KỲ HỌp thứ TÁM, quốc hội khóa XIII (20/10/2014 – 28/11/2014)



tải về 7.28 Mb.
trang93/101
Chuyển đổi dữ liệu19.07.2016
Kích7.28 Mb.
#2002
1   ...   89   90   91   92   93   94   95   96   ...   101

Trả lời: Tại công văn số 4093/BGDĐT-VP ngày 05/8/2014

1. Thực hiện các Chỉ thị, Nghị quyết, Kết luận của Trung ương Đảng và các Nghị quyết Quốc hội, của Chính phủ, Bộ Giáo dục và Đào tạo đã đưa giáo dục an toàn giao thông vào chương trình chính khóa của các cấp học từ năm học 2002-2003, với chương trình giáo dục cụ thể như sau:

- Đối với trường mầm non: Giáo dục an toàn giao thông cho trẻ theo tài liệu “Giáo dục an toàn giao thông cho trẻ mẫu giáo” chung cho cả 3 độ tuổi (trẻ 3- 4 tuổi, trẻ 4-5 tuổi, trẻ 5-6 tuổi), thời lượng chiếm 3-4 tuần/năm học và đồng thời được tích hợp vào các chủ đề khác trong năm.

- Đối với học sinh tiểu học: Đưa vào giảng dạy chính khóa thông qua các bài học trong các môn Tự nhiên - Xã hội từ lớp 1 đến lớp 3, lồng ghép vào môn đạo đức ở lớp 4 và lồng ghép vào môn khoa học ở lớp 5, Bộ Giáo dục và Đào tạo đã biên soạn tài liệu riêng với 6 bài học cho mỗi khối.

- Đối với học sinh trung học cơ sở và trung học phổ thông: Dạy tích hợp nội dung giáo dục an toàn giao thông vào các bài học có nội dung giáo dục pháp luật của môn giáo dục công dân lớp 6, môn địa lý lớp 9, 10, 12 và đầu năm học có dành 02 tiết ngoại khóa giáo dục pháp luật về an toàn giao thông cho học sinh THCS, THPT.

- Đối với học sinh, sinh viên các trường đại học, cao đẳng, trung cấp chuyên nghiệp: Tài liệu giáo dục an toàn giao thông cho sinh viên, học sinh các trường đại học, cao đẳng và trung học chuyên nghiệp và được đưa vào phổ biến cho học sinh, sinh viên và được thực hiện trong “Tuần sinh hoạt công dân học sinh, sinh viên đầu khóa học, đầu năm học”, với thời lượng 04 tiết.

- Ngoài ra, hàng năm phối hợp với các đơn vị, doanh nghiệp tổ chức nhiều hoạt động tuyên truyền giáo dục pháp luật về an toàn giao thông cho học sinh, sinh viên các cấp học. Ví dụ như: Tổ chức ngày hội giao lưu tìm hiểu kiến thức an toàn giao thông cấp quốc gia cho các em nhỏ cùng giao lưu, học hỏi với tinh thần “Học mà chơi, chơi mà học” thông qua các hình thức như: Thơ, ca, vẽ tranh về an toàn giao thông... để nâng cao hiểu biết và kỹ năng cơ bản khi tham gia giao thông; tổ chức cuộc thi lái xe mô tô an toàn cho học sinh, sinh viên các trường ĐH, CĐ, TCCN...

- Bộ Giáo dục và Đào tạo đã ban hành hệ thống văn bản quy định, hướng dẫn làm căn cứ cho các cơ sở giáo dục triển khai thực hiện công tác giáo dục an toàn giao thông trong trường học.

2. Để triển khai công tác giáo dục an toàn giao thông trong trường học tốt hơn nữa trong những năm tiếp theo, Bộ Giáo dục và Đào tạo dự kiến rà soát, biên tập tài liệu và đưa vào giảng dạy chính khóa sau năm 2015, nội dung cụ thể như sau:

- Đối với trường mầm non: Biên tập sửa đổi, bổ sung nội dung tài liệu, đồ dùng học tập phong phú, đa dạng, đẹp, dễ sử dụng và hấp dẫn hơn với các cháu như: tài liệu, học cụ, đồ dụng đồ chơi về giáo dục “An toàn giao thông”; Sách hướng dẫn giáo viên viết theo hướng gợi mở, cho mỗi nội dung đưa ra các hoạt động đa dạng để giáo viên tự lựa chọn các hoạt động phù hợp với điều kiện thực tế nhằm đạt mục đích đã đề ra.

