KỲ HỌp thứ TÁM, quốc hội khóa XIII (20/10/2014 – 28/11/2014)



tải về 7.28 Mb.
trang88/101
Chuyển đổi dữ liệu19.07.2016
Kích7.28 Mb.
#2002
1   ...   84   85   86   87   88   89   90   91   ...   101

Trả lời: Tại công văn số 4652/BGDĐT-VP ngày 28/8/2014

1. Trong những năm qua, tuy đã có cố gắng trong đổi mới và đạt được những kết quả tích cực, nhưng giáo dục và đào tạo vẫn còn những hạn chế. Chất lượng, hiệu quả giáo dục và đào tạo còn chưa tương xứng so với yêu cầu; nội dung, chương trình giáo dục còn nặng lý thuyết, nhẹ thực hành; chưa chú trọng đúng mức việc giáo dục đạo đức, lối sống và kỹ năng làm việc. Phương pháp giáo dục, việc thi, kiểm tra và đánh giá kết quả còn lạc hậu, thiếu thực chất. Một số hiện tượng tiêu cực trong giáo dục như tình trạng chạy trường, chạy lớp, gian lận trong thi cử, dạy thêm học thêm tràn lan…gây bức xúc trong xã hội.

Để khắc phục tình trạng trên, Bộ Giáo dục và Đào tạo đã thực hiện các nhóm giải pháp như:

- Ban hành Thông tư số 17/2012/TT-BGDĐT quy định về dạy thêm, học thêm; Chỉ đạo các Sở GDĐT tham mưu UBND tỉnh, thành phố ban hành Quy định về dạy thêm học thêm áp dụng đối với địa phương mình (đến nay đã có 63/63 tỉnh, thành phố ban hành quy định dạy thêm học thêm); Tổ chức thanh tra tại các địa phương; kiến nghị xử lý đối với đơn vị, cá nhân cán bộ quản lý, giáo viên vi phạm; Tăng cường công tác tuyên truyền tạo sự đồng thuận của cha mẹ học sinh; Tăng cường quản lý giáo viên trong việc thực hiện chương trình dạy học, thực hiện quy định dạy thêm học thêm, nghiêm cấm cắt xén chương trình, ép buộc học sinh học thêm dưới bất kỳ hình thức nào;

- Tiếp tục rà soát, điều chỉnh nội dung dạy học theo hướng tinh giản, loại bỏ những phần trùng lặp, hàn lâm, xa rời thực tế; những nội dung chưa cần thiết và không phù hợp với trình độ, tâm sinh lý lứa tuổi học sinh và đảm bảo theo nguyên tắc không làm thay đổi chương trình và sách giáo khoa hiện hành; Giao quyền, hướng dẫn cho nhà trường và giáo viên chủ động xây dựng kế hoạch dạy học và thực hiện chương trình giáo dục một cách linh hoạt, phù hợp với đối tượng học sinh và thực tiễn địa phương;

- Tập trung chỉ đạo đổi mới phương pháp dạy học, đổi mới từng bước cách thức kiểm tra, đánh giá kết quả học tập của học sinh theo hướng: Giảm dần yêu cầu học thuộc lòng, chú trọng vận dụng kiến thức tổng hợp bằng cách ra đề thi theo hướng tăng dần các yêu cầu vận dụng sáng tạo, ra đề “mở” gắn với các vấn đề thực tiễn, thời sự của đất nước để học sinh trình bày ý kiến cá nhân trên cơ sở tổng hợp, vận dụng kiến thức được học, qua đó đánh giá đúng chất lượng học tập và năng lực của học sinh; Đổi mới công tác tổ chức thi tốt nghiệp THPT theo hướng tăng cường giao quyền chủ động trên cơ sở nâng cao tinh thần tự chủ và chịu trách nhiệm của các sở giáo dục và đào tạo; tạo cơ chế giám sát của xã hội đối với các thành viên của Hội đồng coi thi.

