Nghiên cứu sinh nguyễn khánh tưỜNG



tải về 5.13 Mb.
trang16/30
Chuyển đổi dữ liệu13.05.2018
Kích5.13 Mb.
#38255
1   ...   12   13   14   15   16   17   18   19   ...   30

Trong ban hành Quy chế tổ chức và hoạt động của trường đại học tư thục, cần phải trao quyển triệt để cho các trường về sử dụng nguồn lực, đại đa số các nhà quản lý đều nhất trí với 98,9% nhất trí với ý kiến trên (M=3,42), tuy nhiên trong quá trình triển khai các trường đại học cao đẳng tư thục vẫn còn nhiều thụ động về vấn đề này. Mỗi trường đều có công tác quản lý và nhân sự riêng, dựa vào đặc điểm và tính chất của từng trường, tuy nhiên để hướng hoạt động của các trường đi theo đúng quỹ đạo, nhà nước sẽ xây dựng những định chế và quy định bắt buộc các trường đều phải thực hiện, hiện nay cơ chế quản lý các trường này chưa rõ ràng, đặc biệt là các trường tư thục. Nguyên tắc tự trị quản lý giáo dục đại học trong cơ chế thị trường tất yếu nảy sinh nguyên tắc tự do cạnh tranh. Ưu điểm của nó là tạo ra một nền giáo dục bậc cao đại chúng gắn bó chặt chẽ và bền vững với cộng đồng địa phương, có quan hệ mật thiết với nền kinh tế, bám sát nhu cầu của thị trường lao động. Nguyên tắc cạnh tranh giáo dục cũng buộc các trường ĐH-CĐ phải không ngừng đầu tư hiện đại hóa cơ sở vật chất, thu hút và khuyến khích những giảng viên giỏi làm việc cho trường, không ngừng nâng cao chất lượng đào tạo.Về tổ chức và nhân sự: Trong nhiều năm qua vấn đề quan hệ nội bộ của một số trường hợp có nhiều bất cập. Hội đồng quản trị của một số trường mất đoàn kết nghiêm trọng, đặc biệt là mâu thuẫn giữa Hội đồng quản trị và Hiệu trưởng, làm ảnh hưởng đến sự phát triển của các trường. Về cơ cấu tổ chức bộ máy cũng còn chưa thống nhất theo quy định, có trường bổ nhiệm 11 phó hiệu trưởng, nhưng có trường trong suốt 10 năm hoạt động không có phó hiệu trưởng, do không thống nhất trong phương pháp quản lý, nội bộ mất đoàn kết của một số trường đã làm ảnh hưởng không nhỏ đến vai trò và uy tín trong xã hội. Nguyên nhân của những yếu kém là một số trường chưa có kế hoạch tổng thể trong việc phát triển trường, đặc biệt là xây dựng cơ sở vật chất và đào tạo đội ngũ giảng viên cơ hữu. Một số trường để động lực kinh tế chi phối các mặt hoạt động, các điều kiện đảm bảo chất lượng đã không đáp ứng được với tăng quy mô đào tạo. Phần lớn các trường chưa có quy chế chi tiêu nội bộ, vấn đề sở hữu tài sản trong các trường ngoài công lập cho đến nay vẫn chưa có các quy định cụ thể, gây nhiều trở ngại trong quản lý. Nhiều văn bản pháp quy đã lạc hậu, không phù hợp với thực tiễn nhưng chưa được điều chỉnh kịp thời, gây lúng túng khi xử lý. Các cơ quan quản lý nhà nước có liên quan chưa thực sự quan tâm đến sự phát triển của các trường ĐH, CĐ ngoài công lập nên chưa biến các chủ trương thành các chính sách cụ thể, định hướng cho sự phát triển chung của các trường.



2.2.2.3 Thực trạng công tác quản lý chất lượng đào tạo

Quy định mục tiêu chất lượng đào tạo hiện nay đối với các trường đại học cao đẳng tư thục đều phải tự xây dựng, các trường đều phải tự đánh giá sau đó gửi cho Bộ GD&ĐT, tuy nhiên tỷ lệ các tự đánh giá kiểm định chất lượng vẫn chưa nhiều, đặc biệt tại các trường tư thục, chỉ có một vài trường là thực hiện nghiêm túc. Cục khảo thí và kiểm định chất lượng đã triển khai nhưng việc kiểm định và đánh giá chất lượng của các trường đại học cao đẳng vẫn đang gặp rất nhiều khó khăn.

