LỊch sử truyền giáo tại việt nam quyển II lm. Nguyễn hồng chưƠng I: MỘt cha dòng têN Ở việt nam tới rôMA


Vấn đề cộng tác giữa các thừa sai Pháp và các cha dòng Tên (1678-1679)



tải về 1.47 Mb.
trang20/21
Chuyển đổi dữ liệu30.07.2016
Kích1.47 Mb.
#10372
1   ...   13   14   15   16   17   18   19   20   21

2. Vấn đề cộng tác giữa các thừa sai Pháp và các cha dòng Tên (1678-1679)

Trong chương trên đây, chúng ta đã thấy vấn đề công nhận quyền bính của các Giám mục đại diện đã được giải quyết, hoà bình và trật tự đã được vãn hồi ở địa phận Đàng Ngoài : tháng 08 thán 1677, cha Feireira đã viết thư cho cha chính Deydier tỏ ý nhận quyền của các Giám mục.

Đây là vấn đề trên nguyên tắc, đi vào thực hành, còn nhiều gai góc, khó khăn phải tiếp tục san bằng. Nếu đối với các thừa sai dòng Đaminh, các thừa sai Pháp dễ dãi và nhân nhượng bao nhiêu, thì đối với các thừa sai dòng Tên, các ngài tỏ vẻ cứng rắn và khó khăn bấy nhiêu.

Theo đường lối đã ấn định trong công đồng I địa phận Đàng Ngoài, các cha Phanxicô Deydier và Giacôbê de Bourges muốn dành một khu vực riêng trong địa phận cho các cha dòng Tên. Tất cả các xứ họ trong khu vực sẽ thuộc quyền các cha, các thầy giảng của các cha cũng sẽ đưa về khu vực đó để hoạt động giúp các cha, các linh mục Việt Nam trong khu vực đó cũng sẽ được đổi đi nơi khác, để dành riêng cho một mình các cha. Các cha được hoàn toàn tự do hoạt động trong khu vực của mình, dưới quyền kiểm soát của Giám mục địa phận hoặc các cha chính của ngài. Các vị thật ra cũng chỉ can thiệp trong những trường hợp đặc biệt thôi.

Đối với các cha Đaminh, hai cha Phanxicô Deydier và Giacôbê de Bourges cũng theo đường lối chia khu vực trên đây. Theo thư gửi cho cah Gazil trong Ban Giám Đốc Chủng viện truyền giáo Paris thì các ngài đã trao cho ba cha dòng Đaminh coi sóc riêng khu vực rộng hơn 1 trấn.

Tuy nhiên các cha dòng Tên không muốn chịu theo đường lối phân chia khu vực riêng như thế. Khi bằng lòng nhận quyền coi sóc trong địa phận của các Giám mục đại diện Toà Thánh và bằng lòng nhận cộng tác với thừa sai Pháp. Do các Giám mục đặt làm cha chính địa phận, các cha dòng Tên hiểu là mình sẽ vẫn tiếp tục trông coi các xứ họ rải rác trong khắp các trấn trong địa phận. Giáo dân các xứ họ ấy là những người, từ sau khi các thừa sai Pháp đến, vẫn trung thành với các cha dòng và chỉ nhận quyền của các cha cũng như các thầy giảng của các cha. Các cha dòng Tên không muốn bỏ họ, cũng như không muôn trao các xứ họ đó cho các linh mục địa phương hay các thừa sai Pháp. Trái lại các linh mục địa phương và các thừa sai Pháp thì sẵn sàng trao các xứ họ của mình đang coi sóc cho các cha dòng Tên, cũng như trước đây đã trao phó các xứ họ của các ngài cho các cha Đaminh. Các cha dòng Tên từ chối, viện lẽ rằng, “Các giáo dân ở các xứ họ của các cha chỉ tin tưởng vào mình các cha mà thôi”.

Các thừa sai Pháp thì không muốn nhận chủ trương để các cha dòng Tên tiếp tục trông coi các xứ họ của các cha rải rác trong khắp địa phận. Các ngài cho rằng như thế là tiếp tục nuôi sống tình trạng chia rẽ trong địa phận. Giáo dân của các cha sẽ không bao giờ chịu nhận quyền Giám mục địa phận như các cha chính và các linh mục bản quốc. Vì vậy, cái cảnh xứ họ trong một xứ họ vẫn tiếp tục. Và cũng trong một xứ, mà một số họ đạo thì theo các cha dòng Tên, còn một số khác thì thuộc quyền linh mục địa phương. Tình trạng phân chia đó không thể tồn tại mãi được.

Trong bốn ngày đêm liên tiếp, hai cha dòng Tên Feireira, Fuciti tranh luận với hai cha chính, cha Phanxicô Deydier và Giacôbê de Bourges, về vấn đề phân chia khu vực, mà không đi đến một giải quyết thoả đáng nào hầu làm vừa lòng được các thừa sai dòng Tên. Cuộc bàn cãi càng kéo dài càng thêm căng thẳng, cũng như những câu đối đáp càng trở nên chua cay. Cuối cùng hai cha Feireira và Fuciti tạm chịu nhận trông coi riêng biệt một khu vực, tức là trấn Đông, miền Hải Dương, cũng như các cha dòng Đaminh đã nhận riêng một trấn Nam, miền Sơn Nam.

