năm 1906. Chưa đầy một năm sau ngày tuyên bố độc lập, ngày 10/8/1946 thành lập Bộ Giáo dục, Chính phủ lâm thời nước Việt Nam dân chủ cộng hòa ra sắc lệnh số 146/SL khẳng định ba nguyên tắc của nền giáo dục mới: đại chúng hóa, dân tộc hóa và khoa học hóa. Trong giai đoạn kháng chiến chống Pháp (1945-1954), tại các khu vực giải phóng, Mặt trận Việt Minh cũng tổ chức các trường cao đẳng. Điều này cho thấy GDĐH-CĐ đã sớm được coi trọng.
Trong giai đoạn đất nước bị chia cắt (1954-1974), ở miền Bắc XHCN các trường đại học công được tổ chức và hoạt động theo mô hình của Liên Xô, các trường đều là của nhà nước, gồm 2 loại chính là đại học tổng hợp và các trường đại học chuyên ngành kỹ thuật đơn ngành hoặc tập hợp một số ngành, nhà nước chi phối điều kiện tuyển sinh, kế hoạch học tập, chương trình và phương pháp sư phạm, cũng như việc tổ chức đào tạo và cấp văn bằng và học vị [12, tr.81, 82]. Trong thời kỳ này, hệ thống GDĐH-CĐ phát triển nhanh về số trường, số giảng viên và số sinh viên. Nhà nước quản lý toàn diện các trường theo kế hoạch tập trung. Trong thời gian đầu của giai đoạn này, từ năm 1954 đến 1957, Nhà nước thực hiện việc ổn định và củng cố một bước các trường và hình thành những trường đầu tiên theo mô hình mới. Từ năm 1958 đến 1960, thực hiện chủ trương xây dựng nhà trường đại học XHCN, quan điểm giáo dục XHCN được xác lập và cơ chế chủ quản được hình thành. Sự quản lý GDĐH-CĐ theo kế hoạch tập trung được thể hiện rõ qua việc ngành đại học thực hiện kế hoạch 5 năm lần thứ nhất (1961-1965). Từ tháng 10/1965, Bộ Đại học và Trung học chuyên nghiệp được lập, tách khỏi Bộ Giáo dục, thực hiện chức năng quản lý riêng bậc đại học và trung học chuyên nghiệp theo Nghị định 242/CP ngày 13/02/1966 của Hội đồng Chính phủ [14]. Điều này đã cho thấy sự phát triển của hệ thống GDĐH-CĐ. Vấn đề tự chủ của trường đại học hầu như không được đặt ra trong khi khái niệm “làm chủ tập thể” được nhấn mạnh. Các trường được xem là cơ quan nhà nước thuần túy, cung cấp dịch vụ công cộng và là công cụ thực hiện nhiệm vụ chính trị. Tuyển sinh được thực hiện với kỳ thi quốc gia kể từ năm học 1970-1971 với 3 khối thi thống nhất [06, tr.62]. Chỉ tiêu tuyển sinh từng trường do Nhà nước phân bổ. Nhà nước bao cấp toàn bộ hoạt động của trường đại học. Kinh phí và các loại vật chất khác được phân bổ theo kế hoạch nhà nước. Sinh viên không phải trả học phí và được Nhà nước cấp sinh hoạt phí và chỗ ở miễn phí. Nhà nước phân công công tác cho sinh viên tốt nghiệp với các vị trí lao động thuộc khu vực công được định sẵn. GDĐH-CĐ được xem như phúc lợi xã hội do đó nên trong giai đoạn kinh tế khó khăn nó không được ưu tiên đầu tư [42]. Sự kiểm soát chặt chẽ và quản lý tập trung của Nhà nước đối với GDĐH-CĐ, một mặt, cho thấy sự phù hợp với hoàn cảnh chiến tranh nhưng mặt khác, cho thấy đây là sự lựa chọn phù hợp vì được sự cổ vũ rất lớn từ thành công vang dội của hệ thống đại học Xô Viết lúc bấy giờ, bất chấp việc trường đại học được tự chủ hay không.
