Nghiên cứu sinh nguyễn khánh tưỜNG


CHƯƠNG 1 MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC ĐỐI VỚI KHU VỰC GIÁO DỤC ĐẠI HỌC CAO ĐẲNG TƯ THỤC



tải về 5.13 Mb.
trang2/30
Chuyển đổi dữ liệu13.05.2018
Kích5.13 Mb.
#38255
1   2   3   4   5   6   7   8   9   ...   30

CHƯƠNG 1

MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC ĐỐI VỚI KHU VỰC GIÁO DỤC ĐẠI HỌC CAO ĐẲNG TƯ THỤC



1.1 HỆ THỐNG TRƯỜNG ĐẠI HỌC, CAO ĐẲNG TƯ THỤC VÀ CÁC NHÂN TỐ TÁC ĐỘNG

1.1.1 Sự hình thành và phát triển hệ thống trường đại học cao đẳng tư thục



1.1.1.1 Khái niệm Trường Đại học tư thục

Bất kỳ quốc gia nào cũng cần có nguồn nhân lực được đào tạo để thực hiện các kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội nhằm thỏa mãn nhu cầu mọi mặt ngày càng cao của người dân. Hệ thống giáo dục quốc gia được hình thành nhằm đào tạo, huấn luyện và cung cấp cho xã hội các chuyên gia, nhà quản lý và thợ lành nghề cho các ngành và các lĩnh vực kinh tế - xã hội.



Xét theo bậc đào tạo, hệ thống giáo dục quốc gia bao gồm từ giáo dục mầm non, giáo dục tiểu học, trung học đến giáo dục đại học - cao đẳng và dạy nghề. Nhìn chung một cách chính thống, hệ thống giáo dục ban đầu được hình thành và vận hành bởi các chính phủ. Tuy nhiên, mầm mống ban đầu của hệ thống giáo dục này là giáo dục tư nhân tự phát, trong các gia đình, các cộng đồng nhỏ. Điều này xuất phát từ yêu cầu sống còn của cuộc đấu tranh với thiên nhiên để sinh tồn và phát triển của con người.

Hình 1.1. Sơ đồ đào tạo nhân lực tại Việt Nam

Cùng với sự ra đời của nhà nước và sự phát triển của kinh tế xã hội, nhu cầu nhân lực ngày càng cao cả về mặt số lượng và chất lượng, giáo dục tư nhân tự phát không còn thích hợp và nhà nước cần phải nhận lãnh trách nhiệm hình thành và vận hành hệ thống giáo dục quốc gia để đáp ứng nhu cầu này. Tuy nhiên do nguồn lực của các chính phủ là hữu hạn và nhu cầu nhân lực lại rất lớn nên sự tham gia chính thức của khu vực tư nhân là một tất yếu khách quan, kết quả là hệ thống giáo dục quốc gia ngày nay được quản lý bởi chính phủ nhưng bao gồm cả khu vực nhà nước và cả khu vực tư nhân.

Trên thế giới hiện nay, căn cứ vào tiêu chí quyền sở hữu, sự góp vốn và vai trò của các sáng lập viên, người ta chia các trường đại học trên thế giới thành ba loại: trường đại học công lập, trường đại học tư thục và trường đại học do các tổ chức tôn giáo thành lập và quản lý. Tại các quốc gia khác nhau, tùy thuộc điều kiện kinh tế, xã hội và lịch sử của mỗi nước, tầm quan trọng của mỗi loại trường này trong hệ thống đào tạo quốc gia là rất khác nhau. Tại nhiều quốc gia Châu Âu như Áo, Đức, Pháp, Thụy Sỹ hay Anh Quốc, các trường đại học tổng hợp hầu hết là công lập, song được hưởng một chế độ tự trị, tự quản rất cao. Ngược lại, ở Hàn Quốc, Nhật Bản hay Hoa Kỳ, các trường đại học tư thục chiếm vai trò và tỷ trọng lớn hơn, nhiều trường đại học tư thục trong các quốc gia này có chất lượng hàng đầu thế giới. Ở Hoa Kỳ, Châu Mỹ La tinh, và Philipines có những trường đại học được thành lập và quản lý bởi các tổ chức tôn giáo. Ở các quốc gia khác, trong đó có cả các quốc gia đang phát triển, từ gần ba thập kỷ nay người ta đã cho phép thành lập các trường đại học tư thục.

Ở nước ta, trường đại học tư thục là cơ sở giáo dục đại học thuộc hệ thống giáo dục quốc gia, do cá nhân hoặc một nhóm cá nhân là công dân Việt Nam xin phép thành lập và tự đầu tư. Trường đại học tư thục có tư cách pháp nhân, có con dấu và được mở tài khoản tại các ngân hàng hoặc kho bạc nhà nước để giao dịch. Trường đại học tư thục bình đẳng với trường đại học công lập, bán công, dân lập về nhiệm vụ và quyền hạn của nhà trường, của giảng viên và người học trong việc thực hiện mục tiêu, nội dung, chương trình, tổ chức quá trình đào tạo, bao gồm tuyển sinh, dạy và học, thi, kiểm tra công nhận tốt nghiệp, cấp văn bằng, chứng chỉ.