 Chất lượng giáo dục là vấn đề vừa mang tính ổn định vừa mang tính động. Vậy nên để đánh giá, kiểm định, cần phải đòi hỏi có bộ tiêu chuẩn và mục tiêu giáo dục hội tụ hai đặc tính trên một cách tương ứng. Thế nhưng, hiện tại Cục khảo thí và kiểm định chất lượng giáo dục dường như vẫn chưa xác định nội dung nào mang tính ổn định, nội dung nào mang tính đặc thù của từng lĩnh vực và nội dung nào mang tính động cần phải thay đổi khi tình hình thay đổi. Chính vì thế đã nảy sinh vấn đề các trường khác nhau rất xa về số liệu trong tiêu chuẩn đánh giá nhưng cuối cùng lại có kết luận mức độ chất lượng giống nhau.

Cho dù công tác tự đánh giá của các trường đại học, cao đẳng đã được trú trọng hơn trong thời gian qua, nhưng công tác KĐCLGD chưa trở thành nhu cầu thực sự, chưa có ý nghĩa sống còn đối với nhà trường. Có nhiều nguyên nhân dẫn đến thực trạng trên, trở ngại đầu tiên đó là nhận thức của chính đội ngũ cán bộ, giảng viên trong các trường đại học, cao đẳng và sau đó là cả xã hội. Tuy rằng trong một bộ phận giảng viên cũng đã có những chuyển biến, nhưng một số người vẫn chưa thấy được vai trò của KĐCLGD đối với việc nâng cao chất lượng GDĐH-CĐ. Và chính điều này đã dẫn đến việc triển khai KĐCLGD ở một số trường còn mang tính hình thức, nên chất lượng của các báo cáo tự đánh giá chưa cao. Thêm nữa vai trò của các trung tâm, phòng hoặc tổ đảm bảo chất lượng còn mờ nhạt, công tác cải tiến chất lượng còn hạn chế, công tác bồi dưỡng chuyên môn, nghiệp vụ hàng năm cho cán bộ, giảng viên chưa được chú trọng. Tính đến tháng 11/2013 mới có 17 trường đại học và 05 trường cao đẳng dân lập, tư thục nộp báo cáo tự đánh giá cho Cục khảo thí và kiểm định chất lượng giáo dục. Bộ GD&ĐT đã có quy định về việc xây dựng các đơn vị chuyên trách làm công tác đảm bảo chất lượng, nhưng việc này cũng đang bị xem nhẹ. Thực tế cho thấy, đến nay vẫn còn nhiều trường chưa có trung tâm, phòng, tổ hoặc bộ phận chuyên trách làm công việc này. Còn với các đơn vị đã được thành lập lại chưa có quy định thống nhất về tên gọi, chức năng và nhiệm vụ nên triển khai chưa đồng bộ và kém hiệu quả. Đội ngũ cán bộ làm công tác KĐCLGD vừa thiếu và vừa yếu, hầu hết đều mới và chưa được đào tạo về chuyên môn, nghiệp vụ.

Về kinh phí cho công tác đảm bảo và kiểm định chất lượng giáo dục cũng chưa đáp ứng yêu cầu. Phần lớn các trường đại học, cao đẳng chưa chú trọng dành kinh phí cho hoạt động này. Một số ít trường đã chủ động dành kinh phí, nhưng còn rất hạn chế. Khách quan bởi sự thiếu quan tâm của các nhà trường nhưng chủ quan cũng do hiện nay Bộ GD&ĐT vẫn chưa có văn bản nào hướng dẫn về mức chi cho hoạt động này.