Theo thư hai cha chính gửi về Bộ Truyền Giáo, giáo xứ họ trong trấn này là những xứ họ ngoan đạo và có thể coi là một trong những khu vực mà sự đạo được thịnh vượng hơn cả. Tuy thế, các cha đồng thời còn đòi hỏi là vẫn được tiếp tục trông coi các xứ họ vẫn thuộc quyền mình.

Các cha chính cho rằng đòi hỏi thứ hai này không thực tế, vì nguyên một mình hai cha trông coi các xứ họ ở trấn Hải Dương vừa đông vừa ngoan đạo đã là một việc mệt nhọc không thể làm hết. Làm sao các cha vừa có giờ mà đi thăm, cũng như trông coi săn sóc chừng 130 nhà thờ xứ và cũng chừng bấy nhiêu nhà nguyện các họ đạo nhỏ ở trấn Hải Dương đã trao cho các cha, đồng thời lại có giờ đi thăm các xứ họ khác rải rác trong khắp địa phận, có những nơi xa khu vực các cha từ 150 đên 200 dặm với những phương tiện di chuyển thô sơ hiện có ở xứ Bắc bấy giờ. Hơn nữa, trước đây ngay các xứ họ cũ của các cha, các cha cũng không kiêm nhiệm hết. Nhiều xứ họ lâu năm không được các cha thăm viếng, lòng đạo biếng trễ, nhiều người hết không được gặp các cha và họ cũng không chịu xin gặp các linh mục Việt Nam, dù ở gần chỗ các ngài. Nhưng hai cha Feireira và Fuciti có lẽ cho rằng, một khi tình hình ở Áo Môn được khả quan hơn, thì các cha sẽ có nhiều thừa sai khác đến cộng tác và như thế, vấn đề trông coi các xứ họ rải rác không đáng ngại.

Theo hai cha chính thừa sai Pháp thì điều mà hai cha dòng Tên thắc mắc và đặt vấn đề hơn cả là số phận các nhà thờ, nhà nguyện, nhà xứ mà các cha đã lo xây cất. Một khi trao các xứ họ cho các linh mục Việt Nam trông coi thì các ngài được hưởng thụ nhưng không hay sao ? Theo cha Feireira thì hành động đó sẽ bị tức khắc phạt vạ rút phép thông công.

Theo thư hai cha chính gửi Bộ Truyền Giáo thị thật ra một phần lớn các nhà xứ, trong các xứ họ của các cha dòng Tên, chỉ là những căn nhà lá xơ xài. Nhiều cái đã xiêu vẹo đổ nát. Chỗ tạm trú cho các cha, khi đến thăm xứ họ một ít ngày, phần lớn cũng không do các cha dòng bỏ tiền xây cất, mà do giáo dân góp công góp của, hoặc do một gia đình giàu có, dư nhà cữa dâng cúng làm chỗ trú ngụ cho các cha. Để giải quyết vấn đề, các cha thừa sai Pháp bằng lòng để các cha dòng Tên đứng bán các căn nhà đó.

Hai cha thừa sai Pháp và hai cha thừa sai dòng Tên tranh luận suốt đêm để giải quyết vấn đề đó, nhưng vẫn không đi đến kết quả nào. Mất bình tĩnh và nhẫn nại, cha dòng Tên Feireira tuyên bố nại đến quyền phân xử của Đức Cha Phanxicô Pallu, Giám mục đại diện ở địa phận Đàng Ngoài. Cuộc bàn cãi chấm dứt và bồ câu ngậm cành Oliva về báo hiệu những ngày trật tự, hoà bình mà cha Feireira đã nói đến trong thư gởi cho hai thừa sai Pháp khi chịu nhận quyền các Giám mục đại diện, đã vỗ cánh bay đi.

Căn cứ vào thái độ trên đây của cha Feireira, hai cha chính cha Phanxicô Deydier và Giacôbê de Bourges nghi ngờ cha này không thực tâm công nhận đoản sắc “Toà Thánh Rôma” (Decet Romanum) về quyền bính của Giám mục đại diện Toà Thánh trong khu vực truyền giáo. Các ngài kết tội cha Feireira là cố tình tiếp tục gây chia rẽ trong giáo đoàn và vội viết thư về Bộ Truyền Giáo tố cáo thái độ của cha Feireira.

Có lẽ hai thừa sai Pháp không nghĩ rằng : nguyên việc cha Feireira kêu gọi đến quyền phân xử của Đức Cha Phanxicô Pallu, Giám mục đại diện Toà Thánh ở địa phận Đàng Ngoài, đã đủ là một bằng chứng cha Feireira có công nhận quyền của Giám mục địa phận. Lẽ dĩ nhiên, việc nại đến quyền phân xử của Giám mục địa phận không làm các cha chính hài lòng. Dầu sao hai cha thừa sai Pháp cũng cho rằng mình đây đủ bằng chứng để kết án sự thiếu thực tâm công nhận sắc lệnh của Toà Thánh của các cha dòng Tên : tuy trên giấy tờ các cha dòng công nhận, nhưng trong thực tế không được minh chứng bằng hành động, các cha dòng không chịu công khai tuyên bố sắc lệnh của Toà Thánh trong các nhà thờ của các cha. Các ngài cũng không chịu thông báo cho các thầy giảng biết quyết định của sắc lệnh Toà Thánh.

