KỲ HỌp thứ TÁM, quốc hội khóa XIII (20/10/2014 – 28/11/2014)



tải về 7.28 Mb.
trang90/101
Chuyển đổi dữ liệu19.07.2016
Kích7.28 Mb.
#2002
1   ...   86   87   88   89   90   91   92   93   ...   101

Trả lời: Tại công văn số 4358/BGDĐT-VP ngày 15/8/2014

Giáo dục và đào tạo trong những năm qua đã đạt được những thành tựu quan trọng, góp phần to lớn vào sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc; Chất lượng giáo dục và đào tạo có tiến bộ. Tuy nhiên, giáo dục đào tạo vẫn còn nặng về trang bị kiến thức, chưa chú trọng đúng mức đến rèn luyện phương pháp tự học, thực hành và ứng dụng thực tiễn cho học sinh; chưa chú ý phát triển các phẩm chất và năng lực cần thiết trong xã hội hiện đại. Vấn đề giáo dục đạo đức, nhân cách người học cũng đã có nhiều cố gắng nhưng chưa thực sự hiệu quả như mong đợi.

Nhận thức được vấn đề này, trong thời gian qua, Bộ Giáo dục và Đào tạo đã chủ động điều chỉnh một số quan điểm chỉ đạo, triển khai đồng bộ các nhóm giải pháp để nâng cao chất lượng giáo dục như:

- Đã chủ động rà soát, điều chỉnh nội dung chương trình giáo dục phổ thông hiện hành theo hướng tinh giản, loại bỏ những phần trùng lặp, hàn lâm, xa rời thực tế; điều chỉnh những nội dung chưa cần thiết và không phù hợp với trình độ, tâm sinh lý lứa tuổi học sinh.

- Giao quyền, hướng dẫn cho nhà trường và giáo viên chủ động xây dựng kế hoạch dạy học và thực hiện chương trình giáo dục một cách linh hoạt, phù hợp với đối tượng học sinh và thực tiễn địa phương.

- Phối hợp với Hội Khoa học Lịch sử, Hội Nhà văn, Hội Toán học, Hội Vật lý, các cơ sở đào tạo giáo viên, cơ quan quản lý giáo dục và các tổ chức xã hội - nghề nghiệp khác hướng dẫn giáo viên đổi mới phương pháp dạy học theo hướng phát huy năng lực, tính chủ động, sáng tạo của học sinh.

- Chỉ đạo tổ chức các hoạt động giáo dục gắn với các di sản văn hóa, lịch sử và thực tiễn địa phương.

- Tổ chức cuộc thi khoa học kỹ thuật dành cho học sinh trung học nhằm kết nối giữa học sinh phổ thông với các nhà khoa học của các trường đại học, các viện nghiên cứu và các doanh nghiệp, các tổ chức xã hội, qua đó ươm mầm tài năng khoa học kỹ thuật cho đất nước

Hiện nay, Bộ Giáo dục và Đào tạo đang chủ động, tích cực triển khai Chương trình hành động của Chính phủ thực hiện Nghị quyết số 29-NQ/TW ngày 04/11/2013 của Ban Chấp hành Trung ương lần thứ 8, khóa XI và Kế hoạch hành động của ngành Giáo dục về đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo với mục tiêu: ”Đổi mới chương trình nhằm phát triển năng lực và phẩm chất người học, hài hòa đức, trí, thể, mỹ; dạy người, dạy chữ và dạy nghề. Đổi mới nội dung giáo dục theo hướng tinh giản, hiện đại, thiết thực, phù hợp với lưa tuổi, trình độ và ngành nghề, tăng thực hành, vận dụng kiến thức vào thực tiễn. Chú trọng giáo dục nhân cách, đạo đức, lối sống, tri thức pháp luật và ý thức công dân...”.

17. Cử tri thành phố Hà Nội và các tỉnh Long An, An Giang kiến nghị: Đề nghị Bộ Giáo dục và Đào tạo không nên thay đổi sách giáo khoa thường xuyên, gây áp lực cho giáo viên và học sinh, gây lãng phí lớn cho xã hội. Đề nghị nghiên cứu và có giải pháp phù hợp.

Trả lời: Tại công văn số 3931/BGDĐT-VP ngày 25/7/2014

Căn cứ vào Chương trình giáo dục phổ thông (ban hành kèm theo Quyết định số 16/2006/QĐ-BGDĐT), Bộ Giáo dục và Đào tạo đã ban hành sách giáo khoa sử dụng thống nhất trong toàn quốc, cho học sinh từ lớp 1 đến lớp 12.

Trong quá trình sử dụng sách giáo khoa, Bộ Giáo dục và Đào tạo có tổ chức nhiều đợt đánh giá chương trình, sách giáo khoa phổ thông. Tuy nhiên, sau các lần rà soát, Bộ Giáo dục và Đào tạo không tổ chức in lại sách giáo khoa mà chỉ đính chính nội dung sách giáo khoa và điều chỉnh nội dung dạy học bằng văn bản chỉ đạo52. Việc thực hiện điều chỉnh nội dung dạy học thực hiện theo nguyên tắc không làm thay đổi chương trình và sách giáo khoa hiện hành.

Như vậy, cho đến nay, Bộ Giáo dục và Đào tạo hướng dẫn đính chính và điều chỉnh nội dung dạy học nhưng vẫn giữ nguyên sách giáo khoa. Bộ sách giáo khoa hiện hành được hoàn thiện, xuất bản hàng năm vẫn giữ ổn định về nội dung, hình thức và giá bán. Tất cả các sách giáo khoa của các năm trước đều có thể sử dụng để giảng dạy và học tập cho những năm sau. Việc in tái bản sách giáo khoa của Nhà xuất bản giáo dục Việt Nam chỉ nhằm mục đích đáp ứng nhu cầu mua sách mới của học sinh.