Từ năm 2002 đến 2008 chỉ có 20 trường được đánh giá ngoài, đến năm 2012 số trường được kiểm định, đánh giá ngoài vẫn tăng không đáng kể. Nhất là đối với hệ thống các trường tư thục thì hầu như chưa được đề cập. Nguyên nhân thứ nhất, là do việc kiểm định không mang tính bắt buộc và kết quả kiểm định chưa được kết nối với bất kỳ một trách nhiệm hay lợi ích cụ thể nào nên chưa tạo áp lực tự chịu trách nhiệm thực sự; thứ hai, là do thiếu hệ thống cơ sở dữ liệu kiểm định. Tuy nhiên, điều gây tranh cãi không phải ở số trường được kiểm định mà là việc chậm công bố kết quả kiểm định (kiểm định được tiến hành từ năm 2004 nhưng đến tháng 11/2009 vẫn chưa công bố kết quả). Thực tế này cho thấy sự cam kết và quyết tâm thực sự còn hạn chế. Một bất cập khác là công tác kiểm định chất lượng là chưa có sự tham gia và công khai. Điều này làm tính trách nhiệm chưa được kiểm chứng đúng mức, mang tính nội bộ hơn là xã hội. Kết quả khảo sát các nhà quản lý giáo dục qua Bảng 2.17, Mục 1 với 96% ý kiến (M=3,39) và Mục 2 với 91% ý kiến (M=3,32) mong muốn cho thấy kết quả kiểm định chất lượng chương trình cũng như công khai và kết nối kết quả kiểm định là hướng đi đúng và cần tiếp tục được quan tâm để đáp ứng đòi hỏi từ thực tế.



Bảng 2.17 Đảm bảo chất lượng giáo dục đại học cao đẳng

Mục khảo sát

Kiểu trả lời

Trung bình (M)

Độ lệch chuẩn (S.D.)

Tần suất trả lời (F) (%)

4

3

2

1

1. Kiểm định chất lượng cả chương trình đào tạo và trường ĐH-CĐ

M

3,39

0,59

44

52

3

1

2. Công khai kết quả kiểm định chất lượng và xếp hạng các trường đại học gắn kết quả kiểm định với tài trợ công

M

3,32

0,63

41

50

9

0

Hiện nay vấn đề kiểm định chất lượng vẫn chưa làm rõ chất lượng giáo dục đại học có bao trùm cả nội dung và hiệu quả của nền giáo dục hay chưa. Công việc này là cần thiết vì hiện tại quan niệm về chất lượng giáo dục của chúng ta cũng đồng thời là quan điểm về mục tiêu giáo dục, là nội hàm về những kiến thức, năng lực, phẩm chất mà một nền giáo dục nói chung, hay một cấp học, một bậc học cụ thể phải cung cấp, bồi dưỡng cho người học. Đánh giá chất lượng của một nền giáo dục là đánh giá xem nền giáo dục đó thực hiện đến đâu mục tiêu giáo dục của nó. Trong khi đó, nói đến hiệu quả của một nền giáo dục là nói đến tác dụng của nền giáo dục đó tới xã hội, tới đất nước mà nền giáo dục đó phục vụ. Hiệu quả của giáo dục phụ thuộc vào chất lượng giáo dục. Thế nhưng, việc đánh giá, kiểm định chất lượng giáo dục đại học hiện nay của chúng ta vẫn chưa quan tâm đúng đắn đến mối quan hệ này, nói cách khác là thiếu sự xác định ngay từ đầu khi xây dựng các mục tiêu giáo dục. Vậy nên, kết quả của những đợt kiểm định chất lượng giáo dục đại học cho đến nay vẫn chưa tạo nên sự thay đổi nào mang tính đột phá, nhất là ở khâu đối chiếu, so sánh, rút ra kết luận và có sự điều chỉnh sau kiểm định, nhằm đảm bảo một chương trình đào tạo, hay một trường, khoa nào đó đã đạt hay vượt những chuẩn mực nhất định về chất lượng, từ đó hỗ trợ trường liên tục cải tiến chất lượng. Và như thế, công tác kiểm định chất lượng giáo dục đại học của chúng ta mới đạt đến việc đánh giá sản phẩm của chất lượng giáo dục đại học tạo ra đã đảm bảo được về khối lượng kiến thức, năng lực, phẩm chất mà mục tiêu giáo dục đặt ra, nhưng chưa kết luận được sản phẩm đó đã thực sự đáp ứng nhu cầu của xã hội hay chưa, và giá trị gia tăng của sản phẩm đó đối với xã hội đã được khai thác hợp lý hay chưa.

Những khó khăn, bất cập trên cho thấy công tác KĐCLGD - một yếu tố quan trọng trong lộ trình nâng cao chất lượng GDĐH-CĐ còn cần phải có nhiều nỗ lực lớn hơn nữa từ chính các nhà trường và các cấp quản lý.