Theo quan điểm của Đảng và nhà nước được quy định trong văn bản quy phạm pháp luật có nêu “Trường đại học tư thục do các tổ chức xã hội, tổ chức xã hội - nghề nghiệp, tổ chức kinh tế hoặc cá nhân thành lập, đầu tư xây dựng cơ sở vật chất và bảo đảm kinh phí hoạt động bằng vốn huy động từ ngoài nguồn ngân sách Nhà nước”. [49, tr.1]

Nhưng cũng có quan điểm cho rằng, trường tư thục là trường do cá nhân, nhóm cá nhân, tổ chức kinh tế xã hội đầu tư xây dựng và nuôi dưỡng nó để hoạt động, nếu làm tường minh, tài sản của một trường tư thục thường thuộc nhiều dạng sở hữu như: sở hữu tư nhân, sở hữu của cả cộng đồng nhà trường, sở hữu nhà nước (nếu có), ví dụ như là sở hữu tài sản do nhà nước đầu tư qua các chương trình xây dựng phòng thí nghiệm chuyên đề…

Ở các nước, các trường đại học tư thục lại chia thành hai loại, trường đại học tư thục vì lợi nhuận - được tổ chức và hoạt động không khác các công ty đối vốn và các trường đại học tư thục phi lợi nhuận, không được tổ chức như các công ty cổ phần. Tại các quốc gia có hệ thống đào tạo đại học tiên tiến như Hoa Kỳ, các trường đại học tư thục tuy được tổ chức và có tên gọi như các công ty, song là các công ty hay tổ chức bất vụ lợi, không vì mục đích lợi nhuận, không được chia lãi, vì thế trong điều lệ các trường tư thục loại đó không có khái niệm cổ đông, không chia cổ tức cho người góp vốn như tại các công ty cổ phần. Sở dĩ có điều đó bởi pháp luật các quốc gia này chia công ty thành hai loại, có những công ty vì lợi nhuận (doanh nghiệp) và những công ty bất vụ lợi, hoạt động không vì lợi nhuận. Cách thức tổ chức và chế độ thuế áp dụng cho hai loại công ty này rất khác nhau.

Như vậy, từ các quan điểm và thông tin trên, một cách chung nhất có thể hiểu: “Trường đại học tư thục là cơ sở đào tạo do các tổ chức hay cá nhân đứng ra thành lập, đầu tư xây dựng cơ sở vật chất với nguồn kinh phí được huy động từ nhiều nguồn khác nhau, hoạt động trong khuôn khổ luật pháp, nhằm đào tạo nhân lực cho nhu cầu của xã hội với mục tiêu lợi nhuận hoặc phi lợi nhuận”.

1.1.1.2 Các đặc điểm nổi bật của trường tư thục

Khái niệm về trường tư thục thường được sử dụng một cách lỏng lẻo, các nhà nghiên cứu, các nhà hoạch định chính sách, các nhà giáo dục cũng như người dân đôi khi sử dụng khái niệm này một cách không đồng nhất. Tuy nhiên, nhìn chung, chúng ta có thể phân biệt khái niệm trường tư và trường công theo các tiêu chí sau đây: (1) Quyền sở hữu (Vốn bằng tiền và bằng hiện vật ban đầu khi thành lập trường); (2) Nguồn kinh phí hỗ trợ từ Nhà nước (Có hay không có sự hỗ trợ về vốn của nhà nước); (3) Vì mục tiêu lợi nhuận hay phi lợi nhuận; và (4) Địa vị pháp lý (theo văn bản pháp lý nào) và tư cách pháp nhân. Phần sau đây sẽ làm rõ hơn các tiêu chí này.



(1) Quyền sở hữu

Chúng ta đều biết rằng cốt lõi của kinh tế thị trường là quyền sở hữu. Quyền được hưởng trực tiếp lợi tức từ vốn đầu tư sẽ thúc đẩy việc đầu tư vào các nhà máy hay cơ sở kinh doanh thương mại hoặc trường học, bệnh viện. Quyền được hưởng thành quả lao động của bản thân sẽ thúc đẩy thị trường lao động và phân phối lợi nhuận. Quyền chuyển nhượng tài sản là điều cần thiết cho việc sử dụng có hiệu quả các nguồn lực. Chỉ có thông qua sự chuyển nhượng này mọi loại quyền sở hữu mới có thể đạt được giá trị sử dụng cao nhất của nó.

Cơ sở pháp luật cho các loại hình khác nhau của quyền sở hữu bắt nguồn từ Hiến pháp. Hiến pháp của các quốc gia trên thế giới từ lâu đã thừa nhận quyền sở hữu tư nhân trên mọi phương diện của đời sống xã hội. Ở nước ta trước năm 1992, Hiến pháp chỉ quy định hai thành phần cơ bản trong nền kinh tế quốc dân: (1) Kinh tế quốc doanh đại diện cho quyền sở hữu toàn dân, và (2) Kinh tế tập thể. Thời đó, cùng tồn tại với thành phần kinh tế tập thể là các hoạt động hạn chế của thành phần kinh tế tư nhân trong lĩnh vực nông nghiệp, tiểu thủ công nghiệp và dịch vụ. Một bước ngoặt đã diễn ra trong quá trình chuyển sang cơ chế thị trường, tháng 4/1992 Quốc hội nước ta đã thông qua Hiến pháp mới cho phép quyền sở hữu tư nhân, đồng thời tăng cường sự bảo hộ của nhà nước đối với sở hữu đó. Hiến pháp đã xác lập ba hình thức sở hữu cơ bản: sở hữu toàn dân (sở hữu nhà nước), sở hữu tập thể và sở hữu tư nhân.