Từ nhiều năm nay, Bộ Giáo dục và Đào tạo đã chỉ đạo Nhà xuất bản giáo dục Việt Nam và các cấp quản lý giáo dục địa phương đảm bảo cung ứng đầy đủ, đồng bộ sách giáo khoa cho học sinh, đặc biệt có nhiều biện pháp giải quyết cho học sinh nghèo có sách học, không để học sinh nào vì nghèo, không có tiền mua sách giáo khoa phải bỏ học. Đó là:

- Thực hiện chính sách cấp phát miễn phí sách giáo khoa cho học sinh vùng dân tộc ít người bằng kinh phí ngân sách Nhà nước (tất cả học sinh là con em dân tộc ít người được cấp phát sách).

- Nhà xuất bản giáo dục thực hiện cấp miễn phí sách giáo khoa cho con thương binh, liệt sĩ (mỗi học sinh 01 bộ sách giáo khoa).

- Đẩy mạnh phong trào sử dụng lại sách giáo khoa cũ, củng cố tủ sách giáo khoa dùng chung cho học sinh mượn sách...

Bộ Giáo dục và Đào tạo tiếp tục vận động các địa phương đẩy mạnh phong trào quyên góp, tặng sách giáo khoa cũ ủng hộ học sinh nghèo. Như vậy, các học sinh nghèo đã được hỗ trợ về sách giáo khoa, học sinh vùng dân tộc, học sinh con thương binh, liệt sĩ đã được cấp phát sách giáo khoa, đảm bảo cho học sinh trên mọi miền đất nước, trong mọi hoàn cảnh đều có sách giáo khoa để học tập.

Hiện nay, triển khai Nghị quyết số 29-NQ/TW ngày 4/11/2013 của Ban Chấp hành Trung ương 8 khóa XI về đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục, đào tạo, Bộ Giáo dục và Đào tạo đang xây dựng Đề án Đổi mới chương trình, sách giáo khoa giáo dục phổ thông giai đoạn sau 2015 để trình Chính phủ phê duyệt. Chương trình, sách giáo khoa mới sẽ được xây dựng, triển khai theo quy trình thống nhất, trong đó có việc nghiên cứu cơ sở thực tiễn đổi mới chương trình, sách giáo khoa; đánh giá ưu điểm, hạn chế, bất cập và nguyên nhân của ưu điểm và hạn chế, bất cập để rút ra những bài học kinh nghiệm sâu sắc; Tổ chức lấy ý kiến góp ý về dự thảo chương trình, sách giáo khoa của các tổ chức, cá nhân trong đó có các nhà khoa học, các chuyên gia giáo dục tâm huyết với sự nghiệp giáo dục; đánh giá, chỉnh sửa chương trình, sách giáo khoa trong quá trình sử dụng sau khi đã triển khai đại trà ở các cơ sở giáo dục phổ thông.



18. Cử tri thành phố Hà Nội, tỉnh Bình Thuận kiến nghị: Cử tri cho rằng việc đổi mới phương thức tuyển sinh đại học hiện nay thực chất là quay lại phương thức trước đây đã từng thực hiện, mà phương thức đó được đánh giá chưa hợp lý, dễ xảy ra tiêu cực. Đề nghị Bộ Giáo dục và Đào tạo tiếp tục thực hiện phương thức tuyển sinh đại học như những năm gần đây.

Trả lời: Tại công văn số 4655/BGDĐT-VP ngày 28/8/2014

Luật giáo dục đại học quy định phương thức tuyển sinh của các trường đại học, cao đẳng gồm: Thi tuyển, xét tuyển hoặc kết hợp giữa thi tuyển và xét tuyển. Cơ sở giáo dục đại học tự chủ quyết định phương thức tuyển sinh và chịu trách nhiệm về công tác tuyển sinh.

Năm 2014, Bộ Giáo dục và Đào tạo ban hành Thông tư số 06/2014/TT-BGDĐT sửa đổi, bổ sung một số điều của Quy chế tuyển sinh đại học, cao đẳng hệ chính quy. Theo đó: Các trường có thể tổ chức tuyển sinh theo kỳ thi chung do Bộ Giáo dục và Đào tạo tổ chức, đề thi do Bộ biên soạn, dùng chung cho các trường; Các trường có thể tổ chức tuyển sinh riêng nhưng phải đảm bảo các yêu cầu: Phù hợp với quy định của Luật Giáo dục đại học và mục tiêu đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo; Hình thức, nội dung tuyển sinh phải phù hợp với ngành đào tạo của nhà trường và chương trình giáo dục phổ thông; không gây phức tạp cho xã hội và tốn kém cho thí sinh; Các tiêu chí đảm bảo chất lượng nguồn tuyển rõ ràng; Được dư luận đồng tình ủng hộ.

Quy chế cũng quy định các trường tổ chức tuyển sinh riêng phải thực hiện một số nội dung: Không để phát sinh hiện tượng các tổ chức và cá nhân là cán bộ, công chức, viên chức, nhà giáo của nhà trường tổ chức luyện thi; Tạo điều kiện thuận lợi tối đa cho thí sinh, không để phát sinh tiêu cực, đảm bảo công bằng, công khai, minh bạch; Phối hợp với các cơ quan có liên quan tổ chức tốt công tác kiểm tra, giám sát, đảm bảo kỳ thi diễn ra an toàn, nghiêm túc; Công bố rộng rãi phương thức tuyển sinh của nhà trường để thí sinh, phụ huynh và xã hội giám sát; Công khai kết quả tuyển sinh trên trang thông tin điện tử của trường và các phương tiện thông tin đại chúng khác.

Như vậy, triển khai Luật giáo dục đại học, Bộ Giáo dục và Đào tạo đang từng bước thực hiện đổi mới công tác tuyển sinh theo hướng giao quyền tự chủ và tự chịu trách nhiệm cho các cơ sở giáo dục đại học chứ không phải quay lại phương thức tuyển sinh cũ.

Năm 2014, có 62 trường đại học, cao đẳng tổ chức tuyển sinh riêng theo phương thức xét tuyển.