2.2.2.4 Thực trạng về quản lý công tác tuyển sinh

Công tác tuyển sinh được đánh dấu bằng sự phân cấp việc ra đề thi, tổ chức kỳ thi tại trường, chấm thi, xét tuyển và triệu tập thí sinh trúng tuyển. Luật Giáo dục 2005 cũng đã trao quyền tự chủ tổ chức tuyển sinh cho trường đại học. Nhưng trên thực tế, quy chế tuyển sinh do Bộ GD&ĐT ban hành lại quy định trách nhiệm do Bộ quán xuyến hầu như toàn bộ công tác tuyển sinh thông qua phương án được gọi là “ba chung”. Mặc dù được kỳ vọng là để đảm bảo mặt bằng trình độ tuyển, hạn chế sự thiếu trách nhiệm của trường đại học và giảm bớt chi phí xã hội, nhưng lại vô hiệu hóa quyền tự chủ tuyển sinh của các trường, các trường chỉ thực hiện các nội dung mang tính sự vụ. Các trường gần như khó có thể tuyển được các sinh viên phù hợp với yêu cầu và điều kiện đào tạo cụ thể của trường mình. Sự tự chủ tuyển sinh chưa thực hiện được trên thực tế và kỳ thi tuyển sinh còn nặng nề, tốn kém. Mặt khác do đa phần các trường ĐH-CĐTT không tổ chức thi mà chủ yếu xét tuyển nên việc tuyển sinh gặp rất nhiều khó khăn. Nhiều trường tư thục tuyển sinh không đủ chỉ tiêu, thậm chí có trường chỉ tuyển được vài chục sinh viên.

Kết quả khảo sát các nhà quản lý giáo dục Việt Nam qua Bảng 2.17, Mục 1 thì đa phần các nhà quản lý rất muốn nhà nước trao quyền tự chủ để các trường ĐH-CĐTT thực hiện các hoạt động trong đó có tuyển sinh một cách chủ động và có trách nhiệm, không phải xin ý kiến của cơ quan cấp trên về một số vấn đề theo quy định với 88 ý kiến đồng ý và rất đồng ý chiếm tỷ lệ 92,6%. Mục 2, cho thấy 87% ý kiến (M=3,38) muốn được tự chủ học thuật, cụ thể là tuyển sinh, chương trình và cấp bằng. Tuy nhiên, vẫn còn 4% ý kiến không muốn và 10% ý kiến muốn một phần. Điều này có thể được lý giải là vì việc trao quyền cho các trường có thể thu hẹp quyền của các nhà và cấp quản lý khác.

Bảng 2.18 Khảo sát công tác tuyển sinh ĐH-CĐ



Mục khảo sát

Kiểu trả lời

Trung bình (M)

Độ lệch chuẩn (S.D.)

Tần suất trả lời (F) (%)

4

3

2

1

1. Tự chủ, là trường ĐH-CĐTT thực hiện công việc một các có trách nhiệm mà không phải xin phép cơ quan cấp trên

Đ

3,28

0,59

34

54

7

0

2. Trao quyền triệt để cho trường đại học về tuyển sinh, chương trình và cấp bằng

M

3,38

0,76

48

39

4

4

Do công tác tuyển sinh đang ngày càng cạnh tranh quyết liệt, điều này tăng thêm cơ hội học tập cho thí sinh. Tuy nhiên, vấn đề đặt ra đằng sau những ưu đãi này là bài toán về chất lượng giáo dục đại học vẫn chưa được ngành giáo dục quan tâm. Bắt đầu từ kỳ tuyển sinh năm 2012, Bộ tạo quyền chủ động cho các trường nhiều hơn, cụ thể vẫn có điểm sàn với khẳng định nói trên, quy định về điểm sàn, vốn được các trường ngoài công lập cho là trở ngại lớn trong tuyển sinh của họ, sẽ được giữ nguyên. Tuy vậy, với tốc độ phát triển hiện nay của hệ thống giáo dục ĐH-CĐ, "ba chung" đang khiến các trường mất tính tự chủ. Hiệp hội đưa ra ý kiến thay "ba chung" (chung đề, chung đợt thi, chung kết quả xét tuyển) bằng "hai chung" (chung đề, chung đợt thi) ngay trong kỳ tuyển sinh năm 2012, rồi tiến tới bỏ hẳn vào những năm sau. Nhìn lại thực trạng tuyển sinh, ở nhiều trường có nhiều ngành học, thậm chí là những ngành xã hội đang rất cần nhưng vẫn phải ngừng đào tạo do không tuyển được thí sinh, điều này thể hiện sự bất cập trong việc chọn ngành nghề của học sinh bởi các em thường chọn thi vào những ngành nghề dễ tìm được việc làm, như kinh tế, quản lý, ngân hàng, tài chính. Sắp tới, Bộ cần nghiên cứu cơ chế, chính sách để thu hút học sinh vào học những ngành học mà xã hội có nhu cầu.