- Thực hiện đổi mới công tác thi đua – khen thưởng; đánh giá đúng thực chất của phong trào thi đua, tôn vinh đúng đối tượng nhằm tạo động lực thúc đẩy phong trào thi đua.

2. Về việc dạy và học môn Lịch sử trong nhà trường phổ thông: Bộ Giáo dục và Đào tạo xác định môn Lịch sử là một môn học có ưu thế trong việc giáo dục tư tưởng, đạo đức, truyền thống, hình thành nhân cách của thế hệ trẻ, những chủ nhân tương lai của đất nước”. Để khuyến khích học sinh học và yêu thích môn Lịch sử, Bộ Giáo dục và Đào tạo triển khai thực hiện những giải pháp, trong đó chú trọng đổi mới phương pháp dạy học và kiểm tra, đánh giá:

- Phối hợp với Hội Khoa học Lịch sử Việt Nam nghiên cứu đổi mới phương pháp dạy và học môn Lịch sử nhằm tạo hứng thú, cảm hứng học lịch sử cho học sinh; chú trọng giáo dục truyền thống dân tộc, lòng yêu nước, niềm tự tin dân tộc, giúp nuôi dưỡng tâm hồn, tính nhân văn, rèn luyện ý chí, bồi dưỡng ý thức đối với đất nước, dân tộc;

- Đổi mới phương pháp thi, kiểm tra, đánh giá kết quả học tập: Không yêu cầu học thuộc lòng sự kiện và ghi nhớ máy móc các con số; thực hiện thi, kiểm tra thông qua đánh giá năng lực và phẩm chất được hình thành của học sinh theo hướng tăng dần các yêu cầu vận dụng kiến thức, ra đề “mở” gắn với các vấn đề thời sự của đất nước để học sinh được vận dụng kiến thức tổng hợp, trình bày ý kiến cá nhân…;

- Tổ chức các hoạt động trải nghiệm liên quan đến lịch sử của đất nước, quê hương nơi học sinh học tập;

- Vinh danh học sinh giỏi đoạt giải quốc gia môn Lịch sử; trao học bổng cho sinh viên ngành Sử có thành tích học tập xuất sắc nhằm động viên khích lệ các em;

- Tổ chức cuộc thi “Em yêu lịch sử Việt Nam” đối với học sinh phổ thông nhằm tạo điều kiện để các em tìm hiểu truyền thống dựng nước và giữ nước của dân tộc, góp phần nâng cao lòng yêu nước, tự hào dân tộc, xác định ý thức trách nhiệm của chủ nhân tương lai trong việc tham gia xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam.

3. Triển khai đồng bộ các nhóm giải pháp để nâng cao chất lượng đào tạo

Để nâng cao chất lượng đào tạo, khắc phục tình trạng sinh viên tốt nghiệp chưa đáp ứng yêu cầu xã hội, Bộ Giáo dục và Đào tạo đã triển khai thực hiện nhiều giải pháp:

- Điều chỉnh quy mô và cơ cấu đào tạo nguồn nhân lực theo hướng chú trọng chất lượng và gắn với thị trường lao động: Hoàn thiện lại quy hoạch mạng lưới các trường đại học, cao đẳng; điều chỉnh việc thành lập và nâng cấp các trường đại học, cao đẳng với yêu cầu đảm bảo chất lượng, phù hợp với nhu cầu về nhân lực phục vụ kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội, an ninh quốc phòng của quốc gia và của từng vùng. Đến nay, quy mô của hệ thống giáo dục đại học đã đi vào ổn định ở mức 2,2 triệu sinh viên. Quy mô của hệ vừa làm vừa học, đào tạo liên thông giảm. Các điều kiện đảm bảo chất lượng đào tạo, nhất là về đội ngũ giảng viên đã được các nhà trường quan tâm cải thiện;