Ở miền Nam, chính quyền Sài gòn một mặt, tiếp tục vận hành một số trường đại học theo mô hình của Pháp, mặt khác, thành lập và quản lý các trường công đa ngành, các trường tư và cả trường của các tổ chức tôn giáo, quản lý hoạt động theo mô hình Hoa Kỳ với quyền tự chủ cao. Tuyển sinh có sự kết hợp giữa thi tuyển và ghi danh. Đào tạo thì áp dụng học chế tín chỉ. Đảm bảo chất lượng dựa trên quá trình đào tạo, chủ yếu là ở cấp nhà trường với vai trò các giáo sư được đề cao. Chính quyền phân bổ tài trợ cho các trường công theo chỉ số đầu vào. Các trường phải cạnh tranh trong cung cấp dịch vụ giáo dục. Phong trào đòi tự trị đại học cũng xuất hiện nhưng cũng không được chính quyền chấp nhận mặc dù quyền tự chủ được đề cao.
Từ khi đất nước thống nhất năm 1975 và trong hơn một thập niên sau đó, hệ thống GDĐH-CĐ được thống nhất hóa về cách quản lý điều hành. Các trường trên cả nước được củng cố và phát triển theo mô hình Liên Xô. Các trường tổng hợp được thành lập ở miền Nam, loại hình viện đại học bị xóa bỏ, các trường tư được quốc hữu hóa. Trường đại học được xem như cơ quan hành chính nhà nước, là công cụ thực hiện nhiệm vụ chính trị. Thẩm quyền quản lý trường tập trung vào chính quyền trung ương nhưng phân tán và chia cắt trong chức năng, nhiệm vụ của các Bộ, ngành. Các Bộ, ngành này thực hiện thẩm quyền “kép”, vừa QLNN vừa chủ quản. Việc quản lý các trường dựa trên cơ chế “tập trung, quan liêu và bao cấp” với cơ cấu ra quyết định hướng từ trên xuống. Các trường hầu như không được trao quyền quyết định và chỉ phải chịu trách nhiệm với cơ quan nhà nước.
Bảng 2.1 Số liệu thống kê giáo dục đại học cao đẳng
CAO ĐẲNG
|
2007-2008
|
2008-2009
|
2009-2010
|
2010-2011
|
TRƯỜNG/INSTITUTIONS
|
206
|
223
|
227
|
223
|
Công lập/Public
|
182
|
194
|
197
|
193
|
Ngoài công lập/Non-Public
|
24
|
29
|
30
|
30
|
Sinh viên/Students
|
422,937
|
476,721
|
576,878
|
726,219
|
Nữ/Female
|
214,686
|
244,200
|
305,905
|
386,265
|
Công lập/Public
|
377,531
|
409,884
|
471,113
|
581,829
|
Ngoài công lập/Non-Public
|
45,406
|
66,837
|
105,765
|
144,390
|
Hệ chính quy/Full time training
|
344,914
|
429,544
|
527,533
|
675,724
|
Hệ cử tuyển/Students receiving tied grant
|
1,323
|
662
|
794
|
1,060
|
Vừa làm vừa học/In service training
|
76,700
|
46,515
|
48,551
|
49,435
|
Học sinh tốt nghiệp/Graduated students
|
81,694
|
79,199
|
96,325
|
130,966
|
Giảng viên/Teaching Staff
|
17,903
|
20,183
|
24,597
|
23,622
|
Nữ/Female
|
8,796
|
10,071
|
11,970
|
12,051
|
Công lập/Public
|
16,340
|
17,888
|
20,125
|
19,933
|
Ngoài công lập/Non-Public
|
1,563
|
2,295
|
4,472
|
3,689
|
Phân theo trình độ chuyên môn/
Professional qualification by classifying
|
|
|
|
|
Tiến sĩ/PhD
|
243
|
338
|
656
|