Tình trạng hiện nay là thứ nhất, vẫn tái diễn tình trạng luyện thi tràn lan. Thứ hai, công tác tổ chức kỳ thi chưa nghiêm túc, công bằng. Thứ ba, chưa có cơ chế để nhà trường, xã hội, cơ quan chức năng có thể kiểm tra, giám sát. Hiện tại chưa có đề án đổi mới tuyển sinh nào được các trường trình lên Bộ để phê duyệt, song sự chủ động trong tuyển sinh cũng sẽ là một trong những quyền của đơn vị được giao thí điểm để tăng tự chủ. Trong Luật Giáo dục ĐH cũng nhấn mạnh đến quyền này, theo đó, các cơ sở giáo dục tự chủ, tự quyết và tự chịu trách nhiệm xác định chỉ tiêu tuyển sinh, công bố công khai chỉ tiêu đồng thời với các điều kiện bảo đảm chất lượng giáo dục. Từ những phân tích trên cho thấy công tác tuyển sinh hiện nay đang có nhiều bất cập chưa theo kịp được những quốc gia trong khu vực nhằm cải thiện một bước trong quá trình hội nhập.

2.2.2.5 Thực trạng quản lý về chương trình đào tạo

Chương trình đào tạo là một tập hợp của các hoạt động gắn kết với nhau nhằm đạt đến mục tiêu giáo dục của nhà trường. Tất cả yếu tố đầu vào dùng để hỗ trợ việc thực hiện Chương trình đào tạo và những kết quả đầu ra của quá trình thực hiện bao gồm tài năng được phát triển, kiến thức kỹ năng đạt được và năng lực tư duy được cải thiện.

Mặt tích cực trong quản lý mục tiêu và chương trình khung là có thể giúp đào tạo con người đáp ứng yêu cầu KT-XH và cả về chính trị, tạo thuận tiện trong quản lý và xây dựng chương trình, quản lý chất lượng và mặt bằng trình độ hay là tạo thuận lợi cho các trường mới trong việc xây dựng chương trình v.v... Nhưng nó cũng bộc lộ không ít khiếm khuyết trên thực tế, hạn chế sự sáng tạo của các trường trong xây dựng mục tiêu đào tạo cụ thể cũng như không bảo đảm được sự chủ động cập nhật chương trình. Thực trạng hiện nay là việc quy định khối lượng kiến thức bắt buộc cao làm giảm tính linh hoạt và chủ động của các trường; việc đề xuất ngành đào tạo quá hẹp, chưa phù hợp xu hướng phân loại chung, làm hạn chế sự chủ động của các trường trong phát triển chương trình chuyên sâu [25]. Đáng chú ý là việc xây dựng chương trình khung làm tăng chi phí xã hội trong khi “vòng đời” và sự tương xứng của nó chưa được xác định. Báo cáo của Vụ Kế hoạch-Tài chính (Bộ GD&ĐT) tại Hội nghị kế hoạch và ngân sách tháng 01/2007 cho thấy chi phí xây dựng 204 chương trình khung giai đoạn 2001-2007 lên tới 23,65 tỷ đồng. Mặt khác, cho dù một chương trình đạo tạo đã được xây dựng theo khung thì nó vẫn phải chịu sự kiểm soát một lần nữa của Bộ GD&ĐT trước khi ban hành.

Từ năm 2006, Chính phủ cho phép một số trường đại học triển khai thí điểm chương trình tiên tiến. Các trường được chủ động tìm kiếm đối tác phối hợp xây dựng và tổ chức chương trình đào tạo. Trong năm học 2008-2009, có 17 trường thực hiện 23 chương trình tiên tiến [25, tr.138-140]. Đây được xem như phương thức bảo đảm tự chủ chương trình tích cực, thúc đẩy sự hội nhập GDĐH-CĐ.