Trên thực tế, quyền sở hữu tư nhân đối với các cơ sở dạy nghề đã bắt đầu rất lâu trước khi sửa đổi Hiến pháp 1992. Bằng chứng của hoạt động dạy nghề tư nhân là từ nhiều năm trước đó hàng loạt cơ sở dạy nghề đã ra đời và hoạt động tại thành phố Hồ Chí Minh (khoảng hơn 200 cơ sở dạy nghề), Hà Nội, và Đà Nẵng. Mặc dù vậy, cơ sở pháp luật rõ ràng cho quyền sở hữu và quyền chuyển nhượng tài sản tư nhân vẫn chưa được khẳng định và thiết lập một cách rõ ràng. Điều này là cực kỳ quan trọng vì:

- Thứ nhất: Sự công nhận chính thức của cơ quan luật pháp là tín hiệu cho các chủ cơ sở dạy nghề và đầu tư tư nhân biết rằng hoạt động kinh tế thông qua phương pháp dạy nghề được chính thức thừa nhận.

- Thứ hai: Trên cơ sở của sự thừa nhận chính thức này, các cá nhân, tập thể muốn thành lập trường tư trong GDĐH-CĐ có thể dựa vào sự bảo vệ của luật pháp đối với các hoạt động giáo dục đào tạo.



(2) Nguồn kinh phí hỗ trợ từ nhà nước

Thông thường các nước chỉ quy định hai hình thức sở hữu cơ bản là sở hữu nhà nước và sở hữu tư nhân. Tuy nhiên, do sự cần thiết phải phục hồi và củng cố các quyền sở hữu tư nhân nên quyền sở hữu tư nhân đã được mở rộng có thể là một hộ gia đình, một tổ chức xã hội, một tổ chức tôn giáo, một tổ chức đoàn thể. Cũng từ đó, tương ứng với hai hình thức sở hữu cơ bản này, trong giáo dục có hai khái niệm trường công và trường tư.

Trường công được hỗ trợ hàng năm từ nguồn kinh phí của nhà nước, còn đối với trường tư việc hỗ trợ kinh phí từ ngân sách hầu như không có, nếu có chỉ thông qua các dự án, các chương trình theo đơn đặt hàng của nhà nước.

Sự cần thiết của loại hình trường công, hay nói cách khác, sự cần thiết tài trợ của xã hội dưới danh nghĩa nhà nước đối với giáo dục đào tạo, xuất phát từ các đặc tính quan trọng sau đây của giáo dục trong nền kinh tế thị trường:



  • Đặc tính phương tiện sản xuất có tính chất vô hình. Trong giáo dục đào tạo phương tiện sản xuất có tính vô hình, chứ không phải hàng hóa dùng thỏa mãn nhu cầu tiêu dùng. Điều này buộc người được giáo dục đào tạo phải có ý thức đầu tư.

  • Đặc tính của hàng hóa chung (hàng hóa công cộng) hay lợi ích tỏa ra. Lợi ích của giáo dục đào tạo không chỉ thu gọn vào thỏa mãn nhu cầu trực tiếp của người được giáo dục đào tạo, mà còn thỏa mãn lợi ích của toàn xã hội hay ít nhất một số người khác kể cả những người không muốn được giáo dục đào tạo (không chịu đi học).

  • Đặc tính không thể tăng năng suất lao động của người làm thầy giáo như tăng năng suất lao động sản xuất các loại hàng hóa thông thường khác.

Tuy nhiên, sự cần thiết của loại hình trường tư, tức là sự tham gia của khu vực tư nhân trong giáo dục đào tạo cũng là một tất yếu khách quan vì:

  • Nhà nước không thể có đủ mọi nguồn lực để trực tiếp đảm đương việc cung cấp tất cả các hàng hóa công cộng (trong đó có giáo dục đào tạo), trong khi khu vực tư nhân lại có sẵn những nguồn lực nhất định cần được khai thác.

  • Ngoài ra, mức độ hiệu quả của khu vực tư nhân trong nhiều trường hợp được coi là cao do các động lực cá nhân về lợi nhuận, danh tiếng cũng như lòng tự trọng, và cả ý thức tuân thủ pháp luật [37].

(3) Trường tư vì lợi nhuậnphi lợi nhuận

Trong nền kinh tế thị trường, trường tư là một thực thể trên thị trường, nó phải đầu tư vốn và tài sản để hoạt động giáo dục đào tạo nhằm mục đích sinh lợi. Vì vậy điều kiện cơ bản đầu tiên của việc thành lập trường tư là người hay tập thể lập trường tư phải có tài sản. Tài sản đưa vào để lập trường tư có thể là: (1) Vốn bằng tiền; (2) Tài sản bằng hiện vật dùng để đầu tư ban đầu khi lập trường. Đương nhiên các tài sản đó phải thuộc quyền sở hữu hợp pháp của người đứng ra lập trường tư. Như vậy với tư cách là một người kinh doanh, người lập trường tư phải đầu tư một số tài sản, thuê mướn, sử dụng sức lao động để tiến hành hoạt động giáo dục đào tạo, đồng thời thực hiện việc thu học phí nhằm thu hồi vốn đã đầu tư, trang trải các chi phí đào tạo và có lãi.