- Đối với học sinh tiểu học: Giáo dục an toàn giao thông chính khóa đưa vào giảng dạy qua các bài học trong các môn Tự nhiên - Xã hội từ lớp 1 đến lớp 3, môn đạo đức ở lớp 4 và môn khoa học ở lớp 5; giáo dục ngoại khóa về an toàn giao thông cho học sinh vào đầu năm học mới.

- Đối với học sinh THCS, THPT: Xây dựng tài liệu hướng dẫn giảng dạy an toàn giao thông lồng ghép vào môn giáo dục công dân.

- Đối với học sinh, sinh viên các trường đại học, cao đẳng, trung cấp chuyên nghiệp: Biên tập bổ sung nội dung giáo dục an toàn giao thông cho học sinh, sinh viên lồng ghép vào môn pháp luật đại cương.

Ngày 5/8/2013, Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo đã ký Chương trình số 235/CTr-UBATGTQG-BGDĐT phối hợp với Chủ tịch Ủy ban An toàn giao thông Quốc gia về tăng cường công tác giáo dục an toàn giao thông trong trường học giai đoạn 2013-2018; Phối hợp với Ủy ban An toàn giao thông quốc gia, Bộ Công an tổ chức thí điểm các lớp phổ biến, giáo dục pháp luật về Luật Giao thông đường bộ cho học sinh lớp 12 và sinh viên, cấp chứng chỉ An toàn giao thông cho học sinh, sinh viên khi hoàn thành khóa học, sau này, nếu các học sinh, sinh viên này thi lấy bằng lái xe mô tô thì không phải thi phần lý thuyết. Thông qua đó, giúp học sinh, sinh viên có ý thức về an toàn giao thông.



35. Cử tri các tỉnh Cao Bằng, Lâm Đồng kiến nghị: Cử tri cho rằng, chương trình đào tạo liên thông cao đẳng lên đại học và hệ đại học từ xa như hiện nay còn nhiều bất cập, gây khó khăn cho sinh viên có nhu cầu học lên cao, việc quản lý chưa chặt chẽ, nên chất lượng đầu ra thấp, không đáp ứng được yêu cầu. Đề nghị Bộ Giáo dục và đào tạo cần xem xét chấn chỉnh, có những biện pháp hữu hiệu hơn nhằm nâng cao chất lượng, hoặc nếu không thì bỏ loại hình đào tạo này.

Trả lời: Tại công văn số 4661/BGDĐT-VP ngày 28/8/2014

Việc đào tạo liên thông cao đẳng lên đại học và đào tạo hệ đại học từ xa nhằm đáp ứng nhu cầu học tập nâng cao trình độ của sinh viên và của người lao động. Tuy nhiên, chất lượng đầu ra của hình thức đào tạo này còn thấp, chưa đáp ứng được yêu cầu của xã hội. Để khắc phục tình trạng này, Bộ Giáo dục và Đào tạo đã ban hành các văn bản nhằm tăng cường quản lý và nâng cao chất lượng của chương trình đào tạo liên thông và đào tạo từ xa.



1 Về hình thức đào tạo liên thông cao đẳng lên đại học

Ngày 25/5/2012, Bộ Giáo dục và Đào tạo đã ban hành Thông tư số 55/2012/TT- BGDĐT về đào tạo liên thông trình độ cao đẳng, đại học. Theo đó, quy định các đối tượng, điều kiện tuyển sinh đào tạo liên thông, cụ thể:

- Người có bằng tốt nghiệp trung cấp nghề, trung cấp chuyên nghiệp, cao đẳng nghề, cao đẳng thi lên trình độ cao đẳng hoặc đại học phải sau thời hạn 36 tháng kể từ ngày được cấp bằng tốt nghiệp và phải dự thi 3 môn gồm: một môn cơ bản, một môn cơ sở ngành và một môn chuyên ngành (hoặc thực hành nghề).