Để nhằm đảm bảo tính liên tục của lộ trình đổi mới thi, chuyển từ kiểm tra kiến thức sang đánh giá năng lực người học, với mục đích xét công nhận tốt nghiệp trung học phổ thông và là căn cứ để các cơ sở giáo dục đại học sử dụng trong tuyển sinh, Bộ Giáo dục và Đào tạo đã công bố dự thảo Phương án tổ chức Kỳ thi trung học phổ thông quốc gia (thay Kỳ thi tốt nghiệp trung học phổ thông và Kỳ thi tuyển sinh đại học, cao đẳng) và đang lấy ý kiến góp ý của các chuyên gia, các cơ sở giáo dục, đào tạo và của toàn xã hội để hoàn thiện Phương án, báo cáo Chính phủ để triển khai áp dụng.

19. Cử tri tỉnh Gia Lai kiến nghị: Đề nghị Bộ nghiên cứu, có giải pháp phù hợp trong việc tổ chức các kì thi tuyển sinh đại học, cao đẳng, tránh tình trạng các em học sinh phải đi lại quá xa nơi cư trú (như Đà Nẵng, thành phố Hồ Chí Minh, ...) để thi, gây tốn kém tiền của nhân dân và ảnh hưởng đến tâm lý, sức khỏe thí sinh.

Trả lời: Tại công văn số 4672/BGDĐT-VP ngày 28/8/2014

Theo quy định tuyển sinh đại học, cao đẳng, học sinh có nguyện vọng học trường đại học hoặc cao đẳng nào thì phải đến trường đó để dự thi. Tuy nhiên, để giảm áp lực cho các thành phố lớn, nơi tập trung nhiều các trường đại học, đồng thời giúp cho các em học sinh không phải đi lại quá xa, trong những năm qua, Bộ Giáo dục và Đào tạo có thành lập các cụm thi quốc gia, bao gồm:

- Cụm thi tại thành phố Hải Phòng: Dành cho những học sinh có hộ khẩu thường trú tại tỉnh Quảng Ninh và thành phố Hải Phòng có nguyện vọng thi vào các trường đại học đóng tại khu vực Hà Nội.

- Cụm thi tại thành phố Vinh: Dành cho học sinh thi có hộ khẩu thường trú tại 4 tỉnh: Nghệ An, Hà Tĩnh, Quảng Bình, Quảng Trị, có nguyện vọng thi vào các trường đại học đóng tại khu vực Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh.

- Cụm thi tại thành phố Quy Nhơn: Dành cho học sinh thi có hộ khẩu thường trú tại 6 tỉnh Bình Định, Phú Yên, Gia Lai, Kon Tum, Quảng Ngãi, Quảng Nam có nguyện vọng thi vào các trường đại học đóng tại khu vực Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh.

- Cụm thi tại thành phố Cần Thơ: Dành cho học sinh có hộ khẩu thường trú tại 9 tỉnh: Cà Mau, Bạc Liêu, Kiên Giang, An Giang, Vĩnh Long, Hậu Giang, Trà Vinh, Sóc Trăng, thành phố Cần Thơ có nguyện vọng thi vào các trường đại học đóng tại khu vực thành phố Hồ Chí Minh.



20. Cử tri tỉnh Trà Vinh kiến nghị: Cần tăng cường giáo dục pháp luật và đạo đức trong các nhà trường, vì hiện nay đang phát sinh những biểu hiện về suy thoái đạo đức cũng như tình trạng vi phạm pháp luật của học sinh, sinh viên đang là nỗi lo cho gia đình, nhà trường và xã hội.

Cử tri TP Hồ Chí Minh kiến nghị: Đề nghị cần chú trọng công tác giáo dục đạo đức trong hệ thống trường tiểu học, trung học. Riêng đối với các trường cao đẳng, đại học nên có chương trình giáo dục về phòng chống tham nhũng và lãng phí.

Trả lời: Tại công văn số 4674/BGDĐT-VP ngày 28/ 8/2014

1. Về công tác giáo dục đạo đức trong nhà trường

Trong những năm qua, Bộ Giáo dục và Đào tạo đã ban hành nhiều văn bản chỉ đạo về công tác giáo dục đạo đức cho học sinh, sinh viên53.

Bộ Giáo dục và Đào tạo đã và đang chỉ đạo các nhà trường tăng cường công tác giáo dục đạo đức, lối sống cho học sinh, sinh viên thông qua các hoạt động cụ thể sau đây:

a) Giáo dục đạo đức thông qua chương trình giảng dạy

- Chương trình giảng dạy: Từ năm học 2009 – 2010, Bộ Giáo dục và Đào tạo đã triển khai việc giảng dạy tích hợp nội dung “Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh” vào nhà trường từ cấp học mầm non, phổ thông đến các trường trung cấp chuyên nghiệp; Triển khai giảng dạy đại trà trong toàn quốc ở tất cả các lớp từ tiểu học đến trung học cơ sở và trung học phổ thông bộ tài liệu hướng dẫn “Giáo dục kỹ năng sống trong các môn học”;

- Phương pháp giảng dạy: Bộ Giáo dục và Đào tạo đã triển khai việc đánh giá nội dung, chương trình và hướng dẫn các nhà trường đẩy mạnh việc đổi mới phương pháp giảng dạy các môn học: Đạo đức, Giáo dục công dân và môn Pháp luật cho phù hợp với tình hình thực tiễn. Trong các giờ dạy, dành thời gian hội thảo, thảo luận ở trên lớp là 30% thời lượng môn học; Chú trọng việc sử dụng công nghệ thông tin trong các bài giảng về đạo đức, giáo dục công dân, lịch sử, nhằm tạo sự sinh động, hấp dẫn, tiếp thu một cách tự nhiên; Chú trọng thay đổi phương thức kiểm tra, đánh giá kết quả học tập của học sinh (ra đề theo hướng “mở”, gắn với thực tiễn cuộc sống, xây dựng ma trận câu hỏi, đánh giá quá trình, học sinh tự đánh giá và đánh giá lẫn nhau, ...). Ngày 12/12/2011, Bộ Giáo dục và Đào tạo ban hành Thông tư số 58/2011/TT-BGDĐT về Quy chế đánh giá, xếp loại học sinh trung học cơ sở, trung học phổ thông, trong đó có quy định việc đánh giá bằng nhận xét sự tiến bộ về thái độ, hành vi của học sinh theo nội dung môn học Giáo dục công dân, phối hợp với giáo viên chủ nhiệm sau mỗi học kỳ tham khảo khi xếp loại hạnh kiểm của học sinh.