Trong số 90 thầy giảng của các cha chỉ có chừng 15 thầy đến trình diện với các cha chính địa phận. Nhiều thầy giảng của các cha dòng có dịp đến kinh đô và qua Phố Hiến mà cũng không đến với các ngài, như trường hợp thầy Simon Khoẻ. Một thầy tên Inhaxiô giúp việc cho các cha dòng đã đến nhà các cha chính nói ầm ĩ lên rằng : các cha dòng Đaminh không phải là những Chúa chiên đích thực, vừa thấy sói rừng đến đã vội bỏ trốn : các cha này sợ những cuộc bách hại nên không dám ở lại với đoàn chiên.

Có lẽ câu chuyện sẽ được dàn xếp êm thấm, nếu hai cha thừa sai Pháp biết nhân nhượng nhiều hơn đối với các cha dòng Tên là những người đến trước và có công nhiều hơn, như đã nhân nhượng với các cha dòng Đaminh chỉ là những người đến sau, chưa có công xây dựng gì cho giáo đoàn lúc đầu. Đồng thời các cha dòng Tên cũng cần biết dẹp tự ái lại một phần : không nên đòi hỏi quá nhiều những đặc ân cũng như quyền hành trong giáo đoàn, nhất là đối với những xứ họ xa xôi mà, trên thực tế, các cha không thể đến thăm thường xuyên được… Những xứ họ đó cần phải trao cho các linh mục Việt Nam, cũng như các ngài đã sẵn sàng giao xứ họ của các ngài cho các cha dòng.

Nhưng ở địa phận Đàng Ngoài lúc đó, thời ky 1679, sau 10 năm tranh giành chia rẽ giữa các cha dòng, các cha triều, cả đôi bên không còn đủ nhẫn nại, bình tĩnh nhân nhượng nhau để dàn xếp cho ổn thoả. Cuối năm 1679, hai thừa sai Pháp đã gởi một bức thư khá dài với lời lẽ khá chua cay cứng rắn cho cha Feireira : ngoài việc khiển trách các cha dòng không chịu thông báo sắc lệnh Toà Thánh cho các thầy giảng, cũng không ra lệnh cho các thầy đến trình diện với các cha chính, bày tỏ lòng công nhận quyền Giám mục địa phận, hai thừa sai Pháp còn phàn nàn vì nhiều nơi, giáo dân của các cha dòng vẫn ngoan cố không muốn chịu các phép bí tích do các linh mục Việt Nam : nhiều người chết mà không chịu gọi đến các ngài. Hai cha cũng yêu cầu các cha dòng Tên nộp sổ kê khai danh sách các thầy giảng và ra lệnh cho các thầy đến trình diện. Đàng khác các thầy giảng có lỗi như thầy Simon Khoẻ, các cha sẽ bắt họ phải đến báo lỗi với các cha chính và xin lỗi các ngài. Hai thừa sai Pháp cũng ra nhiều điều khoản yêu cầu các cha dòng phải tuân hành và bắt các thầy giảng cũng như giáo dân dưới quyền các ngài phải thi hành.

Được thư, các cha dòng Tên Feireira chỉ trả lời một cách vắn vỏi và không kém phần diễu cợt. Cha Feireira viết : mùa Sinh nhật sắp tới, công việc mục vụ bận bịu ngài không có giờ để viết dài dòng như các thừa sai Pháp. Do đó cũng như xưa, bảng Iliade được ghi trọn trên vỏ trái hạt dẻ, ngày nay thư trả lời của Ngài cũng chỉ gồm vỏn vẹn trong tờ giấy nhỏ. Theo lời yêu cầu của hai cha chính, ngài bằng lòng ghi tên bảy trụ sở của dòng Tên ở địa phận Đàng Ngoài, còn các vấn đề khác, đang khi chờ đợi sự phân xử của Giám mục đại diện, theo nguyên tắc của luật pháp, cứ để nguyên như trước.

Thế là tình trạng bất hoà giữa các cha dòng Tên và các thừa sai Pháp, sau một thời gian được hàn gắn, nay lại tan vỡ và kéo dài thêm. Đau lòng hơn nữa là bên cạnh cuộc xâu xé bên trong ấy, lại kèm theo cuộc bách hại bên ngoài do các vua chúa gây ra. Cả hai bên giáo dân cũng như thừa sai và các thầy giảng, đều bị thử thách liên tiếp : luôn phải sống lén lút lẩn tránh lúc nào cũng nơm nớp lo bị bắt giam, tù tội.

 

II. TÌNH HÌNH ĐỊA PHẬN ĐÀNG NGOÀI VÀ ĐÀNG TRONG (1676-1680)

1. Tình hình địa phận Đàng Ngoài

Sau một thời kỳ tạm yên từ năm 1672, năm 1676 cuộc bách hại lại bắt đầu nổi lên. Năm 1672 sự đạo được khá tự do là vì Chúa Trịnh đem quân đánh Chúa Nguyễn ở trong Nam, quan trấn tỉnh Nam, viên đao phủ chuyên bách hại đạo, phải theo Chúa Trịnh. Vị tổng trấn thay thế là người có thịnh tình với đạo, cha Phanxicô Deydier được thoát cảnh tù tội trở về Phố Hiến. Các cha được gặp gỡ giáo dân dễ dàng. Các ngài cũng tổ chức cuộc tĩnh tâm cho các linh mục Việt Nam cho các thầy giảng cũng như cho các chị dòng Mến Thánh Giá. Sau đó, khi Chúa Trịnh trở về, quan trấn tỉnh Nam, đến thay thế cho vị phò mã của nhà Chúa, tuy tính tình nghiêm ngặt, nhưng với sự dè dặt giữ gìn, các cha vẫn tiếp tục tự do truyền đạo, cũng như giáo dân được tự do hành đạo.