Trong quy định mục tiêu chung và chương trình khung chưa đảm bảo được tính hệ thống của chương trình và trình độ đào tạo. Khả năng chuyển đổi, công nhận tương đương chương trình còn hạn chế. Tức là khả năng chỉ dẫn hệ thống còn thấp.

Trong quản lý danh mục ngành đào tạo, để tăng tính chủ động cho các trường theo hướng chung là đào tạo theo diện rộng và đáp ứng sự thay đổi nhanh của xã hội, Bộ GD&ĐT phân cấp cho các trường tổ chức đào tạo theo chuyên ngành khi nắm bắt được nhu cầu xã hội. Bộ chỉ quản lý nhóm ngành, ngành đào tạo.

2.2.2.6 Thực trạng quản lý về hoạt động tài chính

Các trường đại học công lập áp dụng chế độ kế toán đối với đơn vị sự nghiệp có thu, các trường đại học ngoài công lập áp dụng chế độ kế toán đối với doanh nghiệp vừa và nhỏ. Thực trạng hiện nay hoạt động tài chính của các trường ĐH-CĐTT nhiều khi vượt quá tầm liểm soát của các cơ quan quản lý. Nhà nưc ch đu ngân sách hot đng cho c trường công lp. Trường đi hc cao đẳng tư thục hoạt động theo nguyên tắc tự trang trải các khoản chi phí, không đưc nhn kinh p t ngân sách nhà nưc. Các trường tư thục có tính tự chủ cao trong lĩnh vực hoạt động tài chính, tự chịu trách nhiệm trong hoạt động của mình. Tính tự chủ thể hiện từ nguồn thu, quản lý chi và các khoản phân phối chênh lệch thu chi trong hoạt động. Sự khác biệt cơ bản giữa các trường đại học cao đẳng công lập và tư thục là các trường tư hầu như không được hỗ trợ kinh phí từ ngân sách nhà nước nên còn nhiều hạn chế trong đầu tư cơ sở vật chất để nâng cao chất lượng đào tạo.



Chính sách đầu tư cho GDĐH-CĐ mang tính cam kết dài hạn được quy định cụ thể trong Luật Giáo dục: “NSNN phải giữ vai trò chủ yếu trong tổng nguồn lực đầu tư cho giáo dục” là tiền đề quan trọng giúp trường đại học công thực hiện tự chủ tài chính, ít nhiều, giúp các trường duy trì và từng bước tăng cường năng lực tự chủ. Nhà nước đã dành khoản ngân sách lớn và có tăng hàng năm để chi cho giáo dục trong khi đó chi của NSNN cho khu vực GDĐHCĐTT hầu như không đáng kể dẫn đến các trường tư thục phải tự trang trải kinh phí hoạt động thông qua các nguồn thu của trường. Số liệu thống kê qua Bảng 2.19 phản ánh năm 2008 là 81.419 tỷ đồng, chiếm 5,6% GDP và 85,5% trong tổng chi xã hội; tỷ trọng chi trong GDP tăng từ 4,9% năm 2004 lên 5,6% năm 2008. Đây được xem là sự bảo đảm tự chủ tài chính gián tiếp tích cực của Nhà nước. Tuy nhiên, xét về cơ cấu thu nhập, có thể thấy rằng các trường công phụ thuộc nhiều vào nguồn tài trợ công, còn năng lực tự chủ tài chính của nó thì rất hạn chế. Thống kê của Dự án GDĐH (2007) ở năm học 2005-2006 cho thấy 55,53% thu nhập của các trường công là do NSNN cấp, 36,64% là từ học phí, trong khi các khoản tự thu khác chiếm chưa tới 8% trong cơ cấu thu nhập [52].