b) Giáo dục đạo đức, lối sống thông qua các hoạt động ngoại khóa, ngoài giờ lên lớp:

Vào đầu năm học mới, Bộ Giáo dục và Đào tạo ban hành văn bản chỉ đạo các trường phổ thông, các trường đại học, cao đẳng tổ chức “Tuần sinh hoạt tập thể”, “Tuần sinh hoạt công dân- học sinh, sinh viên” đầu khóa. Trong năm học, tổ chức các hoạt động ngoài giờ lên lớp phù hợp với trình độ của học sinh theo từng chủ đề, thời gian cụ thể54 với các hình thức tổ chức sinh động, phong phú như: Tọa đàm, biểu diễn tiểu phẩm, đố vui ..., tạo không khí thi đua giữa các tập thể lớp và phát huy tính chủ động, tích cực của học sinh tham gia; Đẩy mạnh hoạt động “Xây dựng trường học thân thiện, học sinh tích cực” (với các nội dung: Xây dựng trường lớp xanh, sạch, đẹp an toàn; Đổi mới phương pháp dạy và học; Giáo dục kỹ năng sống; Tổ chức các hoạt động tập thể vui tươi lành mạnh; Chăm sóc, phát huy giá trị của các di tích lịch sử văn hóa).

Ngoài các hoạt động ngoài giờ lên lớp được quy định theo chương trình, các nhà trường chú trọng tổ chức các hoạt động giáo dục truyền thống, hướng về cội nguồn, tổ chức các hoạt động vui chơi văn hóa văn nghệ, thể dục thể thao để giáo dục toàn diện cho học sinh;

c) Tăng cường mối quan hệ giữa nhà trường, gia đình và các cơ quan, đoàn thể trong việc giáo dục đạo đức học đường

Bộ Giáo dục và Đào tạo tiếp tục chỉ đạo thực hiện Chỉ thị số 71/2008/CT-BGDĐT ngày 23/12/2008 về tăng cường phối hợp nhà trường, gia đình và xã hội trong công tác giáo dục trẻ em, học sinh, sinh viên.

Các nhà trường chủ động và tăng cường sự phối hợp nhà trường, gia đình và chính quyền địa phương, trong đó chú trọng vai trò của Ban đại diện cha mẹ học sinh trong công tác quản lý, giáo dục học sinh; thiết lập các kênh thông tin như gửi tin nhắn qua tổng đài, Sổ tay liên lạc điện tử để kịp thời thông tin đến phụ huynh về tình hình học tập và kết quả rèn luyện của học sinh. Tổ chức các hoạt động văn hóa, văn nghệ thể thao toàn quốc để học sinh, sinh viên tham gia.

Tăng cường phát huy vai trò, trách nhiệm của các tổ chức, đoàn thể trong trường: Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh, Hội Sinh viên, Đội Thiếu niên tiền phong, Công đoàn và các tổ chức khác trong việc giáo dục tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, pháp luật, kỹ năng cho học sinh, sinh viên.

Đẩy mạnh các hoạt động phối hợp liên ngành với Bộ Công an (thực hiện Thông tư liên tịch số 34/2009/TTLT-BGDĐT-BCA ngày 20/11/2009), Bộ Văn hoá, Thể thao và Du lịch, Bộ Y tế, Trung ương Đoàn TNCS Hồ Chí Minh, Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam, Hội Khuyến học Việt Nam..., huy động các lực lượng xã hội cùng tham gia quản lý học sinh, sinh viên; Tăng cường công tác quản lý thông tin đại chúng, thay đổi cách tiếp cận với thông tin xấu, những thông tin nhạy cảm, ảnh hưởng đến nhận thức của học sinh, sinh viên;

Thực hiện Nghị quyết số 29-NQ/TW của Ban Chấp hành Trung ương 8 khóa XI về đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo, Bộ Giáo dục và Đào tạo đang tích cực triển khai đổi mới Chương trình và sách giáo khoa giáo dục phổ thông sau 2015, trong đó, chú trọng nội dung môn Đạo đức và Giáo dục công dân và việc giảng dạy đạo đức, lối sống cho học sinh thông qua việc giáo dục chuyển đổi hành vi và trải nghiệm cho học sinh, chú trọng giáo dục nhân cách, đạo đức, lối sống, tri thức pháp luật và ý thức công dân nhằm phát triển năng lực và phẩm chất học sinh.



2. Về công tác giáo dục pháp luật trong nhà trường

Thực hiện Chỉ thị số 32-CT/TW ngày 09/12/2003 của Ban Bí thư Trung ương Đảng về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng trong công tác phổ biến, giáo dục pháp luật, nâng cao ý thức chấp hành pháp luật của cán bộ, nhân dân; Quyết định số 1928/QĐ-TTg ngày 20/11/2009 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Đề án Nâng cao chất lượng công tác phổ biến, giáo dục pháp luật trong nhà trường; Luật phổ biến, giáo dục pháp luật và các văn bản pháp luật có liên quan, từ năm 2011 đến nay, Bộ Giáo dục và Đào tạo đã ban hành, phối hợp ban hành nhiều văn bản liên quan đến công tác phổ biến, giáo dục pháp luật trong nhà trường55.