Tuy nhiên trên thực tế nhiều khi mục tiêu của đầu tư giáo dục không hẳn là sinh lợi. Nhiều cá nhân, đặc biệt là các hiệp hội, thành lập trường tư không nhằm mục đích “kiếm lời” mà nhằm mục đích nhân đạo, với mong muốn đơn thuần là truyền thụ sự giáo dục cho mọi người. Đối với các loại hình trường tư không kinh doanh này, thông thường người ta thêm thuật ngữ “phi lợi nhuận” (non-profit) hoặc “không vụ lợi” (not-for-profit). Đương nhiên không vụ lợi không có nghĩa là không có lợi nhuận. Loại hình trường tư này hoạt động không lấy mục tiêu lợi nhuận làm trọng và số chênh lệch giữa toàn bộ nguồn thu trừ đi chi phí cần thiết của giáo dục đào tạo, được nhập vào “quỹ hội” (quỹ chung của trường). Toàn bộ quỹ này chỉ dùng để phát triển giáo dục đào tạo của trường mà thôi [37].

Một cách tiếp cận khác để phân biệt trường công và trường tư là dựa vào cách tính thuế thu nhập. Nếu một trường do một người hoặc một gia đình thành lập và thu lợi, thì nó giống như một doanh nghiệp tư nhân, nếu một trường do một nhóm người thành lập và thu lợi thì đây chính là một công ty trách nhiệm hữu hạn. Theo chính sách Nhà nước thì loại trường theo đuổi mục tiêu lợi nhuận phải nộp thuế thu nhập doanh nghiệp trước khi chia lãi cho nhà đầu tư. Loại thứ hai là loại trường phi lợi nhuận, loại trường này "lợi nhuận" nếu có không phân phối cho người góp vốn, mà được dùng để tái đầu tư mở rộng giáo dục đào tạo. Và theo chính sách Nhà nước thì loại trường này không phải nộp thuế thu nhập doanh nghiệp.



(4) Địa vị pháp lý của trường tư thục

ĐH-CĐTT ở bất cứ một quốc gia nào cũng là một chủ thể pháp luật độc lập. Muốn tham gia vào các quan hệ xã hội, trường phải có một địa vị pháp lý nhất định để xác định ranh giới của nó trong mối quan hệ với các chủ thể pháp luật khác. “Địa vị pháp lý của một chủ thể pháp luật là tổng thể các quyền và nghĩa vụ pháp lý của chủ thể, qua đó xác lập cũng như giới hạn khả năng của chủ thể trong hoạt động của mình”.

Như vậy, địa vị pháp lý của một chủ thể pháp luật chính là “áo khoác pháp lý” cho nó, giúp khách hàng, đối tác của chủ thể đó nhận dạng được mình sẽ, đang quan hệ với loại chủ thể nào, quyền, nghĩa vụ của chủ thể đó ra sao để rồi họ quyết định có tiếp tục có quan hệ với chủ thể đó hay không. Việc thiết kế một “áo khoác pháp lý” cho tất cả các chủ thể pháp luật trong đó có ĐH-CĐTT khi họ tham gia vào quan hệ pháp luật là hết sức cần thiết.

“Áo khoác pháp lý” của trường đại học cho phép sinh viên, đối tượng quan trọng nhất của bất cứ một trường đại học nào biết được nơi mà họ sắp ghi danh có quy chế pháp lý thế như nào, đây là cơ sở đào tạo vì lợi nhuận hay phi lợi nhuận; quyền lợi của họ được bảo vệ ra sao; để từ đó họ có thể lựa chọn cơ sở đào tạo thích hợp. Tương tự như vậy, đối với bản thân những người chủ sở hữu của ĐH-CĐTT, họ cũng cần biết nếu theo mô hình lợi nhuận hay phi lợi nhuận thì trường đại học của họ có những lợi thế hoặc bất lợi gì. Đối với các cơ quan quản lý hay đối tác của trường tư thục, việc biết đại học này khoác “áo khoác pháp lý” nào cũng rất cần thiết. Nếu là mô hình phi lợi nhuận thì chính sách thuế của Nhà nước sẽ khác với mô hình lợi nhuận ở chỗ nào? Nếu là mô hình lợi nhuận thì cơ chế kiểm soát tài chính, cơ chế kiểm toán có khác gì không so với mô hình phi lợi nhuận? Cơ chế vay vốn của các ngân hàng có khác hay không đối với hai mô hình này…

Địa vị pháp lý của các trường ĐH-CĐTT bao gồm tất cả những quy định của pháp luật về quyền và nghĩa vụ của trường. Đây là vấn đề rộng được quy định ở nhiều văn bản pháp luật khác nhau. Các nghiên cứu cho thấy địa vị pháp lý của trường ĐH-CĐTT thể hiện ở hai mặt cơ bản sau:



- Trường ĐH-CĐTT có địa vị pháp lý như trường đại học công lập. Trong hệ thống giáo dục của một quốc gia ĐH-CĐTT là một thành viên có tư cách pháp nhân, có con dấu và được mở tài khoản tại các ngân hàng, kho bạc nhà nước. Trường có địa vị pháp lý, chức năng, nhiệm vụ, nghĩa vụ và quyền lợi như các trường đại học công lập trong hệ thống giáo dục quốc dân. Điều này khẳng đinh trường ĐH-CĐTT có đầy đủ quyền và nghĩa vụ như các trường đại học công lập. Những quy định đó thể hiện chính sách công bằng, bình đẳng trước pháp luật, Nhà nước khuyến khích và bảo hộ những quyền và lợi ích hợp pháp của các trường tư thục, đề cao tính tự chủ nhưng phải tuân thủ pháp luật, nhằm tạo điều kiện cho trường ĐH-CĐTT phát triển, phát huy vai trò trong sự nghiệp xã hội hóa.