Bảng 2.19 Chi ngân sách nhà nước cho GD&ĐT và giáo dục đại học

Nội dung

Năm

2004

2005

2006

2007

2008

Tổng chi NSNN cho GD&ĐT (tỷ đồng)

34872

42943

54798

69802

81419

Tỷ lệ so với GDP (%)

4.9

5.1

5.6

5.5

5.6

Tỷ lệ so với tổng chi XH cho GD&ĐT (%)

82.0

81.5

85.2

87.6

85.5

Tỷ trọng trong tổng chi NSNN (%)

-

17.9

18.4

19

20

Chi thường xuyên trong tổng chi (tỷ đồng)

28712

35369

44359

54713

62010

Chi đầu tư trong tổng chi (tỷ đồng)

6160

7226

10000

14584

18844

Chi nghiên cứu trong tổng chi (tỷ đồng)




348706

439932

505150

565000

Chi riêng Cao đẳng, Đại học (tỷ đồng)

3294

-

4881

- 

8752

Nguồn: Tổng hợp từ số liệu thống kê của Bộ GD&ĐT

Với quan điểm xem đầu tư cho giáo dục là đầu tư phát triển, Nhà nước chưa tập trung xây dựng cơ sở hạ tầng cho GDĐH-CĐ, ví dụ như phòng thí nghiệm trọng điểm hay ký túc xá cho sinh viên; ban hành chính sách ưu đãi về đất đai để khuyến khích việc xây dựng các trường đại học, ra các chính sách ưu đãi, hỗ trợ và khuyến khích sự tham gia của các nhà đầu tư vào hoạt động cung cấp dịch vụ GDĐH-CĐ. Tuy nhiên, việc tiếp cận hỗ trợ và ưu đãi thì không dễ dàng trên thực tế, các thủ tục hành chính được xem là rào cản lớn nhất.

Nhà nước còn thực hiện chính sách tài trợ phân biệt, không có hỗ trợ cho các trường ngoài công lập. Các trường này hầu như đứng ngoài chính sách đầu tư công mặc dù mọi người dân đều đóng thuế. Sự hỗ trợ nhà nước dành cho các trường công lập được thực hiện thông qua chi thường xuyên, chi đầu tư và chi nghiên cứu khoa học. Do vậy các trường tư thục, dân lập trong GDĐH-CĐ bắt đầu hoạt động trong một tình thế có bất lợi. Sự yếu thế trên “thị trường” của các trường tư thục, dân lập so với các trường công, Quản lý nhà nước về vấn đề này vẫn còn nhiều lỏng lẻo, môi trường chính trị, kinh tế xã hội chưa thuận lợi.

Xác lập và bảo vệ quyền sở hữu. Đây là một điểm yếu nhất trong các văn bản hiện tại, không xác định được quyền sở hữu của các chủ đầu tư. Có xác lập được quyền được hưởng các thành quả lao động do việc hoạt động trong lĩnh vực GDĐH-CĐ tư thục, quyền được hưởng trực tiếp hoa lợi do việc đầu tư vào GD-ĐT thì mới thúc đẩy việc đầu tư vào xây dựng trường sở và trang thiết bị cho đào tạo. Nhà nước phải quy định rõ các trường tư thục có bị quốc hữu hóa không? Việc xác lập và bảo vệ quyền sở hữu cho dù được thể hiện ở các văn bản pháp lý khác nhưng cũng cần khẳng định lại trong văn bản pháp lý về trường dân lập và tư thục.

Sự khác biệt cơ bản giữa tư thục với trường công lập là nguồn đầu tư xây dựng và kinh phí hoạt động. Ở đây xuất hiện một nguồn vốn là vốn góp cổ phần của các chủ đầu tư đối với đại học tư thục hoặc vốn đầu tư ban đầu của những người tổ chức lớp đối với lớp dạy nghề tư nhân, nguồn kinh phí hoạt động chủ yếu là học phí. Vốn hỗ trợ của NSNN có ghi trong văn bản pháp quy nhưng cần cụ thể trong trường hợp nào được hỗ trợ để các trường còn phấn đấu. Để khuyến khích các trường nâng cao chất lượng đào tạo thì học phí các trường tư thục vừa phài đảm bảo trang trải được các khoản chi phí, nhưng đồng thời người học có thể chấp nhận được.



      1. Cơ chế chính sách đối với khu vực giáo dục đại học cao đẳng tư thục tại Việt Nam

Chính sách GĐĐH-CĐViệt Nam bắt nguồn t các quyết định trước đây ca Chính ph theo mô hình GĐĐH-CĐ ca Liên Xô các nước Đông Âu. Trong hơn 20 năm đổi mới, đến nay đã có nhiều văn bn quy định chính sách phát triển GĐĐH-CĐ như: Luật Giáo dục, Luật giáo dục ĐH, Quyết định phê duyệt Quy hoch mng lưới các trưng đại học, cao đng giai đon 2010-2020; Ngh quyết số 14 ca chính ph vđi mi bn và toàn diện GĐĐH Vit Nam giai đon 2010-2020 nhưng nội dung ca các văn bn này còn nhiềư vấn đề chưa cụ thể, chưa da trên những bằng chng nghiên cu t thc tế sdng lao động.