Hiện nay, Bộ Giáo dục và Đào tạo đang chỉ đạo các sở giáo dục và đào tạo, các cơ sở giáo dục trong hệ thống giáo dục quốc dân thực hiện một số nhiệm vụ trọng tâm như: Tuyên truyền, phổ biến kịp thời đến cán bộ, công chức, viên chức, nhà giáo, người học Hiến pháp 1992 (sửa đổi), Nghị quyết 29-NQ/TW của Ban Chấp hành Trung ương 8 khóa XI về đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo; Chương trình hành động của Chính phủ thực hiện Nghị quyết số 29-NQ/TW và Kế hoạch hành động của Ngành giáo dục triển khai thực hiện Chương trình hành động của Chính phủ thực hiện Nghị quyết số 29-NQ/TW về đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo; Tiếp tục triển khai Kế hoạch thực hiện Đề án “Nâng cao chất lượng công tác phổ biến, giáo dục pháp luật trong nhà trường giai đoạn 2013-2016”; Tổ chức phổ biến kịp thời, thường xuyên các quy định pháp luật mới về giáo dục và các quy định pháp luật phù hợp với chức năng, nhiệm vụ của từng đối tượng thuộc phạm vi quản lý của đơn vị; Tổ chức hội thi học sinh giỏi, giáo viên dạy giỏi môn giáo dục công dân. Tăng cường chỉ đạo điểm về công tác phổ biến, giáo dục pháp luật. Chỉ đạo triển khai Chương trình phổ biến, giáo dục ngoại khóa do Bộ Giáo dục và Đào tạo ban hành. Chỉ đạo đổi mới phương pháp nhằm nâng cao chất lượng giảng dạy các kiến thức pháp luật trong chương trình chính khóa; tăng cường nội dung phổ biến, giáo dục pháp luật trong các chương trình ngoại khóa và các hoạt động ngoài giờ lên lớp. Tổ chức thực hiện “Ngày pháp luật” và các cuộc thi tìm hiểu pháp luật...

3. Việc đưa chương trình giáo dục về phòng chống tham nhũng và lãng phí đối với các trường đại học, cao đẳng

Thực hiện Luật số 14/2012/QH13 ngày 20/6/2012 của Quốc hội về phổ biến, giáo dục pháp luật; Chỉ thị số 32-CT/TW ngày 09/12/2003 của Ban Bí thư Trung ương Đảng về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng trong công tác phổ biến, giáo dục pháp luật, nâng cao ý thức chấp hành pháp luật của cán bộ, nhân dân; Quyết định số 1928/QĐ-TTg ngày 20/11/2009 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Đề án Nâng cao chất lượng công tác phổ biến, giáo dục pháp luật trong nhà trường và các văn bản pháp luật có liên quan; Quyết định số 137/2009/QĐ-TTg ngày 02/12/2009 Phê duyệt Đề án đưa nội dung phòng, chống tham nhũng vào chương trình giáo dục, đào tạo, bồi dưỡng, triển khai Chỉ thị số 10/CT-TTg ngày 12/6/2013 của Thủ tướng Chính phủ, từ năm học 2013-2014, Bộ Giáo dục và Đào tạo đã đưa nội dung phòng chống tham nhũng vào giảng dạy tại các cơ sở giáo dục, đào tạo (trung học phổ thông, trung cấp chuyên nghiệp, cao đẳng, đại học).



21. Cử tri Thành phố Hà Nội kiến nghị: cho rằng hiện nay, chất lượng giáo dục và đào tạo vẫn chưa ngang tầm với sự phát triển của xã hội, vẫn còn bộc lộ những mặt hạn chế nhất định như: Công tác quản lý phát hành sách giáo khoa chưa hiệu quả, tình trạng sách in lậu dẫn đến sai sót về kiến thức cơ bản, sách tham khảo quá nhiều; chất lượng đào tạo chưa đáp ứng yêu cầu xã hội. Đề nghị Bộ Giáo dục và Đào tạo có các giải pháp đồng bộ, hiệu quả khắc phục tình trạng trên.

Cử tri tỉnh Bến Tre, Ninh Thuận kiến nghị: Về chiến lược cải cách giáo dục và đào tạo nước ta còn nhiều bất cập, chưa thực sự thực thi trên thực tế như: sách giáo khoa thì thường xuyên thay đổi, học sinh học sau không tận dụng được sách cũ đã giảng dạy cùng khối lớp của năm học trước để học gây lãng phí rất lớn, trường đại học, cao đẳng mở tràn lan, chiến lược đào tạo không hợp lý, sinh viên ra trường không tìm được việc làm. Cử tri kiến nghị Bộ Giáo dục và Đào tạo cần có chiến lược đào tạo hợp lý hơn để hạn chế đến mức thấp nhất những bất cập của giáo dục và đào tạo như hiện nay.

Trả lời: Tại công văn số 4656/BGDĐT-VP ngày 28/8/2014

1. Về công tác quản lý, phát hành sách giáo khoa, sách tham khảo

1.1. Về quản lý xuất bản sách giáo khoa: Theo Luật Giáo dục, hiện nay Bộ Giáo dục và Đào tạo chịu trách nhiệm tổ chức biên soạn, thẩm định và ban hành chương trình, sách giáo khoa giáo dục phổ thông để sử dụng thống nhất trong toàn quốc.

Việc xuất bản, in ấn và phát hành sách giáo khoa hiện nay do Nhà xuất bản Giáo dục Việt Nam thực hiện. Bộ Giáo dục và Đào tạo đã chỉ đạo Nhà xuất bản Giáo dục Việt Nam in đầy đủ danh mục bộ sách giáo khoa của từng lớp và giá bán thống nhất trên toàn quốc trên trang bìa sau của mỗi cuốn sách giáo khoa để thông tin cho phụ huynh học sinh. Nhìn chung, sách giáo khoa đảm bảo chất lượng về nội dung và hình thức, có giá bán hợp lý.