- Người có bằng tốt nghiệp trung cấp nghề, trung cấp chuyên nghiệp, cao đẳng nghề, cao đẳng chưa đủ 36 tháng kể từ ngày được cấp bằng tốt nghiệp đến ngày nộp hồ sơ thi lên trình độ cao đẳng hoặc đại học phải dự thi tuyển các môn văn hóa, năng khiếu theo khối thi của ngành thí sinh đăng ký học liên thông trong kỳ thi tuyển sinh cao đẳng, đại học chính quy do Bộ Giáo dục và Đào tạo tổ chức hằng năm;

- Thời gian đào tạo được xác định trên cơ sở học phần và khối lượng tích lũy quy định cho từng chương trình và trình độ đào tạo theo niên chế hoặc tín chỉ; Chương trình đào tạo đối với người học liên thông theo hình thức chính quy là chương trình đào tạo đại học chính quy đang áp dụng tại cơ sở giáo dục đại học.

2. Về hình thức đào tạo từ xa

Đây là hình thức có nhiều ưu điểm và đang phát triển mạnh mẽ ở nhiều nước trên thế giới, tạo điều kiện thuận lợi cho những người đang đi làm, không có điều kiện thời gian đến lớp nhưng có nhu cầu nâng cao trình độ chuyên môn. Triển khai thực hiện Luật giáo dục đại học và Nghị quyết số 44/NQ-CP ngày 09/6/2014 của Chính phủ ban hành Chương trình hành động về đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo, Bộ Giáo dục và Đào tạo đang dự thảo Thông tư về quy chế đào tạo từ xa nhằm nâng cao chất lượng đào tạo của hình thức đào tạo này. Đồng thời, xây dựng Đề án phát triển đào tạo từ xa đến năm 2020 trình Thủ tướng Chính phủ nhằm hỗ trợ các cơ sở đào tạo từ xa phát triển sản xuất học liệu để đào tạo theo chương trình chính quy, đáp ứng yêu cầu ngày càng cao của thị trường lao động.



36. Cử tri tỉnh An Giang kiến nghị: Đề nghị Bộ Giáo dục và Đào tạo xây dựng chương trình học cần ổn định để phụ huynh theo dõi việc học tập của các con em.

Trả lời: Tại công văn số 4094/BGDĐT-VP ngày 05/8/2014

Theo quy định của Luật giáo dục: “Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo ban hành chương trình giáo dục phổ thông; duyệt và quyết định chọn sách giáo khoa để sử dụng chính thức, ổn định, thống nhất trong giảng dạy, học tập ở các cơ sở giáo dục phổ thông”.

Thực hiện Nghị quyết số 40/2000/QH10 của Quốc hội và Chỉ thị số 14/2001/CT-TTg của Thủ tướng Chính phủ, Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo đã ban hành Chương trình giáo dục phổ thông (theo Quyết định số 16/2006/QĐ-BGDĐT ngày 05/5/2006). Chương trình giáo dục và sách giáo khoa giáo dục phổ thông mới được triển khai đại trà từ năm học 2002-2003 và ổn định cho đến nay.

Như vậy, hiện tại, cả nước đang sử dụng chung chương trình và sách giáo khoa giáo dục phổ thông. Đối với các vùng miền, Bộ Giáo dục và Đào tạo đã ban hành các văn bản và tài liệu hướng dẫn thực hiện chương trình, sách giáo khoa phù hợp với các vùng miền, phù hợp với đối tượng, đảm bảo tính thống nhất giữa mục tiêu, nội dung, phương pháp dạy học và phương pháp đánh giá kết quả học tập.