Nhưng từ năm 1675, xứ Bắc có nhiều biến loạn kèm thêm những cảnh giặc cướp, tuy không có vụ nào lớn nhưng chính quyền cũng vất vả canh phòng, đánh dẹp. Trịnh Tạc ra lệnh cấm ngặt các cuộc hội họp đông người với mục đích ngăn ngừa việc thành lập đảng phái chống đối triều đình. Đang khi ấy, Mạc Kính Hoàn, con cháu cuối cùng của họ Mạc, cũng lợi dụng tình thế nổi lên chống họ Trịnh. Sau cuộc đại bại, phải chạy qua trú ẩn bên Tàu, Mạc Kính Hoàn, nhờ nhà Minh can thiệp, lại trở về giữ đất Cao Bằng năm 1669, củng cố được lực lượng, lúc này Mạc Kính Hoàn lại tính chuyện chống đối. Trịnh Tạc tốn nhiều công phụ mới lại đuổi được Mạc Kính Hoàn khỏi đất Cao Bằng. Năm 1677, Kính Hoàn phải chạy qua biên giới ẩn náu tại Nam Định, một châu quận thuộc tỉnh Quảng Tây. Và từ đấy tuyệt tích nhà Mạc.

Lợi dụng sắc chỉ cấm hội họp của nhà Chúa, các quan ghét đạo tìm cách làm khó dễ người công giáo. Cuộc bách hại tái diễn vào tháng 02-1676. Một quan có thế giá trong phủ đã cho lính bắt một thầy giảng. Hai cha chính Phanxicô Deydier và Giacôbê de Bourges được tin, liền cho giải tán các thầy và các chủng sinh mà hai cha đang huấn luyện ở Phố Hiến. Đồng thời báo cho giáo dân để ý ngưng các cuộc đến gặp gỡ hai cha. Ở kinh đô vào dịp Tuần Thánh, biết rằng thế nào giáo hữu cũng đến gặp các cha để xưng tội rước lễ, một tên giáo gian tham tiền đi tố cáo với các quan trên và chỉ dẫn những nơi giáo dân hay tụ họp. Một số chừng 60 giáo dân bị bắt giam : tất cả đều can đảm xưng đạo.

Các quan ghét đạo tố cáo họ là những người hội họp để mưu đồ phản loạn ở chính kinh đô. Họ yêu cầu Chúa Trịnh ra án trảm quyết một số người. Chúa Trịnh ra lệnh giải các tù nhân đến cho chính nhà Chúa xét xử. Nhận thấy họ chỉ là những giáo dân mộ đạo, hội họp để cầu kinh trong dịp lễ, các quan khác xin nhà Chúa nên theo sắc chỉ cấm đạo trước đây mà gia hình, tức là chỉ phạt đánh mỗi người 80 trượng thôi vì đối với những giáo dân ấy, chưa có sắc chỉ nào cấm hành đạo với hình phạt trảm quyết cả.

Sau hơn 40 ngày giam giữ, nhà Chúa kết án những người bị bắt : vì trong nhà có chứa những người đến hội họp phải phạt vạ 15 quan tiền, các giáo dân khác : đàn ông từ 15 đến 70 tuổi bị phạt 50 trượng, đàn bà 30 trượng, con trai và lão ông nộp phạt 9 quan, thiếu nữ và lão bà nộp 6 quan. Các sách đạo, đồ thờ, ảnh tượng phải thiêu huỷ tất cả. Nhờ sự nâng đỡ của cụ bà Ursula, một phần lớn tiền phạt đều được bà trả thay. Còn hình phạt trượng thì nhờ có vị tổng trấn kinh thành có cảm tình với đạo, nhân thấy các giáo dân bị bắt có đức tin vững mạnh cùng với tâm hồn đơn sơ tốt lành nên ông rất thương họ. Ông ra lệnh cho lính “đem họ ra ngoài thành, đến một khu vực vắng vẻ ít người qua lại đánh họ rất nhẹ. Đúng là một trờ chơi chứ không phải là hình phạt : các lý hình không đánh vào người họ nằm dài dưới đất, mà đánh vào khoảng đất bên người họ…”

Như thế tuy bị một số các quan ghét đạo tìm cách bách hại, nhưng sự đạo vẫn được nhiều vị có quyền thế và thịnh tình nâng đỡ che chở. Dầu sao, các thừa sai cũng như các linh mục Việt Nam vẫn luôn luôn đề phòng và cẩn thận giữ gìn. Nhất là lúc đó lại gặp những cuộc loạn lạc giặc giã nổi lên, Chúa Trịnh trở nên khó tính, dễ bị những quan ghét đạo xúi xiểm đâm nghi ngờ người Coog Giáo. Đàng khác, riêng với hai thừa sai Pháp, tuy vẫn hoạt động truyền giáo dưới bộ áo lái buôn nhưng vẫn không che nỗi mắt các nhân viên triều phủ. Trở về kinh đô năm 1673 sau cuộc đại chiến với Chúa Nguyễn xứ Nam, trong buổi tiếp tân các ngoại kiều đến chúc mừng, nhờ nghe biết thế lực nhà vua Pháp bên Tây Phương, Chúa Trịnh tỏ vẻ kính nể hai cha với hy vọng tàu buôn Pháp sẽ đến buôn bán với xứ Bắc đem súng ống đạn dược bán cho nhà Chúa. Năm 1674, nghe tin Đức Cha Phanxicô Pallu đã trở lại kinh đô Thái Lan, sau cuộc công cán ở Rôma, hai cha hy vọng tàu Pháp sẽ đưa ngài đến kinh lý địa phận của ngài. Nhưng không may gặp bão táp và ngược gió tàu bị dạt vào khu vực Phi Luật Tân và Đức Cha cũng bị giữ lại đấy năm 1675.