Trong những năm qua, Bộ Giáo dục và Đào tạo tổ chức nhiều đợt đánh giá chương trình, sách giáo khoa phổ thông. Tuy nhiên, sau các lần rà soát, Bộ Giáo dục và Đào tạo không tổ chức in lại sách giáo khoa mà chỉ đính chính nội dung sách giáo khoa và điều chỉnh nội dung dạy học bằng văn bản chỉ đạo56. Bộ sách giáo khoa hiện hành được hoàn thiện, xuất bản hàng năm vẫn giữ ổn định về nội dung, hình thức và giá bán. Tất cả các sách giáo khoa của các năm trước đều có thể sử dụng để giảng dạy và học tập cho những năm sau. Việc in tái bản sách giáo khoa của Nhà xuất bản giáo dục Việt Nam chỉ nhằm mục đích đáp ứng nhu cầu mua sách mới của học sinh.

Từ nhiều năm nay, Bộ Giáo dục và Đào tạo thực hiện chính sách cấp phát miễn phí sách giáo khoa cho học sinh vùng dân tộc ít người bằng kinh phí ngân sách Nhà nước; Cấp miễn phí sách giáo khoa cho con thương binh, liệt sĩ (mỗi học sinh 01 bộ sách giáo khoa); Đẩy mạnh phong trào sử dụng lại sách giáo khoa cũ, củng cố tủ sách giáo khoa dùng chung cho học sinh mượn sách trong các nhà trường...

1.2. Về quản lý xuất bản sách tham khảo: Theo Luật Xuất bản, các nhà xuất bản có đủ năng lực được phép tổ chức biên soạn, in ấn, phát hành sách tham khảo và chịu trách nhiệm hoàn toàn về các xuất bản phẩm của mình, chịu sự quản lý nhà nước của Bộ Thông tin và Truyền thông (hiện có gần 40 nhà xuất bản đang thực hiện việc này). Bộ Giáo dục và Đào tạo có trách nhiệm quản lý việc sử dụng các loại sách trong nhà trường.

Để tăng cường việc quản lý, sử dụng sách tham khảo trong trường học, Bộ Giáo dục và Đào tạo đã ban hành các văn bản hướng dẫn các cơ sở giáo dục quản lý và sử dụng sách tham khảo57; chỉ đạo các cơ sở giáo dục xây dựng thư viện, tủ sách dùng chung và tăng cường bồi dưỡng nghiệp vụ cho đội ngũ nhân viên thư viện.

Trước thực tế trên thị trường xuất hiện ngày càng nhiều các loại sách tham khảo không đảm bảo chất lượng (sai lệch về nội dung khoa học, thiếu tính thẩm mỹ, tính giáo dục, tính sư phạm, sai lệch về thuần phong mỹ tục Việt Nam...), ngày 07/7/2014, Bộ Giáo dục và Đào tạo đã ban hành Thông tư số 21/2014/TT-BGDĐT quy định về quản lí và sử dụng xuất bản phẩm tham khảo trong các cơ sở giáo dục mầm non, giáo dục phổ thông và giáo dục thường xuyên. Thông tư quy định về tiêu chí và quy trình lựa chọn xuất bản phẩm tham khảo để sử dụng trong các cơ sở giáo dục; trách nhiệm và quyền hạn của giáo viên, cán bộ quản lý giáo dục các cấp trong việc lựa chọn, quản lý, sử dụng xuất bản phẩm tham khảo; tư vấn, hướng dẫn phụ huynh học sinh trong việc sử dụng sách tham khảo.

Đồng thời, Bộ Giáo dục và Đào tạo đang chủ động phối hợp với Bộ Thông tin và Truyền thông dự thảo Thông tư liên tịch quy định về việc xuất bản, phát hành xuất bản phẩm tham khảo đối với giáo dục mầm non, giáo dục phổ thông và giáo dục thường xuyên nhằm quản lý tốt hơn việc này.

2. Về các giải pháp nâng cao chất lượng đào tạo, đáp ứng yêu cầu xã hội và giải quyết việc làm cho sinh viên tốt nghiệp ra trường

Trong những năm qua, Bộ Giáo dục và Đào tạo đã triển khai thực hiện nhiều chương trình, giải pháp đồng bộ về giáo dục và đào tạo, từng bước nâng cao chất lượng, đáp ứng nhu cầu đào tạo nguồn nhân lực phục vụ sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Tuy nhiên, chất lượng giáo dục, đặc biệt chất lượng đào tạo nguồn nhân lực chưa đáp ứng yêu cầu xã hội cũng như yêu cầu của sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá và hội nhập quốc tế. Sinh viên tốt nghiệp ra trường không tìm được việc làm.

Nguyên nhân cơ bản là: Trong thời gian dài, mô hình phát triển giáo dục đại học mới chú trọng về tăng số lượng, chưa chú ý đúng mức đến vấn đề chất lượng và các điều kiện đảm bảo chất lượng đáp ứng nhu cầu xã hội. Thành lập nhiều trường đại học, cao đẳng trong giai đoạn 2006-2011; Các cơ sở giáo dục đại học tổ chức đào tạo theo khả năng của mình, chưa chú ý đến nhu cầu nhân lực của xã hội, địa phương; Chương trình đào tạo, nội dung đào tạo nặng về truyền thụ lý thuyết một chiều, nhẹ về thực hành, chưa chú trọng rèn luyện các kỹ năng mềm (làm việc nhóm, ứng dụng công nghệ thông tin, nâng cao trình độ ngoại ngữ và hoạt động xã hội) cho người học; Thiếu cơ chế và chính sách đủ mạnh để thu hút nguồn lực xã hội đầu tư cho phát triển giáo dục đại học trong khi nguồn lực từ ngân sách nhà nước vừa thiếu vừa dàn trải, mang tính bình quân, không gắn kết với chất lượng đào tạo của nhà trường, không tạo động lực để nhà trường nâng cao chất lượng và đáp ứng nhu cầu thị trường lao động.