Tháng 7/2014, Bộ Giáo dục và Đào tạo đã tổ chức Hội nghị tổng kết đánh giá việc thực hiện Nghị quyết số 40/2000/QH10 của Quốc hội về đổi mới, chương trình giáo dục phổ thông, trong đó đã tổng kết, đánh giá sâu sắc về những ưu điểm, hạn chế về chất lượng chương trình, sách giáo khoa; việc triển khai đại trà chương trình, sách giáo khoa; điều kiện thực hiện đổi mới chương tình, sách giáo khoa; công tác chỉ đạo thực hiện đổi mới chương trình, sách giáo khoa. Trên cơ sở đó, rút ra những bài học kinh nghiệm; kiến nghị về định hướng đổi mới chương trình, sách giáo khoa giáo dục phổ thông sau năm 2015.

Hiện nay, Bộ Giáo dục và Đào tạo đang chủ động, tích cực triển khai Chương trình hành động của Chính phủ thực hiện Nghị quyết số 29-NQ/TW ngày 04/11/2013 của Ban Chấp hành Trung ương lần thứ 8, khóa XI và Kế hoạch hành động của ngành Giáo dục về đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo, trong đó có việc khẩn trương xây dựng và hoàn thiện Đề án đổi mới chương trình, sách giáo khoa giáo dục phổ thông mới sau năm 2015 để trình Ủy ban Thường vụ Quốc hội, trình Quốc hội trong kỳ họp thứ tám, Quốc hội khóa XIII.



37. Cử tri thành phố Hồ Chí Minh kiến nghị: phản ảnh hiện nay việc dạy thêm, học thêm đã và đang gây bức xúc trong nhân dân nhất là các bậc phụ huynh của học sinh đã không thể cho các em có thời gian vui chơi giải trí, thời gian ăn uống, nghỉ ngơi. Hiện nay, thời lượng học của các em quá nhiều được phụ đạo cho tất cả các trình độ từ học sinh yếu, trung bình, khá và giỏi mà tất cả đều được học chung một lớp, chung một thầy trong cùng một thời gian. Cử tri cho rằng xảy ra tình trạng trên là do chương trình học quá nặng, lượng kiến thức quá nhiều, học sinh không thể tiếp thu hết kiến thức nên xảy ra tình trạng dạy thêm học thêm. Do đó, đề nghị ngành giáo dục quan tâm cần giảm bớt chương trình sách giáo khoa để tiến tới học sâu, thực tế và theo năng khiếu.

Cử tri tỉnh Hưng Yên kiến nghị: Hiện tượng dạy thêm, học thêm ở các cấp học còn diễn ra nhiều nơi. Đề nghị các ngành chức năng thanh tra, kiểm tra.

Cử tri tỉnh An Giang kiến nghị: Tuy Bộ Giáo dục và Đào tạo đã chỉ đạo các cơ sở giáo dục cấm dạy thêm, học thêm, những hiện nay tình trạng này vẫn còn và khá phổ biến ở nhiều nơi...Đề nghị Bộ có biện pháp để chấn chỉnh trong lĩnh vực này, nếu cho phép thì quy định rõ và được cấp phép và có kiểm tra như ngành y tế…

Trả lời: Tại công văn số 3933/BGDĐT-VP ngày 25/ 7/2014

1. Để quản lý và chấn chỉnh tình trạng dạy thêm học thêm tràn lan gây bức xúc trong xã hội thời gian qua, Bộ Giáo dục và Đào tạo đã ban hành Thông tư số 17/2012/TT-BGDĐT ngày 16/5/2012 quy định về dạy thêm học thêm và chỉ đạo các sở giáo dục và đào tạo tham mưu cho lãnh đạo địa phương ban hành các văn bản quy định về dạy thêm học thêm phù hợp với điều kiện thực tế trên địa bàn. Đến nay, có 61/63 tỉnh, thành phố ban hành quy định về dạy thêm, học thêm.