- Trường ĐH-CĐTT có địa vị pháp lý của một công ty cổ phần. Trường ĐHTT do các cá nhân, tổ chức thành lập, đầu tư xây dựng cơ cở vật chất và bảo đảm kinh phí hoạt động bằng vốn ngoài ngân sách nhà nước; hoạt động theo nguyên tắc tự nguyện góp vốn, tự chủ về tài chính, tự cân đối thu chi, thực hiện các quy định của pháp luật về chế độ kế toán, thống kê, nghĩa vụ với ngân sách nhà nước. Từ đó cho thấy trường ĐH-CĐTT có địa vị pháp lý như là một doanh nghiệp, có hình thức tổ chức và hoạt động giống công ty cổ phần.

Vấn đề đặt ra ở đây là nếu xác định là một doanh nghiệp thì mục đích là kinh doanh sinh lợi, theo Khoản 1, Điều 4 Luật doanh nghiệp: Kinh doanh là việc thực hiện liên tục một, một số hoặc tất cả các công đoạn của quá trình đầu tư, từ sản xuất đến tiêu thụ sản phẩm hoặc cung ứng dịch vụ trên thị trường nhằm mục đích sinh lợi. Trong điều kiện kinh tế thị trường và chủ trương xã hội hóa giáo dục chúng ta cần chấp nhận việc cho phép trường ĐH-CĐTT hoạt động theo mục đích sinh lợi. Khi các tư nhân bỏ tiền vào đầu tư trong lĩnh vực giáo dục, thì họ phải thu được hưởng lợi từ đầu tư đó. Vấn đề là Nhà nước sẽ quản lý chặt chẽ về nội dung, chất lượng, chương trình đào tạo, những trường ĐH-CĐTT không đáp ứng được yêu cầu chất lượng và giá cả cạnh tranh (học phí) thì sẽ bị xã hội đào thải theo quy luật thị trường.



1.1.1.2 Tính tất yếu của sự hình thành và phát triển khu vực giáo dục đại học cao đẳng tư thục

Có thể nói sự hình thành và phát triển của khu vực GDĐHCĐTT tại Việt Nam cũng như hầu thế các quốc gia khác trên thế giới là một thực tế tất yếu nhằm phát huy tối đa mọi nguồn lực trong xã hội, giảm bớt gánh nặng về ngân sách nhà nước cho GDĐT để thỏa mãn nhu cầu ngày càng tăng của xã hội đối với nguồn nhân lực và thỏa mãn nhu cầu được đào tạo của người học để tìm kiếm việc làm trên thị trường lao động.

Với số lượng sinh viên đại học và cao đẳng là rất lớn, hầu như không có quốc gia nào trên thế giới đủ ngân sách để bao cấp hoàn toàn cho giáo dục và đào tạo, nên việc huy động các nguồn kinh phí ngoài nhà nước cho GDĐH-CĐ trở thành chủ trương phổ biến của nhiều quốc gia trên thế giới, và công cuộc tư nhân hóa GDĐH-CĐ đã phản ánh xu hướng đó.

Thực tế chỉ rõ rằng các cơ sở đào tạo tư nhân có năng lực tiềm tàng to lớn để góp phần hiện thực hóa các mục tiêu nhiệm vụ của nhà nước giao cho họ. Các cơ sở tư thục có thể tăng nguồn lực cho giáo dục bằng cách huy động các đóng góp tư nhân (kể cả người học) bổ sung thêm cho nguồn tài chính do nhà nước cung cấp. Các cơ sở này có thể tăng cường tính đa dạng cho cả hệ thống và vì vậy tăng khả năng lựa chọn và đáp ứng nhu cầu của người sử dụng. Ngoài ra, khu vực GDĐHCĐTT còn có khả năng thích ứng tương đối nhanh với những thay đổi và do đó tăng cường tính đáp ứng của toàn bộ hệ thống. Nghiên cứu của ngân hàng thế giới cũng chỉ ra rằng các HTĐH-CĐ tư là nguồn bổ sung quan trọng cho HTĐH-CĐ công, có thể đáp ứng những nhu cầu của sinh viên và người thuê nhân công một cách có hiệu quả và mềm dẻo.

Như vậy cả HTĐH-CĐ ngoài công lập và công lập đều cung cấp học vấn đại học, nghề nghiệp cho người học và người sử dụng, nhưng mỗi khu vực thực hiện một số công việc có sự khác biệt nhất định và việc đáp ứng nhu cầu người học, người sử dụng cũng có sự khác biệt. Sự xuất hiện và phát triển của khu vực tư thục trong hệ thống giáo dục nhằm bổ trợ những khiếm khuyết cho khu vực công lập. Về mặt kinh tế xã hội, đóng góp của khu vực tư thục giúp xã hội đạt được bốn mục tiêu sau đây:


  • Giảm bớt gánh nặng cho công quỹ, giải phóng nguồn lực để phát triển số lượng hay nâng cao chất lượng của các cơ sở đào tạo.

  • Tăng cường hiệu quả trong các trường công lập bằng cách khuyến khích ý thức về phí tổn và sử dụng tốt hơn các nguồn lực.

  • Tăng cường trách nhiệm của các cơ sở đào tạo bằng các mối liên kết hệ thống giáo dục ĐH-CĐ với các ngành công nghiệp, thương mại, dịch vụ….

  • Tăng tính công bằng vì những người được hưởng giáo dục phải đóng góp vào những chi phí đó.