Bên cạnh đó, thị trường lao động của Việt Nam còn sơ khai, chưa có đủ thể chế để hoạt động hiệu quả; Các trung tâm hỗ trợ tìm kiếm việc làm, sàn giao dịch việc làm… tuy đã được thành lập ở các địa phương, có nhiều cố gắng trong hoạt động nhưng chưa trở thành kênh kết nối chặt chẽ, thường xuyên giữa các nhà sử dụng lao động, cơ sở đào tạo và người lao động. Các nhà sử dụng lao động chưa tích cực, chủ động phối hợp với các nhà trường để đặt hàng đào tạo; người lao động, trong đó có sinh viên tốt nghiệp chưa có thói quen tìm việc trên các sàn giao dịch việc làm; Việc quy hoạch phát triển nhân lực của các địa phương, bộ/ngành còn mang tính hình thức, chưa sát thực tế, dẫn đến công tác thông tin và dự báo (tăng, giảm) nhu cầu sử dụng lao động (theo ngành nghề và trình độ đào tạo) gặp nhiều khó khăn, chưa được thực hiện thường xuyên và kịp thời.

Cùng với việc nền kinh tế chuyển sang hoạt động theo cơ chế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, nhu cầu về nhân lực trên thị trường lao động rất đa dạng, thuộc các thành phần kinh tế khác nhau và thường xuyên thay đổi theo tình hình phát triển kinh tế của đất nước. Thực tế những năm vừa qua, kinh tế nước ta gặp nhiều khó khăn, tốc độ tăng trưởng chậm lại, nhiều doanh nghiệp phải giải thể, nên nhu cầu nhân lực giảm mạnh. Trong xã hội, vẫn tồn tại tâm lý “chuộng bằng cấp”; còn phổ biến thói quen “đi xin việc”, “tìm việc” sau khi tốt nghiệp ra trường vào các cơ quan nhà nước, ở tại các thành phố lớn mà chưa có ý chí, hoài bão “tự thân lập nghiệp”, tự mình tạo ra việc làm cho bản thân và xã hội.

Để từng bước khắc phục những hạn chế, yếu kém nhằm nâng cao chất lượng đào tạo, góp phần giải quyết việc làm cho sinh viên, trong thời gian qua, Bộ Giáo dục và Đào tạo đã triển khai một số việc như sau:

- Thay đổi mô hình phát triển giáo dục đại học từ chú trọng phát triển số lượng sang mô hình chú trọng chất lượng và hiệu quả, cụ thể: Chủ động rà soát và kiến nghị Thủ tướng Chính phủ điều chỉnh mạng lưới các cơ sở giáo dục đại học cho phù hợp với quy hoạch phát triển nhân lực Việt Nam, định hướng quy hoạch và phát triển kinh tế - xã hội và nhu cầu nhân lực của các địa phương58; Đề nghị các bộ, ngành và địa phương rà soát lại mạng lưới các cơ sở giáo dục đại học; Phối hợp với các bộ, ngành để mở ngành mới đáp ứng nhu cầu xã hội59; Phối hợp với các bộ, ngành, địa phương tổ chức thẩm định thực tế các điều kiện thành lập trường một cách chặt chẽ, không để tình trạng trường mới thành lập không đảm bảo điều kiện cơ sở vật chất, đất đai, đội ngũ giảng viên vẫn được hoạt động đào tạo60.

- Thực hiện đổi mới công tác xác định chỉ tiêu tuyển sinh đại học (chính quy, vừa học vừa làm), thạc sĩ, tiến sĩ trên cơ sở các tiêu chí đảm bảo chất lượng đào tạo (đội ngũ giảng viên cơ hữu, diện tích sàn xây dựng)61; điều chỉnh quy mô đào tạo của từng nhóm ngành cho phù hợp với nhu cầu nhân lực của từng lĩnh vực kinh tế và các địa phương62.

- Chỉ đạo các trường đổi mới công tác xây dựng chương trình đào tạo trong đó có sự tham gia của các nhà quản lý, các nhà sử dụng lao động; xây dựng và công bố chuẩn đầu ra theo từng ngành đào tạo. Triển khai xây dựng một số trường đại học xuất sắc, chương trình tiên tiến, chương trình đào tạo kỹ sư chất lượng cao, chương trình đào tạo kỹ sư theo định hướng nghề nghiệp ứng dụng (POHE)...

- Chỉ đạo triển khai rộng rãi đào tạo theo tín chỉ ở các cơ sở giáo dục đại học, tạo điều kiện cho sinh viên chủ động thực hiện chương trình học tập của mình, qua đó các nhà trường đổi mới công tác quản lý, các giảng viên đổi mới phương pháp giảng dạy.

- Đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin trong nhà trường; Yêu cầu các trường xây dựng website riêng và thường xuyên cập nhật, phát triển các nội dung mang tính chuyên môn, học thuật để tuyên truyền, trao đổi thông tin và xây dựng cơ sở dữ liệu, học liệu.

- Xây dựng và phát triển đội ngũ giảng viên, cán bộ quản lý trong các trường đại học, cao đẳng: Chỉ đạo các cơ sở giáo dục đại học tăng cường đào tạo giảng viên có trình độ tiến sĩ63; Tham mưu ban hành một số chính sách có tính chất đột phá cho đội ngũ giảng viên64. Đồng thời, Bộ đã xây dựng cơ sở dữ liệu về đội ngũ giảng viên cơ hữu của từng trường theo ngành đào tạo làm cơ sở quản lý và sắp tới sẽ công bố công khai cơ sở dữ liệu này để xã hội giám sát.

- Thành lập hai trung tâm kiểm định chất lượng giáo dục thuộc Đại học Quốc gia Hà Nội và Đại học Quốc gia thành phố Hồ Chí Minh, công khai kết quả kiểm định chất lượng đào tạo; Tham gia mạng lưới kiểm định khu vực và quốc tế 65.

- Tiếp tục công tác thanh tra, kiểm tra, rà soát các điều kiện đảm bảo chất lượng của các cơ sở đào tạo, các ngành đào tạo; kiên quyết dừng tuyển sinh những cơ sở không đảm bảo chất lượng66; phối hợp với các địa phương để giải quyết khó khăn cho các nhà đầu tư (đất đai, giảng viên cơ hữu…).