586
|
Thạc sĩ/Master
|
4,854
|
5,785
|
6,859
|
7,509
|
ĐH, CĐ/University & College
|
12,468
|
13,689
|
16,242
|
14,939
|
Trình độ khác/Other degree
|
338
|
371
|
840
|
588
|
ĐẠI HỌC
|
|
|
|
|
TRƯỜNG/INSTITUTIONS
|
140
|
146
|
149
|
163
|
Công lập/Public
|
100
|
101
|
103
|
113
|
Ngoài công lập/Non-Public
|
40
|
45
|
46
|
50
|
Sinh viên/Students
|
1,180,547
|
1,242,778
|
1,358,861
|
1,435,887
|
Nữ/Female
|
571,523
|
602,676
|
659,828
|
693,175
|
Công lập/Public
|
1,037,115
|
1,091,426
|
1,185,253
|
1,246,356
|
Ngoài công lập/Non-Public
|
143,432
|
151,352
|
173,608
|
189,531
|
Hệ chính quy/Full time training
|
688,288
|
773,923
|
862,569
|
970,644
|
Hệ cử tuyển/Students receiving tied grant
|
5,765
|
5,562
|
7,189
|
7,448
|
Vừa làm vừa học/In service training
|
486,494
|
463,293
|
489,103
|
457,795
|
Học sinh tốt nghiệp/Graduated students
|
152,272
|
143,466
|
161,151
|
187,379
|
Giảng viên/Teaching Staff
|
38,217
|
41,007
|
45,961
|
50,951
|
Nữ/Female
|
16,459
|
18,185
|
20,849
|
23,306
|
Công lập/Public
|
34947
|
37,016
|
40,086
|
43,396
|
Ngoài công lập/Non-Public
|
3,270
|
3,991
|
5,875
|
7,555
|
Phân theo trình độ chuyên môn/
Professional qualification by classifying
|
|
|
|
|
Tiến sĩ/PhD
|
5,643
|
5,879
|
6,448
|
7,338
|
Thạc sĩ/Master
|
15,421
|
17,046
|
19,856
|
22,865
|
Chuyên/k I & II/ Professional disciplines
|
314
|
298
|
413
|
434
|
ĐH, CĐ/University & College
|
16,654
|
17,610
|
19,090
|
20,059
|
Trình độ khác/Other degree
|
185
|
174
|
154
|
255
|
Nguồn: Trang Website Bộ Giáo dục và Đào tạo
Hình 2.1 Số lượng sinh viên đại học cao đẳng qua các năm
Sau 25 năm đổi mới kể từ năm 1986, hệ thống GDĐH-CĐ Việt Nam phát triển cả về quy mô và đa dạng về loại hình, hình thức đào tạo, cung cấp nguồn lao động chủ yếu có trình độ cao cho công cuộc CNH, HĐH đất nước. Đến năm học 2010-2011, cả nước có 163 trường đại học, 223 trường cao đẳng, gần 50 ngàn giảng viên và 1,45 triệu sinh viên. So với năm 1987 (63 trường) số trường đại học tăng hơn 2,5 lần. Các trường công giữ vai trò chủ đạo, chiếm 69,32% số trường, 87,92% số sinh viên và 85,17% số giảng viên. Bảng 2.1 cho thấy trong 4 năm (từ năm học 2007-2008 đến 2010-2011) số trường tăng bình quân 10,8%, trong đó ngoài công lập tăng 17,37%; số sinh viên tăng bình quân 3,87%, trong đó ngoài công lập tăng 4,7%; và số giảng viên tăng bình quân 4,92%; Số sinh viên/vạn dân là 168 chưa đạt mục tiêu mong đợi là 200. Với dân số trẻ gần 90 triệu người nhưng GDP/người đạt thấp, chỉ 2.363 đô la Mỹ, tạo sức ép thực sự cho hệ thống GDĐH-CĐ. Nhu cầu và quy mô GDĐH-CĐ tăng nhanh, một mặt, tạo áp lực lớn cho toàn hệ thống, còn mặt khác, nó là sự thách thức đối với QLNN về GDĐH-CĐ theo cơ chế tập trung quan liêu bao cấp.