Trong những năm qua, tại Chỉ thị về nhiệm vụ trọng tâm của các năm học đối với giáo dục mầm non, giáo dục phổ thông, giáo dục thường xuyên, Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo luôn chỉ đạo các cấp quản lý giáo dục, các cơ sở giáo dục ở địa phương quán triệt và triển khai nghiêm túc Thông tư số 17/2012/TT-BGDĐT, đồng thời tăng cường công tác quản lý, thanh tra, kiểm tra, chấn chỉnh và xử lý nghiêm các vi phạm quy định về quản lý dạy thêm học thêm. Qua kết quả công tác thanh tra, kiểm tra cho thấy, ở những địa phương có sự vào cuộc quyết liệt của các cấp ủy Đảng, sự phối hợp đồng bộ của chính quyền, các tổ chức đoàn thể cùng với ngành giáo dục (như Quảng Ninh, Hải Phòng, Đà Nẵng, Hà Nội; Thanh Hóa, Nghệ An, Phú Yên, Thành phố Hồ Chí Minh, …) thì hoạt động dạy thêm, học thêm được quản lý ngày một tốt hơn, không nảy sinh những hiện tượng tiêu cực gây bức xúc trong xã hội.

2. Quán triệt sâu sắc Nghị quyết Đại hội XI và các nghị quyết Trung ương về đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo, Bộ Giáo dục và Đào tạo đã và đang triển khai đồng bộ các nhóm giải pháp để nâng cao chất lượng giáo dục phổ thông, đồng thời khắc phục tình trạng dạy thêm, học thêm. Cụ thể như sau:

a) Điều chỉnh nội dung chương trình dạy học: Đã chủ động rà soát, điều chỉnh nội dung chương trình giáo dục phổ thông hiện hành theo hướng tinh giản, loại bỏ những phần trùng lặp, hàn lâm, xa rời thực tế; những nội dung chưa cần thiết và không phù hợp với trình độ, tâm sinh lý lứa tuổi học sinh; Giao quyền, hướng dẫn cho nhà trường và giáo viên chủ động xây dựng kế hoạch dạy học và thực hiện chương trình giáo dục một cách linh hoạt, phù hợp với đối tượng học sinh và thực tiễn địa phương.

b) Chỉ đạo đổi mới phương pháp dạy học và các hoạt động giáo dục: Chỉ đạo đổi mới quản lý hoạt động chuyên môn trong nhà trường thông qua việc tổ chức giao lưu giáo viên dạy giỏi, thi dạy các chủ đề tích hợp; đổi mới sinh hoạt chuyên môn, công tác dự giờ, rút kinh nghiệm và xây dựng chương trình giáo dục của nhà trường; Phối hợp với Hội Khoa học Lịch sử, Hội Nhà văn, Hội Toán học, Hội Vật lý, các cơ sở đào tạo giáo viên, cơ quan quản lý giáo dục và các tổ chức xã hội - nghề nghiệp khác hướng dẫn giáo viên đổi mới phương pháp dạy học theo hướng phát huy tính chủ động, sáng tạo của học sinh; Chỉ đạo tổ chức các hoạt động giáo dục gắn với các di sản văn hóa, lịch sử và thực tiễn địa phương; Tăng cường ứng dụng công nghệ thông tin - truyền thông phục vụ cho đổi mới phương pháp dạy học, theo đó tất cả các trường học ở những nơi có điện đã được kết nối Internet và trong giai đoạn 2014-2016 sẽ tiếp tục nâng cấp đường truyền bằng cáp quang. Thông qua mạng Internet, giáo viên, học sinh trên cả nước, đặc biệt là ở vùng khó khăn, vùng sâu, vùng xa được tiếp cận, chia sẻ kiến thức và nội dung bổ ích, các bài giảng hay của các giáo viên trên khắp mọi miền đất nước; Tổ chức cuộc thi khoa học kỹ thuật dành cho học sinh trung học nhằm kết nối giữa học sinh phổ thông với các nhà khoa học của các trường đại học, các viện nghiên cứu và các doanh nghiệp, các tổ chức xã hội, qua đó ươm mầm tài năng khoa học kỹ thuật cho đất nước. Cuộc thi tuy mới được tổ chức từ năm 2012 nhưng ngày càng thu hút sự quan tâm của đông đảo học sinh, phụ huynh và giáo viên trong cả nước84, đạt được những kết quả khả quan85.