- Đã trình Thủ tướng Chính phủ đề án Thí điểm tự chủ tài chính cho 4 trường đại học và đang xây dựng đề án Đổi mới cơ chế tính giá dịch vụ cho các trường đại học, cao đẳng và trung cấp chuyên nghiệp, làm cơ sở đổi mới cơ chế quản lý tài chính trong thời gian tới theo hướng tự chủ về tài chính; tính đúng, tính đủ chi phí đào tạo, điều chỉnh mức học phí, thực hiện cơ chế đặt hàng đào tạo để đảm bảo chất lượng và đào tạo theo nhu cầu xã hội.

- Thành lập Trung tâm Hỗ trợ đào tạo và Cung ứng nhân lực để điều tra, phân tích và dự báo nhu cầu nhân lực, tăng cường sự phối hợp gắn kết giữa các cơ sở đào đạo với các đơn vị sử dụng lao động.

- Phối hợp với các bộ, ngành, địa phương chỉ đạo các cơ sở đào tạo triển khai mạnh mẽ đào tạo theo nhu cầu xã hội, tạo sự gắn kết giữa các cơ sở đào tạo với các đơn vị sử dụng lao động67; Xây dựng tiêu chí và chỉ số đánh giá công tác đào tạo đáp ứng nhu cầu xã hội, cơ chế phối hợp giữa nhà trường và doanh nghiệp trong đào tạo và sử dụng nhân lực.

Với những giải pháp đã áp dụng nêu trên, từ năm 2011 quy mô tuyển sinh đại học đã dần đi vào thế ổn định (không tăng trưởng nóng như trước đây), chất lượng đào tạo đại học có có sự chuyển động tiến bộ.

Theo chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ, thời gian tới Bộ Giáo dục và Đào tạo cùng các bộ, ngành và các địa phương sẽ triển khai mạnh mẽ một số giải pháp sau:

- Đẩy mạnh xã hội hóa giáo dục theo hướng: Xây dựng cơ chế đầu tư, ưu đãi về đất đai, vốn để hỗ trợ các cơ sở ngoài công lập; Xây dựng cơ chế cho thuê cơ sở vật chất ở các cơ sở công lập sau khi quy hoạch, sắp xếp lại mạng lưới trường học; Xây dựng chính sách đảm bảo sự công bằng về hỗ trợ cho nhà giáo và sinh viên trong các cơ sở đào tạo, không phân biệt trường công lập và trường ngoài công lập.

- Tạo môi trường đầu tư thuận lợi, phát triển kinh tế để tăng việc làm; hoàn thiện các thể chế, các yếu tố của thị trường lao động; tăng cường công tác dự báo và cung cấp thông tin về thị trường lao động;

- Thực hiện quy hoạch nguồn nhân lực sát thực tế, theo từng giai đoạn, theo ngành nghề và theo trình độ đào tạo… để làm cơ sở cho việc quy hoạch hệ thống trường, quy hoạch ngành đào tạo, định hướng cho các cơ sở đào tạo xây dựng chiến lược, kế hoạch đào tạo và người học có cơ sở lựa chọn ngành học.

- Thực hiện các giải pháp hữu hiệu để thu hút lao động qua đào tạo từ nơi thừa (các thành phố lớn, vùng đã phát triển) đến làm việc ở nơi có nhu cầu.

- Triển khai có hiệu quả Chương trình mục tiêu quốc gia về việc làm và dạy nghề, nhất là đào tạo nghề cho lao động nông thôn, cho vay vốn từ Quỹ quốc gia và việc làm và đưa người lao động đi làm việc ở nước ngoài. Thực hiện chính sách hỗ trợ việc làm, bảo hiểm thất nghiệp, đào tạo lại cho người lao động mất việc, chuyển nghề.

- Triển khai các đề án trong Kế hoạch hành động của Ngành giáo dục triển khai Chương trình hành động của Chính phủ thực hiện Nghị quyết số 29-NQ/TW về đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo để góp phần giải quyết việc làm cho thanh niên.

22. Cử tri các tỉnh/thành phố Tiền Giang, Lạng Sơn, Bà Rịa-Vũng Tàu, Hà Giang, Ninh Thuận, Hà Nội, Hồ Chí Minh kiến nghị: cho rằng học sinh học Lịch sử để tăng cường giáo dục truyền thống, hun đúc tinh thần yêu nước, yêu quê hương, giúp các em hiểu và nắm vững các kiến thức cơ bản của lịch sử nước nhà, đặc biệt là cuộc đấu tranh giành độc lập tự do cho đất nước của nhân dân ta suốt mấy nghìn năm lịch sử đến ngày nay. Do đó, đề nghị Bộ xem xét để quy định môn Lịch sử là môn bắt buộc trong kì thi tốt nghiệp THPT. Hơn nữa, để học sinh thích thú với môn học Lịch sử, cử tri kiến nghị Bộ quan tâm các giải pháp nâng cao chất lượng giảng dạy và học môn Lịch sử, cụ thể như: cần biên soạn lại nội dung sách giáo khoa lịch sử phổ thông theo hướng tư duy khoa học, công bằng và trung thực; bố trí lại chương trình học, khẳng định vị trí quan trọng của môn học Lịch sử; việc dạy Lịch sử phải hấp dẫn, đem lại thích thú và gần gũi với học sinh; đồng thời, quan tâm thích đáng đối với đội ngũ giảng dạy môn học này, như tăng cường bồi dưỡng nghiệp vụ, chế độ ưu đãi… Đây cũng là những giải pháp hữu hiệu để khuyến khích đào tạo đội ngũ giáo viên giảng dạy môn Lịch sử sau này.



tải về 7.28 Mb.

Chia sẻ với bạn bè của bạn:
1   ...   86   87   88   89   90   91   92   93   ...   101




Cơ sở dữ liệu được bảo vệ bởi bản quyền ©hocday.com 2024
được sử dụng cho việc quản lý

    Quê hương