Từ khi thực hiện đường lối đổi mới vào năm 1986, hệ thống GDĐH-CĐ dần được cấu trúc lại. Để đảm bảo tính thống nhất trong quản lý, năm 1990 Bộ GD&ĐT được thành lập. Từ năm 1993, “sự nghiệp đổi mới mới đi vào cơ cấu tổ chức và nội dung đào tạo và Nhà nước bắt đầu đã có một vài đầu tư điều kiện vật chất khá hơn cho sự đổi mới đó.” [43, tr.25]. Hệ thống giáo dục có sự thay đổi cả theo chiều dọc lẫn chiều ngang, có sự tham gia của các nhà cung cấp ngoài nhà nước cả trong và ngoài nước, có sự bổ sung một số đại học đa lĩnh vực công lập mạnh làm nòng cốt mà các đại học quốc gia, đại học vùng là ví dụ, có sự ra đời của các trường đại học mở, các trường cộng đồng, các trường ngoài công lập v.v... Quản lý nhà nước có sự liên hệ với thị trường. Các trường có thể tìm kiếm các nguồn thu nhập khác ngoài NSNN. Nó cho thấy sự thay đổi trong nhận thức về quản lý giáo dục. Nhà nước chỉ tập trung vào vai trò quản lý vĩ mô, định hướng, theo dõi, giám sát hoạt động của toàn hệ thống trong khi trường đại học được tăng quyền tự chủ để quản lý về chuyên môn, học thuật. So với thời kỳ trước đổi mới, QLNN về GDĐH-CĐ có sự thay đổi đáng kể (xem Bảng 2.2).
Bảng 2.2 Đặc điểm quản lý nhà nước về GDĐH-CĐ trước và sau đổi mới
Các vấn đề chính
|
Thời kỳ trước đổi mới
(từ năm 1986 trở về trước)
|
Thời kỳ từ sau đổi mới (từ sau năm 1986)
|
Mô hình QLNN về GDĐH-CĐ
|
Tập trung hóa cao, dựa trên sự kiểm soát nhà nước
|
Phân cấp, thị trường định hướng XHCN, tăng quyền hạn và trách nhiệm cho các trường
|
Sự điều chỉnh của Nhà nước
|
Mang tính chi tiết và có tính bắt buộc đối với trường đại học, cao đẳng
|
Tạo ra khuôn khổ pháp lý cho sự hành động, chủ động của trường đại học, cao đẳng
|
Lập kế hoạch
|
Mang tính toàn diện, do Nhà nước thực hiện, là công cụ kiểm soát
|
Được chú trọng hơn ở cấp trường, là cơ sở để Nhà nước kiểm soát và giám sát
|
Tự chủ của trường đại học
|
Nhà nước không trao quyền cho trường đại học, cao đẳng
|
Nhà nước tăng cường tự chủ, cho trường đại học, cao đẳng
|
Tự chịu trách nhiệm của trường đại học
|
Chủ yếu là trách nhiệm chính trị, với cấp trên, và mang tính nội bộ
|
Thúc đẩy trách nhiệm giải trình với các bên liên quan
|
Đầu tư và phân bổ nguồn tài trợ
|
Chủ yếu từ NSNN, phân bổ theo đầu vào
|
Từ NSNN và các nguồn khác; phân bổ theo đầu vào, có cạnh tranh ở một số nguồn quỹ công
|
Sự liên hệ với thị trường lao động
|
GDĐH-CĐ là dịch vụ công cộng thuần túy, phục vụ vị trí lao động do Nhà nước định sẵn.