Chờ đợi lâu năm, nghĩa là từ khi Đức Cha Lambertô de la Motte đến kinh lý địa phận Đàng Ngoài năm 1670, không thấy tàu buôn Pháp trở lại mang súng ống bán cho xứ Bắc, Chúa Trịnh tỏ ý sốt ruột. Năm 1676, vị quan trông coi các ngoại kiều đã cho gọi hai cha Phanxicô Deydier và Giacôbê de Bourges đến gặp : ông trách hai cha đã thu tiền dân xứ Bắc để cất nhà thờ và không chịu tuân lệnh nhà Chúa vẫn tiếp tục hội họp giáo dân. Tuy nhiên, cuối cùng ông cũng không quên nhắc khéo hai cha là đã lâu không có tàu buôn Pháp đến xứ Bắc, cũng như hai cha không có lễ vật cống hiến cho nhà Chúa như thói quan của các ngoại kiều. Năm 1677, nhân có chuyến tàu Anh bỏ xứ Bắc về Thái Lan, hai cha đã xin phép cho hai thầy Philippô và Đôminicô Hảo qua Thái Lan để lấy lễ vật về cống hiến cho nhà Chúa. Nhưng thực ra mục đích chính là để Đức Cha Lambertô de la Motte truyền chức cho hai thầy. Dầu sao hai cha cũng nhận thấy là số phận riêng của hai cha và do đó cũng liên quan đến sự tự do truyền đạo của các linh mục, cũng như sự tự do giữ đạo của giáo dân, một phần nào còn luỵ thuộc vào vấn đề buôn bán giữa nước Pháp và nhà Chúa xứ Bắc. Vì thế các cha tiếp tục gởi thư về Pháp. Nhưng không may chiến tranh giữa nước Pháp và Hoà Lan đã làm ngưng trệ tất cả.

Theo thư cha Giacôbê de Bourges viết về các cha trong Ban giám đốc Chủng viện truyền giáo năm 1679, ngày 12 tháng chạp, thì năm 1677, Trịnh Tạc lại ra sắc lệnh chỉ dụ cấm đạo trước đây. Ở các nơi, các linh mục Việt Nam và giáo dân bị phiền nhiễu liên tiếp. Nhất là ở các nơi như vùng Nghệ An hạ, chỗ cha già Mattinô Mát ; Nghệ An thượng, chỗ cha Simêon Kiên ; vùng Sơn Nam hạ, chỗ cha Vitô Tự ; vùng Hải Dương, chỗ cha Lêon Trụ, các cha luôn bị theo dõi, phải trốn tránh vất vả trong suốt năm 1677 và 1678. Cha Giacôbê de Bourges cũng kể : ngày 16-05-1679, cha già Mattinô Mát đang giải tội trong một nhà thờ ở Phú Kiên, một bọn chừng 10 tên, lẻn đến cướp các đồ trên bàn thờ : chén lễ, áo lễ, khăn bàn… và định bắt cả cha Mattinô Mát, nhưng nhờ đêm tối cha được hai thanh niên bảo vệ và trốn thoát. Ông trùm vì quá nóng nảy đem chuyện trình lên quan trấn : ông làm đơn thưa là nhân trong gia đình có lễ giỗ nên mượn ít đồ thờ về để làm lễ nhưng đã bị mấy người lương ghen ghét đến cướp. Quan trấn cho lính theo về để bắt trả lại. Mấy người bên lương biết chuyện đã vỡ lỡ và đã trình lên quan trấn nên lo sợ chạy lên kinh. Gặp một viên đội trưởng quen biết hộ liền trao đồ thờ đã lấy được cho ông. Dưới thời Chúa Trịnh, các ưu binh tức là lính túc vệ ở kinh thành bảo vệ hoàng gia và nhà Chúa, thường mộ ở Nghệ An, Thanh Hoá, hưởng nhiều đặc ân, như được cấp công điền… Viên đội trưởng này liền đem các đồ thờ trình lên nhà Chúa nói rằng trong khi ông sai lính đi thu thuế do nhà Chúa ban, họ đã gặp một đạo trưởng. Nhờ trời tối, đạo trưởng trốn thoát, nhưng lính đã bắt được các đồ thờ của đạo trưởng. Chúa Trịnh nổi giận, đồng thời lại nghe biết cha dòng Tên Đôminicô Fuciti cũng bị bắt nhưng trốn thoát, nhà Chúa ra lệnh trừng phạt hai quan địa phương. May mắn lúc đó nhà Chúa còn bận dẹp giặc Cao Bằng : tuy Mạc Kính Hoàn đã trốn qua Trung Quốc nhưng dư đảng vẫn còn, phải lo dẹp tận gốc. Vì thế câu chuyện sau đó cũng bỏ qua. Chỉ có giáo dân ở khu vực của hai quan địa phương đã xảy ra câu chuyện cha Fuciti và Mattinô Mát trốn thoát phải chịu cảnh giận cá chém thớt : vì phải phạt vạ, hai quan đã trút giận lên đầu giáo dân bắt họ phải nộp vạ thay cho các công, đồng thời phá hoại và quấy phá họ đạo.