2.2.3.1 Cơ cấu trình độ và quy mô sinh viên

Về cu trình đ, nhà nước đã mở rộng quá nhanh quy mô đào tạo đại học dẫn đến s mất cân đi v phát triển quy mô gia đào tạo đại học với các trình đ đào tạo khác (trung cp chuyên nghiệp, dạy nghề). Trong ni dung đào tạo đại học cũng có nh trng mất cân đối gia đào tạo đại học và đào tạo cao đng. (năm 2008 số sinh viên đại học tuyển mi cao hơn sinh viên cao đng tuyển mi khong 20,8%. T trọng so sánh quy mô đào tạo đại học/cao đng/trung cp chuyên nghip/trung cấp ngh 1/0,4/0,9/3,8 năm 2007[5]. Trong hệ thống các trường tư thục, tình trạng mất cân đối còn nghiêm trọng hơn, hiện nay hầu như không có các trường trung cấp và dạy nghề tư thục có học sinh ở bậc học này chủ yếu được học trong các trường ĐH-CĐTT.

Số trưng và t lệ sinh viên các trưng đại học cao đng ngoài công lập vn còn thp. Năm 2008, cơ cấu sinh viên học tp trong các trưng đại học cao đng ngoài ng lp ch chiếm n 11% trong tng quy mô sinh viên, mặc dù trong 8 năm, số lưng trưng đại học và cao đng ngoài ng lp đã tăng gần 3 lần. Cho đến thời điểm 2011 tỷ lệ số sinh viên các trường ĐH-CĐ ngoài công lập chì chiếm 15,5% qua đó cho thấy chỉ tiêu phấn đấu đến năm 2020 có tỷ lệ 40% số sinh viên các trường ngoài công lập là khó thực hiện được.

Bảng 2.20 T lệ sinh viên trưng ng lp trưng ngoài công lập




2001

2005

2008

2011

1. Tng số trưng ĐH, (trưng)

223

286

369

386

Trong đó: Số trưng ngoài ng lp

23

34

64

87

2. Tổng số sinh viên ĐH-

918.228

1.319.754

1.623.479

2.162.106

3. Số sinh viên ĐH-NCL

14.801

24.821

188.838

333.921

Trong đó: Tỷ lệ Sinh viên ĐH-NCL (%)

10,4

11,6

11,7

15,5

Nguồn: Vụ KH-TC Bộ Giáo dục và Đào tạo



Каталог: data -> file -> 2015 -> Thang02
Thang02 -> Những câu nói hay về tình yêu bằng Tiếng Anh I used to think that dreams do not come true, but this quickly changed the moment I laid my eyes on you
Thang02 -> HỌc viện công nghệ BƯu chính viễn thông đỒ Án tốt nghiệP ĐẠi họC Đồ án
Thang02 -> Những bài thơ hay về ngày quốc tế phụ nữ 8-3
Thang02 -> Những từ tiếng Anh thường hay viết tắt
Thang02 -> VĂn khấN Đi chùa cầu bình an, may mắn và giải hạn năm mớI
Thang02 -> Exercise 1: Mark the letter A, B, c or d to indicate the correct answer to each of the following questions
Thang02 -> Maersk logistics quốc tế và Việt Nam (Đan Mạch)
Thang02 -> Tài Liệu Bồi Dưỡng Học Sinh Giỏi Lớp 7 Period 1 tenses summary (Tóm tắt)
Thang02 -> Vietnam National University, Hanoi College of foreign languages Post graduate Department o0o nguyễn phưƠng ngọc an Action research on the effects of Pre writing

tải về 5.13 Mb.

Chia sẻ với bạn bè của bạn:
1   ...   12   13   14   15   16   17   18   19   ...   30




Cơ sở dữ liệu được bảo vệ bởi bản quyền ©hocday.com 2024
được sử dụng cho việc quản lý

    Quê hương