|
GDĐH-CĐ phục vụ nhiều thành phần kinh tế, có sự tương tác và có thể trao đổi
|
Nguồn: Tổng hợp từ kết quả phân tích
Giáo dục đại học cao đẳng Việt nam đã có thay đổi và phát triển, phần nào cho thấy sự đổi mới trong nhận thức về giảm bớt sự kiểm soát chi tiết một cách “thận trọng” của Nhà nước trong quản lý các trường đại học tư thục. Về tổng thể, hầu hết các trường không chịu sự quản lý của Nhà nước theo kiểu bao cấp và kiểm soát chặt chẽ. Do đặc điểm lịch sử, việc quản lý và chịu trách nhiệm của cơ quan nhà nước là rất phân tán, chưa thích ứng kịp với cơ chế thị trường. QLNN còn thiếu sự tham gia của các lượng lực xã hội. Với cơ cấu tổ chức và phân quyền QLNN như hiện nay, nhiều cơ quan nhà nước tham gia quyết định những công việc mà đáng lý ra phải do nhà trường quyết định (xem Bảng 2.3) dẫn đến vấn đề tự chủ, tự chịu trách nhiệm chưa được phát huy đúng mức. Với các trường tư thục Bộ giáo dục và đào tạo có phân quyền mạnh hơn tuy nhiên vẫn còn nhiều bất cập chồng chéo nên chưa pháp huy hết hiệu quả của các trường.
Bảng 2.3 Một số nội dung quản lý của trường ĐH-CĐTT có thẩm quyền quyết định
Công việc
|
Cơ quan có quyền quyết định
|
Trường ĐH-CĐTT
|
Bộ chủ quả/UBND
|
Bộ QLNN về GD&ĐT
|
Định ra sứ mạng, chiến lược phát triển
|
|
|
|
Tuyển sinh
|
|
|
|
Xây dựng chương trình đào tạo
|
|
|
|
Mở ngành đào tạo
|
|
|
|
Cấp văn bằng
|
|
|
|
Phát hành phôi văn bằng
|
|
|
|
Xác định ưu tiên nghiên cứu
|
|
|
|
Quyết định về cơ sở vật chất
|
|
|
|
Tổ chức bộ máy và nhân sự
|
|
|
|
Bổ, miễn và bãi nhiệm hiệu trưởng
|
|
|
|
Định biên chế
|
|
|
|
Cử cán bộ đi công tác nước ngoài
|
|
|
|
Phong chức danh khoa học và sư phạm
|
|
|
|
Trả lương
|
|
|
|
Phân bổ ngân sách bên trong
|
|
|
|
Định mức thu và sử dụng học phí
|
|
|
|
Đầu tư các dự án
|
|
|
|
Đảm bảo chất lượng
|
|
|
|
Trách nhiệm giải trình
|
|
|
|
Bổ, miễn và bãi nhiệm HĐQT
|
|
|
|
Nguồn: Tổng hợp từ quá trình nghiên cứu
Cơ chế thị trường định hướng XHCN cũng ảnh hưởng đến quy mô phát triển trong toàn khu vực GDĐHCĐTT. Các yếu tố và quy luật thị trường sẽ tác động đến quá trình ra quyết định QLNN đối với khu vực này. Việc cho phép các nhà cung cấp ngoài nhà nước tham gia cung cấp dịch vụ GDĐH-CĐ thông qua chính sách xã hội hóa giáo dục hay mở cửa thị trường giáo dục v.v... đã làm giảm tình trạng “độc quyền” của các nhà cung cấp thuộc Nhà nước và tăng quyền lựa chọn cho người dân, nhất là thúc đẩy trách nhiệm của trường đại học. Song song đó, Nhà nước cũng đã đưa nhiều biện pháp nhằm hạn chế những mặt trái của thị trường mà việc quy định “cấm lợi dụng các hoạt động giáo dục vì mục đích vụ lợi.” [40].