Dầu bị bách hại và vết rạn nứt chia rẽ trong giáo đoàn chưa được hàn gắn hoàn toàn, công cuộc truyền giáo vẫn tiến triển. Con số người được lãnh nhận phép rửa 1676 là 7.769, số người xưng tội là 56.100 và số rước lễ được 38.720.

Năm 1677 cũng tương tự như thế, số rửa tộ là 6.253, xưng tội 59,918 và rước lễ 34.792. Sau năm 1678 rửa tội 7.422, xưng tội 60.132, rước lễ 45.435. Như thế trung bình mỗi năm số người rửa tội trong khu vực các thừa sai Pháp và linh mục Việt từ 7.000 đến 8.000, số người xưng tội trên dưới 60.000 và rước lễ trên dưới 40.000. Đấy là chưa kể số người được rửa tội trong vùng các cha dòng, cũng tương tự như thế. Bảng tường trình về các khu truyền giáo, khi nói về địa phận Đàng Ngoài đã viết : “Trong vòng 08 đến 10 năm vừa qua, thường thường mỗi năm con số đoàn chiên Chúa Giêsu Kitô được thêm từ 12.000 đến 15.000 linh hồn”. Đức Cha Phanxicô Pallu trong bản ký ức, trình lên Bộ Truyền Giáo năm 1678, đã ước lượng con số giáo dân địa phận Đàng Ngoài là 300.000 người.

CHƯƠNG XIII : CÁC CHA DÒNG ĐAMINH TỚI XỨ BẮC, TÌNH HÌNH HAI ĐỊA PHẬN ĐÀNG NGOÀI VÀ ĐÀNG TRONG (1676-1680)

I. CÁC CHA DÒNG ĐAMINH TỚI XỨ BẮC (1676-1680)

Trên đây chúng ta đã thấy, khi nghĩ đến nhu cầu của các khu vực truyền giáo thiếu ác thừa sai, các Giám mục đại diện Toà Thánh không những đã lo thành lập hàng Giáo sĩ bản quốc mà còn lo kêu gọi các dòng có thể gởi thừa sai đến cộng tác với các ngài. Sau cuộc công cán ở Rôma (1667-1669) trở về kinh đô Thái Lan vào năm 1673, Đức Cha Phanxicô  Pallu đã bàn tính với Đức Cha Lambertô de la Motte viết thư về Pháp, yêu cầu tu hội Xuân Bích, tuyển chọn cho các ngài những ơn gọi truyền giáo mà ác cha có thể gặp trong các đại chủng viện do các cha điều khiển. Hai Đức Cha cũng nghĩ đến việc kêu gọi sự cộng tác của các thừa sai Tây Ban Nha, dòng thánh Đaminh và dòng thánh Phanxicô ở Manila, Phi Luật Tân. Các ngài đã sai cha Gabien Bouchard đi công cán vấn đề này và các cha dòng đều hứa sẵn sàng cộng tác. Các cha dòng Phanxicô đã sai ngay cha Luigi tước Mẹ Thiên Chúa đến kinh đô Thái Lan dạy Trường Chung giúp cha Langlois. Còn các cha dòng Đaminh thì nằm 1676, sai hai cha người Tây Ban Nhan Gioan d’Arjona và Gioan de Santa Cruz đến xứ Bắc giúp hai cha Phanxicô Deydier và Giacôbê de Bourges.

 

1. Các cha dòng Đaminh tới xứ Bắc (1676-1680)

Vào năm 1676, khi hai cha dòng Đaminh người Tây Ban Nha tới xứ Bắc địa phận  Đàng Ngoài, thì vấn đề quyền bính của các Giám mục đại diện đối với các cha dòng Tên thuộc Áo Môn của người Bồ Đào Nha vẫn chưa được giải quyết. Tính cách chia rẽ trong giáo đoàn vẫn kéo dài. Thấy các cha dòng Đaminh Tây Ban Nha đến, các cha dòng Tên Bồ Đào Nha cho rằng các thừa sai Pháp muốn kéo thêm vây cánh để rồi dần dần tìm cách đẩy các ngài ra ngoài giáo đoàn, thay thế bằng các cha dòng Đaminh. Cha Feireira, Bề Trên các cha dòng Tên ở địa phận Đàng Ngoài lúc đó, đã tuyên bố với hai cha thừa sai Pháp là mình có thể gọi từ Áo Môn qua xứ Bắc, một số đông các cha thừa sai dòng Tên, tuỳ theo nhu cầu đòi hỏi. Vấn đề tranh dành giữa các thừa sai Pháp và thừa sai dòng Tên càng trở nên quyết liệt. Nhất là nó còn được thúc đẩy do sự đố kỵ và ganh hơn thua thiệt giữa người Bồ Đào Nha và Tây Ban Nha, cũng như sự bảo vệ quyền lợi khu vực bảo trợ của mỗi quốc gia, không muốn cho thừa sai nước khác tới.