c) Đổi mới thi, kiểm tra, đánh giá theo hướng phát triển năng lực của học sinh: Đổi mới từng bước cách thức kiểm tra, đánh giá kết quả học tập của học sinh theo hướng: Giảm dần yêu cầu học thuộc lòng, chú trọng vận dụng kiến thức tổng hợp bằng cách ra đề thi theo hướng tăng dần các yêu cầu vận dụng sáng tạo, ra đề “mở” gắn với các vấn đề thực tiễn, thời sự của đất nước để học sinh trình bày ý kiến cá nhân trên cơ sở tổng hợp, vận dụng kiến thức được học, qua đó đánh giá đúng chất lượng học tập và năng lực của học sinh; Đổi mới công tác tổ chức thi tốt nghiệp trung học phổ thông theo hướng tăng cường giao quyền chủ động trên cơ sở nâng cao tinh thần tự chủ và chịu trách nhiệm của các sở giáo dục và đào tạo; tạo cơ chế giám sát của xã hội đối với các thành viên của Hội đồng coi thi.

Năm 2014, Bộ Giáo dục và Đào tạo đã thực hiện đổi mới công tác thi tốt nghiệp trung học phổ thông: Học sinh thi 4 môn gồm 2 môn bắt buộc (Toán, Ngữ văn) và 2 môn do học sinh tự chọn trong số các môn Vật lý, Hóa học, Sinh học, Lịch sử, Địa lý và Ngoại ngữ; phối hợp sử dụng kết quả học tập lớp 12 với kết quả thi 4 môn để xét công nhận tốt nghiệp với trọng số 50% + 50%; đề thi tăng cường sử dụng các câu hỏi mở, yêu cầu vận dụng kiến thức tổng hợp để trả lời, môn Ngữ văn có phần đọc hiểu và làm văn, môn Ngoại ngữ có phần thi viết và trắc nghiệm.

Với những đổi mới như trên, kỳ thi tốt nghiệp trung học phổ thông năm 2014 đã nhận được những phản hồi, đánh giá tích cực từ giáo viên, học sinh và xã hội: Về cơ bản chấm dứt tình trạng đem tài liệu vào phòng thi; Việc giảm số môn thi, được tự chọn môn thi cùng với những đổi mới trong cách ra đề thi theo hướng đánh giá năng lực, tăng yêu cầu vận dụng kiến thức gắn với các vấn đề thực tiễn, tạo điều kiện để học sinh thể hiện tình cảm, tư duy riêng đã tạo hứng thú cho học sinh trong học tập và làm bài thi; Việc sử dụng kết quả học tập lớp 12 để tính điểm công nhận tốt nghiệp có tác động tích cực đến việc dạy và học ở lớp 12, khắc phục được tình trạng học đối phó, học lệch.

d) Mở rộng thí điểm áp dụng có chọn lọc một số kinh nghiệm và mô hình giáo dục tiên tiến của một số nước trên thế giới phù hợp với Việt Nam như: Triển khai phương pháp “Bàn tay nặn bột”86 ở 350 trường tiểu học của 63 tỉnh/thành phố và 120 trường THCS của 12 tỉnh/thành phố; Triển khai dự án mô hình trường học mới Việt Nam (VNEN) với định hướng lấy người học làm trung tâm ở 63 tỉnh/thành phố với 1.447 trường tiểu học tham gia. Đang chuẩn bị để triển khai thí điểm mô hình VNEN cấp THCS trong năm học 2014-2015...

3. Về việc tổ chức dạy thêm, học thêm trong nhà trường, ngoài nhà trường đã được Bộ Giáo dục và Đào tạo quy định rõ tại Điều 5, Điều 6 Thông tư số 17/2012/TT-BGDĐT.

38. Cử tri tỉnh Hải Dương kiến nghị: Có ý kiến lo ngại về việc Bộ Giáo dục và Đào tạo khuyến khích các trường không chấm điểm học sinh lớp 1 sẽ gây khó khăn cho các gia đình trong việc quan tâm, dạy dỗ do không kiểm tra, giám sát được tình hình học tập hàng ngày của các cháu.