Cơ chế thị trường mang đến cho Nhà nước và nhà trường với cả cơ hội và thách thức, không chỉ phải gắn chính sách và hoạt động với nhu cầu mà còn phải ứng phó với biến động của thị trường. Tuy nhiên, Nhà nước còn chưa tạo cơ chế thích ứng gắn kết các trường đại học với nền KTTT định hướng XHCN, cấp bộ còn thiếu sự giám sát quá trình hoạt động của các trường và chưa đưa được những chỉ đạo cơ bản nên có hiện tượng tự phát hoặc “phá rào” dẫn đến một số rối loạn trong chỉ đạo và thực hiện [53, tr.92].
Bảng 2.4 Quản lý nhà nước về giáo dục đại học-cao đẳng tư thục
Mục khảo sát
|
Kiểu trả lời
|
Trung bình (M)
|
Độ lệch chuẩn (S.D.)
|
Tần suất trả lời (F) (%)
|
4
|
3
|
2
|
1
|
1. Sự phối hợp mang tính pháp lý giữa Bộ GD&ĐT và các tổ chức trung gian, Hiệp hội các trường ngoài công lập
|
M
|
3,24
|
0,71
|
37
|
48
|
10
|
2
|
2. Phân cấp chính quyền cấp tỉnh quản lý các trường ĐH-CĐ ngoài công lập
|
Đ
|
1,94
|
0,85
|
3
|
23
|
36
|
35
|
3. Thể chế hóa sự phân cấp và cơ chế phối hợp QLNN với HTĐH-CĐTT
|
M
|
3,32
|
0,70
|
42
|
45
|
7
|
2
|
Ghi chú: Kết quả khảo sát các nhà quản lý giáo dục tại Việt Nam; Kiểu trả lời, M: Mong muốn; Đ: Đồng ý. Tần suất trả lời, 4: Tích cực nhất, 1: Không tích cực nhất
Kết quả khảo sát ý kiến của các nhà quản lý giáo dục, qua Bảng 2-4, Mục 1, với hơn 89% ý kiến (M=3,24) mong muốn, cho thấy sự phối hợp mang tính pháp lý giữa Bộ GD&ĐT và các tổ chức trung gian cũng như Hiệp hội các trường ĐH-CĐ ngoài công lập trong đó có các trường tư thục là yêu cầu khách quan. Nhiều nhà quản lý có tâm lý lo ngại sự giảm sút quyền lực của các nhà quản lý bên ngoài ngành. Thực tế cho thấy các nhà quản lý bên trong nhà trường còn phải đối mặt trực tiếp với nhiều thách thức do cơ chế thị trường tạo ra. Tuy nhiên nhiều nhà quản lý không đồng tình với việc giao toàn bộ việc quản lý các trường ĐH-CĐ ngoài công lập cho UBND các tỉnh, thành phố quản lý toàn bộ, qua khảo sát cho thấy có 73,2% số người được hỏi không đồng ý với ý kiến này.
Nhìn chung, thẩm quyền QLNN đối với khu vực GDĐHCĐTT là cần tạo thuận lợi cho sự can thiệp của Nhà nước vào hoạt động của trường. Nhưng để tăng tính tự chủ, khuyến khích được sự chủ động và sáng tạo của các trường thì nhà nước không nên can thiệp quá sâu vào hoạt động của trường.