Nhưng thực ra, hai cha Đaminh Gioan Arjoua và Gioan de Santa Cruz không có ý đến xứ Bắc để củng cố thêm lực lượng cho hai cha Deydier và Giacôbê de Bourges, như cha dòng Tên Feireira đã lo ngại. Bỏ Phi Luật Tân ra đi, các ngài có ngờ đâu là khi vừa tới xứ Bắc đã gặp nhiều khó khăn. Chẳng thế, khi lên đường, cha Bề Trên dòng đã trao cho hai cha một số tiền khá lớn, một nửa để lập một tu viện ở xứ Bắc, còn một nửa để làm lộ phí và tiêu pha trong thời kỳ sống ở địa sở truyền giáo.

Quen sống trong khu vực được tự do truyền đạo và giữ đạo, lại còn được kính trọng và nâng đỡ, các cha dòng Đaminh rất lấy làm khổ sở và lo lắng khi vào xứ Bắc gặp cảnh bách hại : đi đâu cũng phải lén lút, luôn luôn lo sợ bị tố giác, với cảnh tù tội bị đe doạ. Hơn nữa, đời sống khắc khổ và thấp kém của giáo dân cũng như các thường dân khác, cách sống thiếu thốn của các thừa sai, cũng làm các cha lo ngại. Nhưng tất cả những hy sinh đời sống truyền giáo đó, các cha dòng Đaminh có thể sẵn sàng lãnh nhận. Một phần nào, các cha đã nghĩ đến, khi nhận sứ mệnh đến truyền giáo cho một khu vực dưới quyền các vua chúa lương dân, dĩ nhiên không thể nào được tự do như khu vực bảo trợ của người Tây Ban Nha, hoặc Bồ Đào Nha, Phi Luật Tân hoặc Áo Môn.

Điều làm cho các cha bỡ ngỡ hơn cả có lẽ là vấn đề phải hoạt động truyền giáo dưới quyền các Giám mục đại diện Toà Thánh. Cũng như các cha dòng Tên trước đây, các cha dòng Đaminh vẫn quen sống độc lập và tự do trong công cuộc tổ chức cũng như chỉ huy việc truyền giáo của mình, dưới quyền Bề Trên dòng đã chỉ định và đặt đứng đầu trong địa sở truyền giáo của riêng các cha. Tới xứ Bắc, lần đầu tiên các cha phải chạm trán với tổ chức mới của Bộ Truyền Giáo, muốn lấy lại quyền chỉ huy các khu vực truyền giáo về Toà Thánh. Như các cha dòng Tên, các cha Đaminh cũng không muốn nhận tổ chức mới này và vẫn muốn tiếp tục tự do hoạt động truyền giáo theo đường lối của dòng mình và chỉ dưới quyền chỉ huy của Bề Trên dòng mình thôi. Các cha cũng được chứng kiến sự tranh chấp về quyền bính giữa các cha dòng Tên và các thừa sai Pháp đồng thời tình cảnh chia rẽ do đó đã gây ra trong giáo đoàn. Tất cả những rắc rối bên trong cũng như khó khăn bên ngoài, đã làm cho các cha dòng Đaminh vừa mới tới xứ Bắc đã thấy nản chí, muốn trở về ngay theo tàu buôn đã đưa các ngài tới.

Vì thiếu thừa sai, nên hai cha chính Phanxicô Deydier và cha Giacôbê de Bourges hết sức van nài hai cha ở lại hoạt động truyền giáo. Các cha dòng Đaminh bằng lòng đáp lại lời kêu gọi của hai thừa sai Pháp, với điều kiện các cha phải công nhận những đặc ân của dòng Đaminh ở khu vực truyền giáo. Cha Giacôbê de Bourges trong bản ký sự của địa sở đã viết : “Các cha ấy yêu cầu chúng tôi hết đặc ân miễn trừ này đến đặc ân miễn trừ khác, thành ra đến cuối cùng, nếu cho các ngài được tất cả thì nghĩa là chúng tôi cho phép các ngài công nhận các Giám mục đại diện chỉ là một hư vị mà thôi và đoản sắc “Những nhà thám hiểm” (Speculatores) của Đức Thánh Cha Clêmentê IX như thế đối với các ngài kể như không có ban hành.

Đối với những đòi hỏi quá đáng của các cha Đaminh, các cha Phanxicô Deydier và cha Giacôbê de Bourges bằng lòng cho các ngài, nhưng với điều kiện là nếu được các Giám mục địa diện ưng chuẩn. Tuy với tất cả những ưu đãi đặc biệt ấy hai cha thừa sai Pháp không bao giờ dùng để xử đãi với cha dòng Tên, dầu thế hai cha Đaminh chỉ nhận ở lại một cách miễn cưỡng. Năm sau, cha Gioan Arjona, Bề Trên, nhân có chuyến tàu người Anh bỏ xứ Bắc đi Bantam, liền theo tàu bỏ xứ Bắc với hy vọng có thể đáp tàu từ Bantam đi Phi Luật Tân. Không gặp tàu, cha Gioan Arjona đành qua Thái Lan trú và gặp Đức Cha Luigi Laneau ở thủ đô Thái Lan.

Ở lại xứ Bắc duy có một mình cha Gioan de Santa Cruz. Năm sau 1678 thêm cha Dionision Morales. Nhưng rồi đầu năm 1679, cả hai cũng rời xứ Bắc lấy tàu qua Thái Lan để trở về Manila. Hai cha Gioan de Santa Cruz và Dionision Morales đã gặp lại cha Gioan Arjona ở kinh đô Thái Lan. Được nhiều đặc ân mà các cha đã đòi hỏi thêm, cũng như những miễn trừ mà các cha đã yêu cầu hai cha chính Deydier và Bourges ở xứ Bắc : tất cả đều được Đức Cha Luigi Laneau chấp nhận và phê chuẩn, cả ba cha mới trở lại xứ Bắc vào tháng 08 năm 1679.