Trả lời: Tại công văn số 4095/BGDĐT-VP ngày 05/8/2014

Từ năm học 2009- 2010 đến nay, Bộ Giáo dục và Đào tạo đã chỉ đạo đánh giá, xếp loại học sinh tiểu học theo Thông tư số 32/2009/TT-BGDĐT. Theo đó, mục đích đánh giá xếp loại: “… để khuyến khích học sinh học tập chuyên cần, phát huy tính tích cực, năng động, sáng tạo, khả năng tự học của học sinh,…”. Việc đánh giá dựa trên những nguyên tắc: “kết hợp đánh giá định lượng và định tính; kết hợp giữa đánh giá của giáo viên và tự đánh giá của học sinh; thực hiện công khai, công bằng, khách quan, chính xác và toàn diện; đánh giá, xếp loại kết quả đạt được và khả năng phát triển từng mặt của học sinh; coi trọng việc động viên khuyến khích sự tiến bộ của học sinh, không tạo áp lực cho cả học sinh và giáo viên”. Theo Thông tư trên, học sinh Tiểu học chỉ có 3 môn Toán, Tiếng Việt, Tự nhiên xã hội là đánh giá bằng điểm kết hợp với nhận xét, 6 môn còn lại chỉ đánh giá bằng nhận xét.

Trong các năm qua, việc đánh giá, xếp loại cho học sinh tại các trường Tiểu học đảm bảo được các nguyên tắc và mục đích nêu trên, được giáo viên, học sinh, cha mẹ học sinh và dư luận xã hội đồng thuận.

Như vậy, việc không chấm điểm đối với học sinh lớp 1 là cách đánh giá vừa có tính kế thừa vừa có sự đổi mới phù hợp với xu thế chung của thế giới. Bộ Giáo dục và Đào tạo khuyến khích giáo viên không chấm điểm đối với học sinh lớp 1 nhưng đồng thời yêu cầu giáo viên phải thường xuyên theo dõi học sinh trong quá trình học tập để kiểm soát được từng việc làm của học sinh nhằm động viên, uốn nắn và giúp đỡ kịp thời cho các em. Những nhận xét, đánh giá đối với mỗi học sinh ở trên lớp được trao đổi thường xuyên với cha mẹ học sinh.



Quan điểm đánh giá mới của Bộ Giáo dục và Đào tạo hiện nay không chỉ giảm bớt áp lực về điểm số, tránh sự ganh đua thái quá về thành tích mà còn giúp các em phát huy được tích tích cực, tự tin và chủ động trong quá trình học tập. Hơn thế, việc đánh giá bằng nhận xét thường xuyên tạo những giờ học nhẹ nhàng, hứng thú, tích cực, tạo môi trường học tập thoải mái, ngăn chặn việc học trước, không gây áp lực đối với học sinh và giảm áp lực cho cha mẹ học sinh. Đồng thời, tạo điều kiện cho cha mẹ học sinh tham gia hợp tác tích cực hơn với nhà trường trong các hoạt động giáo dục và thay đổi nhận thức về việc cho con đi học trước chương trình lớp 1.

Năm học 2014-2015, Bộ Giáo dục và Đào tạo dự kiến ban hành Thông tư Đánh giá học sinh tiểu học (thay thế Thông tư số 32/TT-BGDĐT ngày 27/10/2009 về đánh giá và xếp loại học sinh tiểu học). Một trong những điểm mới được quy định trong Thông tư là phụ huynh được tham gia đánh giá quá trình và kết quả học tập, rèn luyện, quá trình hình thành và phát triển năng lực, phẩm chất của con em mình. Phụ huynh sẽ được giáo viên hướng dẫn quan sát học sinh học tập, hoạt động giáo dục hoặc cùng tham gia các hoạt động học tập, hoạt động giáo dục với học sinh, quan sát việc ứng dụng kiến thức trong cuộc sống hàng ngày của học sinh, từ đó phụ huynh sẽ có cơ hội quan tâm và nắm rõ tình hình học tập và rèn luyện của con em mình, tích cực hợp tác với nhà trường trong các hoạt động giáo dục học sinh.