1.1.2. Vị trí và đặc điểm của đại học, cao đẳng tư thục trong hệ thống giáo dục của một quốc gia

1.1.2.1. Vị trí của ĐH-CĐTT trong hệ thống giáo dục

Hầu hết các quốc gia trên thế giới đều có hệ thống giáo dục tư nhân tồn tại song song với hệ thống giáo dục công lập. Nhưng do sự khác biệt về chế độ chính trị, chính sách của nhà nước, và mức quan tâm của cộng đồng xã hội nên vị trí của hệ thống giáo dục tư thục trong tổng thể hệ thống giáo dục quốc gia sẽ có sự khác nhau nhất định. Ở các quốc gia thuộc Trung Đông và một số quốc gia ở Châu Á, hệ thống đại học tư đã phát triển mạnh mẽ trong các lĩnh vực đào tạo nghề. Đối với Nhật và Hàn Quốc, sự phát triển gần đây của hệ thống giáo dục đại học chủ yếu nằm ở khu vực tư nhân. Ba Lan cũng là một ví dụ điển hình ở Châu Âu về sự phát triển hệ thống đại học tư.








Nguồn: Tác giả phục vụ cho nghiên cứu

Hình 1.2 Hệ thống giáo dục Đại học – Cao đẳng của Việt Nam



Ở nước ta hiện nay, hệ thống giáo dục đại học cao đẳng cũng bao gồm các trường công và trường tư. Điểm khác biệt là trong quá trình chuyển đổi từ nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung sang nền kinh tế thị trường là thời gian đầu, nhà nước đã cho phép tồn tại các loại hình trường công lập và ngoài công lập, tuy nhiên, hiện nay đang tiến dần đến mô hình chỉ gồm hai loại hình trường là công lập và tư thục để phù hợp với xu hướng chung ở các nước.

1.1.2.2. Đặc điểm khu vực GDĐHCĐTT

Hệ thống đại học cao đẳng tư thục là một bộ phận của hệ thống giáo dục ĐH-CĐ, nó là bậc hc đào to đi ngũ lao đng lành nghề, bao gồm các nhà khoa hc, các chuyên gia, k sư và nhng cán b chuyên môn k thuật các trình đ khác nhau. Giáo dục không trc tiếp tham gia vào quá trình sn xuất và vì vy, không trc tiếp tạo ra các sản phẩm vật cht. Tuy nhiên, theo phân công lao động xã hội, GĐĐH-CĐ là nơi duy nht có đ điều kin và đ kh năng cung cp ngun nhân lc kthuật cht lưng và trình đ chuyên môn cao cho nn kinh tế, làm gia tăng giá trị cho mi nhân thông qua vic trang b cho h tài khéo léo, s hiểu biết đlàm ra nhiu ca ci vt chất hơn cho bản thân và cho xã hội, gn liền vi s bo đảm quyền đưc sống và đưc làm việc vi năng sut lao động cao hơn ca mi người. Có thể tổng kết một số đặc điểm chính của hệ thống giáo dục đại học - cao đẳng tư thục như sau.

Chức năng của giáo dục đại học - cao đẳng. GĐĐH-CĐ có ba chc năng quan trng. Trưc hết, nó bo tn các nền văn hóa và tri thc nhân loi, tái to hoặc phn biện ý thc h chi phi ca quc gia. Th hai, la chn nhng ngưi ưu tú giới thiệu cho xã hội và cuối cùng là sáng tạo ra kho tàng tri thc mới. GĐĐH-CĐ không ch ci thin những lựa chọn nhân sn cho tt cả mi người, mà còn tạo ra mt lc lưng lao đng có năng lc sáng to, biết chắt lc và áp dng các tri thc thu đưc t kết qu ca các công trình nghiên cu khoa hc vào sản xut và đi sống, p phn làm tăng năng sut lao đng và nâng cao mc sống cho toàn b các thành viên trong xã hội, góp phần xóa b khong ch thu nhp gia ngưi giàu và ngưi nghèo thông qua việc trang bị cho người học những tri thc và k năng cn thiết đlàm việc.

Giáo dục đại học - cao đẳng với tư cách là phương tiện. GĐĐH-CĐ nói chung và khu vực GDĐHCĐTT nói riêng có vai trò đặc biệt quan trọng cho sự phồn thịnh của một nền kinh tế hiện đại, đó là nền “kinh tế tri thức”, nó ngày càng có ý nghĩa quyết định đến sự thịnh vượng của nhân loại trong tương lai [17, tr.227-237]; là phương tiện phát triển riêng của mỗi cá nhân, phương tiện xây dựng nền văn hóa, chia sẻ truyền thống và cung cấp sức mạnh cho xã hội nói chung. Là một phương tiện tích lũy tài sản và khả năng cạnh tranh của cá nhân và xã hội.