2.1.1.2 Hoàn cảnh ra đời của các trường ĐH-CĐ ngoài công lập và tư thục ở Việt Nam
Trong thời kỳ đổi mới, đất nước ta chuyển đổi từ nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung quan liêu bao cấp sang nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần vận hành theo cơ chế thị trường có sự điều tiết của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Về đối ngoại, chúng ta thực hiện chính sách mở cửa, hội nhập và hợp tác với các nước trên thế giới với nguyên tắc bình đẳng, tôn trọng chủ quyền và cùng có lợi về các mặt kinh tế, văn hóa, khoa học, giáo dục. Nhờ đó, đất nước ta thoát khỏi tình trạng khủng hoảng kinh tế - xã hội trong những năm 80 và tạo được tiền đề cần thiết để chuyển sang thời kỳ mới, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
Có thể nói từ năm 1986 đến nay, Đảng và Nhà nước đã có những chủ trương và giải pháp phát triển kinh tế, nhằm nâng cao mức sống của nhân dân, xây dựng đời sống văn hóa - tinh thần lành mạnh, phong phú, phát triển giáo dục, chăm lo sức khỏe, hạn chế các tiêu cực xã hội… Từ công cuộc đổi mới kinh tế - xã hội, cải cách cơ cấu tổ chức, các cơ quan thuộc Chính phủ đã kéo theo sự thay đổi trong quản lý Nhà nước về GD-ĐT. Những sự thay đổi trên tạo điều kiện thuận lợi cho các hoạt động thuộc lĩnh vực này nhưng cũng làm nảy sinh những khó khăn cho việc quản lý hệ thống giáo dục đào tạo một cách nhất quán, và đồng thời cũng làm cho việc quản lý ngành phức tạp hơn.
Bộ trưởng Bộ Nội vụ đã có Quyết định số 36/2004/QĐ-BNV về việc cho phép thành lập hiệp hội các trường đại học cao đẳng ngoài công lập Việt nam. Trong bối cảnh cần có sự tập hợp các trường để trao đổi kinh nghiệm. Có rất nhiều vấn đề cần trao đổi như quyền sở hữu, sử dụng lao động như thế nào, giải quyết vấn đề bảo hiểm ra sao… Từ đó cùng nhau xây dựng mô hình và cơ chế trường ĐH, CĐ ngoài công lập. Thêm nữa nhu cầu hỗ trợ nhau để phát triển như in ấn các giáo trình chung, sử dụng lao động chung…Thông qua hiệp hội các trường có thể liên kết đào tạo và nghiên cứu khoa học.
Sau Nghị quyết TƯ4 (khoá VII) về “tiếp tục đổi mới sự nghiệp giáo dục và đào tạo, thực hiện chủ trương xã hội hoá giáo dục, khuyến khích mở các trường dân lập” Bộ Giáo dục đã xây dựng và ban hành “Quy chế tạm thời đại học dân lập” (Quyết định số 196/TCCB ngày 21/1/1994) quy định những điều khoản cơ bản về thể thức thành lập, quản lý và điều hành ĐHDL nhằm đảm bảo chất luợng đào tạo và tạo điều kiện cho ĐHDL phát triển và sau đó trình Chính phủ cho thành lập các trường ĐHDL theo Nghị định 91/CP ngày 24/11/1994 của chính phủ về “Quy định cơ cấu khung của hệ thống giáo dục quốc dân, hệ thống văn bằng, chứng chỉ về giáo dục và đào tạo của nước Cộng hoà Xã hội Chủ nghĩa Việt nam”
Quyết định số 14/2005/QĐ-TTg ngày 17/01/2005 của Thủ tướng Chính phủ về việc ban hành quy chế tổ chức và hoạt động các trường đại học tư thục mang tính đột phá, đã quy định cụ thể về điều kiện và thủ tục thành lập trường đại học tư thục, làm rõ việc tổ chức và nhân sự, chế độ tài chính và quyền sở hữu tài sản trong việc thành lập các trường đại học tư thục. Kể từ đây các trường đại học cao đẳng tư thục bắt đầu hình thành và phát triển.
2.1.1.3 Quá trình hình thành và phát triển các trường ĐH-CĐ ngoài công lập và tư thục
Quá trình hình thành và phát triển trường đại học, cao đẳng ngoài công lập ở nước ta có thể chia làm 05 giai đoạn:
Chia sẻ với bạn bè của bạn: |