39. Cử tri tỉnh Quảng Trị kiến nghị: Nhiều ý kiến cử tri cho rằng hiện nay việc ưu tiên trong thi cử, tuyển dụng con em thương binh, liệt sỹ theo cách cộng điểm ưu tiên là không hợp lý. Cử tri cho rằng nếu muốn ưu tiên cho đối tượng này thì nên ưu tiên bằng hình thức hỗ trợ kinh phí hoặc các hình thức khác nhằm nâng cao chất lượng trong học tập. Có như thế thì mới tạo được sự công bằng, chất lượng thực sự trong thi cử, tuyển dụng.

Cử tri TP Đà Nẵng kiến nghị: Việc quy định cộng điểm ưu tiên trong thi cử đối với các đối tượng là con em gia đình chính sách hiện nay gây nên tình trạng mất công bằng so với các đối tượng khác và đi ngược lại với chính sách thu hút, đào tạo nhân tài. Đề nghị Bộ Giáo dục và Đào tạo xem xét lại quy định này, nhất là trong điều kiện nước ta đã thống nhất, chấm dứt chiến tranh hơn 38 năm nay.

Trả lời: Tại công văn số 3725/BGDĐT-VP ngày 18/ 7/2014

Thực hiện Pháp lệnh số 26/2005/PL-UBTVQH11 ngày 29/6/2005 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội khóa X về Ưu đãi người có công với cách mạng quy định: “các đối tượng là thương binh, bệnh binh, con em thương binh, liệt sĩ được ưu tiên trong tuyển sinh và tạo việc làm, ưu đãi trong giáo dục và đào tạo”, Bộ Giáo dục và Đào tạo đã có hướng dẫn triển khai tại Quy chế tuyển sinh đại học, cao đẳng hệ chính quy như sau: (1) Thí sinh là thương binh, bệnh binh; (2) Thí sinh là con liệt sĩ; (3) Thí sinh là con thương binh, bệnh binh được xếp hạng thương tật, được cộng tối đa là 2,0 điểm vào tổng kết quả thi của thí sinh.

Việc thực hiện ưu tiên cho các đối tượng trên thể hiện quan tâm của Đảng và Nhà nước đối với thân nhân các gia đình chính sách, các đối tượng đã tham gia qua 2 cuộc kháng chiến bảo vệ tổ quốc, thể hiện sự đền ơn, đáp nghĩa đối với người có công với đất nước.

Ngoài ra, các đối tượng chính sách trên, trong quá trình học tập tại các trường, được hưởng các chính sách ưu đãi của nhà nước, như:

- Được miễn giảm học phí trong suốt thời gian học tập;

- Được hưởng học bổng (trợ cấp ưu đãi) trong suốt thời gian học tập;

- Các chính sách hỗ trợ khác như: miễn giảm tiền tàu xe nghỉ hè hàng năm, giáo trình, sách vở học tập,...

Về kiến nghị của cử tri cho rằng nên ưu tiên các đối tượng chính sách này bằng hình thức hỗ trợ kinh phí hoặc các hình thức khác, Bộ Giáo dục và Đào tạo xin tiếp thu và sẽ nghiên cứu, đề xuất các hình thức hỗ trợ phù hợp đối với các đối tượng chính sách, tạo sự công bằng, chất lượng thực sự trong thi cử, tuyển dụng sau khi Quốc hội cho phép sửa đổi, bổ sung hoặc thay thế Pháp lệnh số 26/2005/PL-UBTVQH11 ngày 29/6/2005 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội khóa X.



40. Cử tri tỉnh Quảng Trị kiến nghị: Vừa qua Bộ Giáo dục có tiến hành rà soát và đình chỉ hoạt động của một số trường đại học, cao đẳng nhưng sau một thời gian ngắn lại quyết định cho các trường này hoạt động trở lại, điều này khiến nhiều cử tri băn khoăn, lo lắng về chất lượng đào tạo của các cơ sở này. Cử tri kiến nghị Bộ Giáo dục và Đào tạo cần xem xét kỹ lưỡng vấn đề này để nâng cao chất lượng giáo dục, đào tạo.


tải về 7.28 Mb.

Chia sẻ với bạn bè của bạn:
1   ...   89   90   91   92   93   94   95   96   ...   101




Cơ sở dữ liệu được bảo vệ bởi bản quyền ©hocday.com 2024
được sử dụng cho việc quản lý

    Quê hương