Lợi ích lan tỏa hay lợi ích tràn xã hội của giáo dục đại học-cao đẳng. Một đặc trưng riêng có của sản phẩm dịch vụ GDĐH-CĐ là lợi ích lan tỏa (hay còn gọi là lợi ích tràn xã hội) không chỉ bản thân cho người học mà cho cả cộng đồng, do vậy khu vực GDĐHCĐTT cũng không loại trừ hiệu ứng đó. Bởi vì những sản phẩm dịch vụ GDĐH-CĐ với trình độ cao này có thể sẽ đem lại những thành tựu khoa học công nghệ vượt bậc, đưa năng suất lao động tăng cao một cách đột biến hoặc tạo ra những sản phẩm tiêu dùng có hàm lượng chất xám cao. Ngoài ra, loại sn phm ca dịch v này là nhng ngưi công dân ích vi chính mình, trách nhiệm vi gia đình, xã hi và quc gia. Nhng sn phẩm như vậy đưc gi là loại hàng hóa có ngoại biên thun. Nó kng ch mang li li ích cho nhân mà còn cho c xã hi và li ích xã hi ln luôn ln hơn li ích nhân. Tổng li ích xã hi s tăng lên nếu như loi sản phẩm này đưc sản xut nhiều hơn. Đối với các lợi ích của xã hội có được từ giáo dục đại học, ngoài cá nhân và gia đình, xã hội phải nhận được những lợi ích này. Rất khó để xác định, định lượng và tính toán những lợi ích đó. Do đó có rất nhiều tranh luận và sự phỏng đoán về việc chúng có tồn tại không và tại sao chúng tồn tại trong giáo dục đại học [1, tr 86]

Giáo dục đại học - cao đẳng với tư cách là một quan hệ sản xuất xã hội. GĐĐH-CĐ nói chung và khu vực GDĐHCĐTT nói riêng ni dung ca quan h sn xut xã hội, bi vì giá cả dịch vụ này trong KTTT kng hoàn toàn phn ánh s khan hiếm mà nó phụ thuộc vào một số yếu tố sau:

  • Trưc hết, cung và cầu của nó thưng ph thuc vào s khác bit v mc lương hay thu nhập (gia ngưi và không có văn bng đi hc).

  • Tiếp theo là khnăng thành công trong vic m kiếm công ăn việc làm trong khu vc công nghip, nông nghiệp, xây dựng, thương mại hoặc một loại dịch vụ nào đó (t l tht nghip ca ngưi hoặc không văn bng đại hc).

  • Sau nữa là các chi phí trc tiếp liên quan đến giáo dục (chng hạn như hc phí và l phí).

  • Cuối cùng là chi phí cơ hi hay chi phí gián tiếp liên quan đến giáo dục (s tiền ngưi sinh viên có th thu đưc nếu kng đi hc).

Giáo dục đại học - cao đẳng với tư cách là một hàng hóa đặc biệt. GĐĐH-CĐ nói chung và khu vực GDĐHCĐTT nói riêng còn là mt loi hàng hóa đc bit vì có những đặc tính ca hàng hóa (li ích xã hội ln hơn li ích cá nhân, có tính bn vng đi theo sut cuc đi con ngưi và ngưi mua cui cùng cũng là ngưi tiêu th). Trong KTTT có thể xảy ra các tình huống sau: (1) Vì mục tiêu li nhun ngn hn, mt s sở đào tạo có thể cung cp những ngưi tt nghiệp thiếu chất lưng; (2) KTTT th s làm cho mt bphận ngưi trở lên nghèo hơn nên không khnăng chi trả hc phí, mặc đù có năng lc hc tp. Cho dù trưng hp nào đi nữa xảy ra, đ va hạn chế các tổn phí giao dịch trong th trưng lao động do chất lưng đào tạo thp, va bo đảm hi hc tập đi hc ngang nhau cho mi nhân trong xã hội, hệ thống giáo dục phi có s can thip ca nhà nưc. Nói khác đi, xét dưi ý niệm công bng xã hội, sản phẩm giáo dục là mt hàng hóa mà chính ph phi can thip mnh m vào th trưng thông qua c biện pháp như: Tài trợ trc tiếp cho đào to, nghiên cu khoa hc; khuyến kch tư nhân (k cả tư nhân nưc ngoài) đu tư phát trin GĐĐH-CĐ, nht là đưi hình thc không v li và điều tiết chất lưng kể cả lĩnh vực công cũng như tư.

Giáo dục đại học - cao đẳng với tư cách là một dịch vụ. Trong nền KTTT, GĐĐH-CĐ nói chung và GDĐH-CĐ tư thục nói riêng được thực hiện dưới hình thức cung cấp sức lao động của các giáo sư, giảng viên cho người học và người học mua lao động của người dạy bằng phí, học phí, hoặc đóng thuế để nhà nước trả công, trả lương cho họ. Dưới góc độ phân công lao động xã hội trong nền sản xuất hàng hóa, loại lao động giảng dạy của các giáo sư, giảng viên không sản xuất ra tư bản. Theo K.Marx, đó là loại lao động phi sản xuất và khi trao đổi, nó được mua-bán như một dịch vụ và hàng hoá thông thường. Như vậy, sản phẩm GĐĐH-CĐ là một loại dịch vụ và nó có đầy đủ tính chất kinh tế như các loại sản phẩm hàng hóa và dịch vụ khác. Thị trường dịch vụ GĐĐH-CĐ có một số ưu điểm chính sau:

- Một là, cơ chế thị trường làm cho dịch vụ GĐĐH-CĐ đáp ứng tốt hơn nhu cầu của phát triển kinh tế - xã hội. Sự ra đời của thị trường dịch vụ GĐĐH-CĐ từng bước giảm bớt sự tham gia trực tiếp của chính phủ trong hoạt động điều hành trường đại học; chuyển quyền ra quyết định từ bộ, trường và khoa sang sinh viên và gia đình; gắn kết các trường đại học với nền kinh tế và cộng đồng doanh nghiệp thông qua cơ chế đặt hàng đào tạo, thành lập trường đại học trong các công ty lớn hay lập các công ty dịch vụ hoặc kinh doanh bên trong trường đại học, đồng thời các giáo sư, giảng viên đại học có thể làm việc bán thời gian ở các doanh nghiệp...