- Thực hiện việc giao cho các cơ sở giáo dục đại học quyền tự chủ gắn liền với trách nhiệm và tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra để kịp thời phát hiện, chấn chỉnh và xử lý nghiêm minh, dứt điểm các sai phạm trong việc thực hiện cam kết khi thành lập trường và các điều kiện đảm bảo chất lượng đào tạo; Yêu cầu các nhà trường rà soát chuẩn đầu ra của các chương trình đào tạo, làm cơ sở xây dựng nội dung, chương trình đào tạo phù hợp, đáp ứng yêu cầu của thị trường lao động trong thời kỳ hội nhập với nền kinh tế thế giới;

- Chỉ đạo triển khai rộng rãi đào tạo theo tín chỉ ở các cơ sở giáo dục đại học, tạo điều kiện cho sinh viên chủ động thực hiện chương trình học tập của mình, qua đó các nhà trường đổi mới công tác quản lý, các giảng viên đổi mới phương pháp giảng dạy;

- Đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin trong nhà trường. Nhiều trường đại học, học viện, trường cao đẳng, trung cấp chuyên nghiệp đã có website riêng và thường xuyên cập nhật, phát triển các nội dung mang tính chuyên môn, học thuật để tuyên truyền, trao đổi thông tin và xây dựng cơ sở dữ liệu, học liệu.

Hiện nay, Bộ Giáo dục và Đào tạo đang chủ động, tích cực tổ chức thực hiện Kế hoạch hành động của Ngành giáo dục triển khai Chương trình hành động của Chính phủ thực hiện Nghị quyết số 29-NQ/TW của Ban Chấp hành Trung ương lần thứ 8, khóa XI về đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo với mục tiêu: ”Đổi mới chương trình nhằm phát triển năng lực và phẩm chất người học, hài hòa đức, trí, thể, mỹ; dạy người, dạy chữ và dạy nghề. Đổi mới nội dung giáo dục theo hướng tinh giản, hiện đại, thiết thực, phù hợp với lưa tuổi, trình độ và ngành nghề, tăng thực hành, vận dụng kiến thức vào thực tiễn. Chú trọng giáo dục nhân cách, đạo đức, lối sống, tri thức pháp luật và ý thức công dân...”.



9. Cử tri tỉnh Bình Định kiến nghị: Cử tri cho rằng hiện nay một số chính sách giáo dục và đào tạo còn nhiều vấn đề thiếu nhất quán, gây bức xúc trong dư luận xã hội (mua sắm trang thiết bị dạy học đưa về các trường không sử dụng được, đề xuất gói 34.000 tỷ cho Đề án cải cách giáo dục, soạn sách giáo khoa mới; chủ trương thiếu nhất quán trong các quyết định quản lý điều hành như: không cho tuyển sinh đại học, cao đẳng 207 ngành trong năm 2014 của một số trường, nhưng sau đó lại cho 62/207 ngành được tuyển sinh, hoặc việc cấm dạy ngoại ngữ cho trẻ tại các trường mầm non, sau đó lại cho phép…). Đề nghị Bộ Giáo dục và Đào tạo khắc phục tình trạng trên; đồng thời, công bố các giải pháp nhằm đảm bảo chất lượng trong kỳ tuyển sinh đại học, cao đẳng năm học 2014 – 2015 khi bỏ điểm sàn trong tuyển sinh; tăng cường công tác quản lý trong cấp giấy phép hành nghề cho các nhà trẻ, mẫu giáo, nhất là các cơ sở tư nhân; tập trung thực hiện việc đổi mới chương trình sách giáo khoa theo Nghị quyết 40 của Quốc hội, cần thực hiện tốt mục tiêu phân luồng cho học sinh sau bậc trung học cơ sở.