Theo thư ngày 12-12-1679, hai cha Deydier và Bourges gởi cha cha Gazil, trong Ban Giám Đốc Chủng viện truyền giáo ở Paris, thì hai ngài trao cho ba cha coi sóc riêng một khu vực hơn 1 trấn : lúc đó là các xứ Trung Linh, Giao Thuỷ, Nam Trực, Trực Ninh, Thanh Quang và Vũ Tiến thuộc trấn Sơn Nam. Nhưng sau 15 tháng hoạt động ở xứ Bắc thấy tình trạng cấm cách khó khăn, cả ba cha lại quyết định đáp tàu về Phi Luật Tân. Hai cha Deydier và Bourges cố tìm cách giữ cả ba cha lại nhưng vô hiệu quả.

Thấy việc yêu cầu người Anh và người Hoà Lan nhường một chỗ trên tàu của họ gặp nhiều khó khăn, nhưng lúc ấy có tàu người Pháp đến, hai cha thừa sai yêu cầu họ dành cho các cha dòng Đaminh chỗ trên tàu để về Bantam rồi từ đấy kiếm tàu về Phi Luật Tân. Trước khi các cha Đaminh lên đường hai cha chính viết thư mời ba cha dòng đến gặp các ngài ở Phố Hiến. Hai cha Gioan Arjona và Dionision Morales đến nhưng chẳng may các ngài gặp phải chuyện phiền phức :

Nguyên vị Tổng trấn Sơn Nam mới ra lệnh cho các đề lại cho người do thám các thừa sai Pháp ở Phố Hiến, nếu bắt được giáo dân hội họp ở nhà các ngài thì sẽ được thưởng, lệnh mới ban hành nên cha Deydier và Bourges không biết để kịp báo cho các cha Đaminh đề phòng. Hôm ấy, vào lúc trời tối, các cha Đaminh cập thuyền bên nhà các thừa sai để lên gặp các ngài. Đội tuần thám của các đề lại thấy có thuyền cập bến bên nhà các thừa sai Pháp liền phi báo cho các đề lại biết để đến khám xét. Đếm khám thuyền hai cha Đaminh, các ông bắt được một kiện sách và nhiều đồ lễ đựng bên trong. Được tin báo dưới thuyền bị khám xét : trên nhà, các thừa sai Pháp vội dấu đồ lễ, nên sau đó khi lên khám nhà, các đề lại không bắt được chi cả. Họ bắt những người chèo thuyền, mấy chú nhỏ và mấy thầy giảng điệu về tra tấn lấy cung. Mấy chú nhỏ vì sợ cực hình nên cung khai tất cả. Khi quan trấn về, ông truyền bắt giao hai cha dòng Đaminh và giải lên kinh cùng với 10 người bị bắt : các chú, các bõ, các thầy. Chúa Trịnh giao việc cho các quan ở phủ Chúa xét xử rồi truyền giải về trấn để chờ án.

Các quan trong phủ Chúa Trịnh lúc đó bận nhiều công việc nên trì hoãn chưa xét ngay. Trong khi đó quan Trấn Sơn Nam thì được lệnh đổi về trong coi vùng Bố Chánh. Muốn chóng xong công việc, ông xin Chúa Trịnh ra án trục xuất hai cha và phạt trượng các tù nhân khác. Nhà Chúa y án : quan trấn giao cho tàu Hoà Lan đưa các cha trở về Batavia và doạ nếu để hai cha trở lại sẽ bị phạt. Hai cha Gioan Arjona và Dionision Morales, khi về tới Batavia thì lại bị người Hoà Lan đưa về quê hương của họ. Như thế ở lại xứ Bắc còn một mình cha Gioan de Santa Cruz, cha ở xứ Cổ Liên cùng với cha già Mattinô Mát.

 


Каталог: wp-content -> uploads -> downloads -> 2011
2011 -> CÔng đỒng vatican II qua bốn thập niêN
2011 -> TÒa giám mục xã ĐOÀi chỉ nam giáo phận vinh lưỢC ĐỒ TỔng quáT
2011 -> 1. phép lạ thánh thể ĐẦu tiên khoảng năm 700 Tại làng Lanciano, nước Ý (italy)
2011 -> Thiên chúa giáo và tam giáO Đường Thi Trương Kỷ
2011 -> Tác giả Võ Long Tê chưƠng I bối cảnh lịch sử
2011 -> Các mẫu thức MẠc khải lm. Lê Công Đức
2011 -> Một lời nói đầu không phải là nơi nhiều chỗđể tóm lược lập luận của một cuốn sách cũng như định vị hoặc phát biểu về sựquan trọng của nó. Đây quả thực là một cuốn sách rất quan trọng
2011 -> LỜi giới thiệu suy tư ban đẦu về MẦu nhiệm giêSU
2011 -> Tu luật thánh biểN ĐỨc ngày 1 tháng 1

tải về 1.47 Mb.

Chia sẻ với bạn bè của bạn:
1   ...   13   14   15   16   17   18   19   20   21




Cơ sở dữ liệu được bảo vệ bởi bản quyền ©hocday.com 2024
được sử dụng cho việc quản lý

    Quê hương