- Hai là, cơ chế thị trường làm cho hệ thống giáo dục có khả năng thích nghi và sáng tạo hơn. Một phần tài chính đại học được chia sẻ từ cha mẹ sinh viên hoặc sinh viên những người được hưởng lợi cuối cùng của loại hình dịch vụ này.

Tuy nhiên, bên cạnh đó, th trưng dịch v sản phẩm GĐĐH-CĐ cũng đầy ry những ri ro và bt trắc. Nó có th làm xói mòn trách nhiệm xã hi, văn a và các mc tiêu ca. Vì nó ch đáp ứng các li ích và chi phí mà thc tế xuất hin trong quan h cung - cầu ca ngưi mua và ngưi bán nên trong ngắn hn, vi việc tp trung vào hưng nghiệp và nghiên cu ng dng, nó th phá hỏng các mc tiêu và giá tr ca giáo dục t do và nhng tìm i lý thuyết cơ bn. Cơ chế giá trong th trường dịch v GĐĐH-CĐ th d b bóp méo.

Các loại hình dịch vụ giáo dục đại học - cao đẳng. Mong đợi của chúng ta có thực tế với các loại hình dịch vụ mà giáo dục đại học cần cung cấp không, tất nhiên là đúng. Một nền công nghiệp có thể sản xuất ra bất cứ loại hình dịch vụ hỗn hợp nào mà xã hội chúng ta muốn sản xuất. Vấn đề kinh tế quan trọng có liên quan đến việc các cơ sở đào tạo này đáp ứng mong muốn và nhu cầu của xã hội về dịch vụ này như thế nào. Phân tích kinh tế đưa ra câu hỏi là cơ cấu hiện tại của các trường đại học cho phép họ đáp ứng các yêu cầu xã hội như thế nào. Nhìn chung, thông qua hệ thống kinh tế, người sử dụng đăng ký nhu cầu hàng hóa dịch vụ của họ theo cách mà họ sử dụng khả năng mua hàng của họ. Những nhà cung cấp dịch vụ phản ứng lại các mức giá. Đây không phải là cách mà sự kết hợp giữa các chương trình do các trường đại học và cao đẳng cung cấp được xác định.

Các trường đại học và cao đẳng ít khi hoặc không sử dụng hệ thống giá hoặc các lực lượng thị trường trong việc xác định những chương trình mà họ sẽ cung cấp. Họ thường cố gắng cung cấp những gì họ cho rằng xã hội có nhu cầu – kinh doanh, cơ khí, tin học, v.v…Tất nhiên, mong muốn của sinh viên và gia đình họ phải được xem xét; nếu không sẽ ảnh hưởng đến tỷ lệ nhập học. Ngoài ra, những đề nghị của cơ quan lập pháp cũng rất quan trọng. Cơ quan này có thế cắt các khoản hỗ trợ để mở rộng những chương trình mà đa số các thành viên không thông qua. Trong các trường tư, những nhà tài trợ chính có ảnh hưởng tới việc lựa chọn chương trình, tuy nhiên, lợi ích của sinh viên và gia đình có con theo học được coi là quan trọng nhất, vì đó chính là nguồn thu chủ yếu của nhà trường [1, tr.98].

Hệ thống giá trị bỏ qua hoàn toàn hoặc không được tính đến trong việc xác định những ưu tiên của chương trình vì hầu hết các trường đại học và cao đẳng áp dụng mức giá (học phí) giống nhau đối với tất cả sinh viên, bất kể là chương trình gì. Những người quản lý và các khoa trong trường đại học và cao đẳng, nhà lập pháp, và bản thân sinh viên tin rằng đây chính là cách hợp lý để vận hành hệ thống. Tuy nhiên một sự phản ánh nhỏ sẽ bộc lộ sự thiếu hiệu quả của nó.


Каталог: data -> file -> 2015 -> Thang02
Thang02 -> Những câu nói hay về tình yêu bằng Tiếng Anh I used to think that dreams do not come true, but this quickly changed the moment I laid my eyes on you
Thang02 -> HỌc viện công nghệ BƯu chính viễn thông đỒ Án tốt nghiệP ĐẠi họC Đồ án
Thang02 -> Những bài thơ hay về ngày quốc tế phụ nữ 8-3
Thang02 -> Những từ tiếng Anh thường hay viết tắt
Thang02 -> VĂn khấN Đi chùa cầu bình an, may mắn và giải hạn năm mớI
Thang02 -> Exercise 1: Mark the letter A, B, c or d to indicate the correct answer to each of the following questions
Thang02 -> Maersk logistics quốc tế và Việt Nam (Đan Mạch)
Thang02 -> Tài Liệu Bồi Dưỡng Học Sinh Giỏi Lớp 7 Period 1 tenses summary (Tóm tắt)
Thang02 -> Vietnam National University, Hanoi College of foreign languages Post graduate Department o0o nguyễn phưƠng ngọc an Action research on the effects of Pre writing

tải về 5.13 Mb.

Chia sẻ với bạn bè của bạn:
1   2   3   4   5   6   7   8   9   ...   30




Cơ sở dữ liệu được bảo vệ bởi bản quyền ©hocday.com 2024
được sử dụng cho việc quản lý

    Quê hương