Trả lời: Tại công văn số 4653/BGDĐT-VP ngày 25/8/2014

1. Vấn đề mua sắm trang thiết bị dạy học

Để đảm bảo có đủ trang thiết bị cần thiết phục vụ cho công tác dạy và học nhằm nâng cao chất lượng giáo dục trong các nhà trường, Bộ Giáo dục và Đào tạo đã ban hành Danh mục thiết bị dạy học tối thiểu thống nhất trên toàn quốc cho các cơ sở giáo dục, các nhà trường có căn cứ triển khai thực hiện. Đồng thời, Bộ ban hành các văn bản hướng dẫn về việc lập kế hoạch mua sắm, tổ chức mua sắm, tập huấn bồi dưỡng giáo viên, sử dụng và bảo quản thiết bị, trong đó nêu rõ, khi đầu tư mua sắm thiết bị dạy học phải lập kế hoạch trên cơ sở rà soát thực trạng thiết bị dạy học hiện có, đối chiếu với Danh mục thiết bị dạy học tối thiểu của nhà trường, điều kiện cơ sở vật chất để lắp đặt, khả năng sử dụng của đội ngũ giáo viên, nguồn kinh phí và phù hợp với điều kiện kinh tế của địa phương44.

Hằng năm, Bộ Giáo dục và Đào tạo xây dựng kế hoạch ngân sách, phân bổ kinh phí về các địa phương để triển khai công tác thiết bị dạy học. Việc mua sắm trang thiết bị phục vụ cho giảng dạy và học tập hoàn toàn do địa phương chủ động dựa trên các văn bản hướng dẫn của Bộ và các quy định của pháp luật.

Đồng thời, Bộ Giáo dục và Đào tạo chủ trì phối hợp với các Bộ, ban ngành tổ chức kiểm tra, thanh tra đánh giá việc triển khai công tác thiết bị dạy học của các địa phương. Qua công tác kiểm tra, thanh tra cho thấy, thực tế có một số cơ sở giáo dục và địa phương việc đầu tư thiết bị dạy học chưa thực sự phát huy hiệu quả, một số thiết bị không sử dụng được là do một số nguyên nhân sau: Thiết bị dạy học mua không đúng Danh mục thiết bị dạy học tối thiểu Bộ đã ban hành; thiết bị dạy học chưa phù hợp với khả năng, trình độ của đội ngũ giáo viên do công tác lập kế hoạch khi đầu tư mua sắm không sát thực tế; Thiết bị dạy học mua kém chất lượng do công tác tổ chức mua sắm, đặc biệt là khi tổ chức nghiệm thu, bàn giao đưa vào sử dụng còn có những hạn chế.

Bộ Giáo dục và Đào tạo xin tiếp thu ý kiến của cử tri và sẽ tiếp tục chỉ đạo đẩy mạnh công tác thanh tra, kiểm tra, khắc phục những hạn chế trong việc đầu tư mua sắm, sử dụng, bảo quản thiết bị dạy học ở một số cơ sở giáo dục và địa phương để đảm bảo hiệu quả đầu tư, tránh lãng phí, góp phần nâng cao chất lượng giáo dục, đáp ứng với yêu cầu trong đổi mới giáo dục.

2. Việc thực hiện đổi mới chương trình, sách giáo khoa theo Nghị quyết số 40/2000/NQ-QH10 của Quốc hội và Đề án đổi mới Chương trình, sách giáo khoa giáo dục phổ thông sau 2015

2.1. Việc thực hiện đổi mới chương trình, sách giáo khoa hiện hành theo Nghị quyết số 40/2000/NQ-QH10 của Quốc hội

Quán triệt Nghị quyết Đại hội XI và các nghị quyết Trung ương về đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo, Bộ Giáo dục và Đào tạo đã và đang triển khai đồng bộ các nhóm giải pháp để nâng cao chất lượng giáo dục phổ thông:

- Tổ chức Hội nghị tổng kết, đánh giá việc thực hiện Nghị quyết số 40/2000/QH10 của Quốc hội về đổi mới chương trình và sách giáo khoa giáo dục phổ thông. Hội nghị đã tổng kết, đánh giá những ưu điểm, hạn chế về chất lượng chương trình, sách giáo khoa; những kết quả đạt được, những hạn chế triển khai áp dụng đại trà chương trình, sách giáo khoa; đánh giá về công tác chỉ đạo thực hiện...; rút ra những bài học kinh nghiệm và đề xuất kiến nghị về định hướng đổi mới chương trình và sách giáo khoa sau năm 2015.

- Đối với chương trình hiện hành: Điều chỉnh nội dung chương trình dạy học: Đã chủ động rà soát, điều chỉnh nội dung chương trình giáo dục phổ thông hiện hành theo hướng tinh giản, loại bỏ những phần trùng lặp, hàn lâm, xa rời thực tế; những nội dung chưa cần thiết và không phù hợp với trình độ, tâm sinh lý lứa tuổi học sinh; Giao quyền, hướng dẫn cho nhà trường và giáo viên chủ động xây dựng kế hoạch dạy học và thực hiện chương trình giáo dục một cách linh hoạt, phù hợp với đối tượng học sinh và thực tiễn địa phương.

- Chỉ đạo đổi mới phương pháp dạy học và các hoạt động giáo dục: Chỉ đạo đổi mới quản lý hoạt động chuyên môn trong nhà trường thông qua việc tổ chức giao lưu giáo viên dạy giỏi, thi dạy các chủ đề tích hợp; đổi mới sinh hoạt chuyên môn, công tác dự giờ, rút kinh nghiệm và xây dựng chương trình giáo dục của nhà trường; Phối hợp với Hội Khoa học Lịch sử, Hội Nhà văn, Hội Toán học, Hội Vật lý, các cơ sở đào tạo giáo viên, cơ quan quản lý giáo dục và các tổ chức xã hội - nghề nghiệp khác hướng dẫn giáo viên đổi mới phương pháp dạy học theo hướng phát huy tính chủ động, sáng tạo của học sinh; Chỉ đạo tổ chức các hoạt động giáo dục gắn với các di sản văn hóa, lịch sử và thực tiễn địa phương; Tăng cường ứng dụng công nghệ thông tin - truyền thông phục vụ cho đổi mới phương pháp dạy học;

- Đổi mới thi, kiểm tra, đánh giá theo hướng phát triển năng lực của học sinh: Đổi mới từng bước cách thức kiểm tra, đánh giá kết quả học tập của học sinh theo hướng: Giảm dần yêu cầu học thuộc lòng, chú trọng vận dụng kiến thức tổng hợp bằng cách ra đề thi theo hướng tăng dần các yêu cầu vận dụng sáng tạo, ra đề “mở” gắn với các vấn đề thực tiễn, thời sự của đất nước để học sinh trình bày ý kiến cá nhân trên cơ sở tổng hợp, vận dụng kiến thức được học, qua đó đánh giá đúng chất lượng học tập và năng lực của học sinh; Đổi mới công tác tổ chức thi tốt nghiệp trung học phổ thông theo hướng tăng cường giao quyền chủ động trên cơ sở nâng cao tinh thần tự chủ và chịu trách nhiệm của các sở giáo dục và đào tạo; tạo cơ chế giám sát của xã hội đối với các thành viên của Hội đồng coi thi.

- Mở rộng thí điểm áp dụng có chọn lọc một số kinh nghiệm và mô hình giáo dục tiên tiến của một số nước trên thế giới phù hợp với Việt Nam như: Triển khai phương pháp “Bàn tay nặn bột”45 ở 350 trường tiểu học của 63 tỉnh/thành phố và 120 trường THCS của 12 tỉnh/thành phố; Triển khai dự án mô hình trường học mới Việt Nam (VNEN) với định hướng lấy người học làm trung tâm ở 63 tỉnh/thành phố với 1.447 trường tiểu học tham gia. Đang chuẩn bị để triển khai thí điểm mô hình VNEN cấp THCS trong năm học 2014-2015...

2.2. Việc xây dựng Đề án đổi mới Chương trình, sách giáo khoa giáo dục phổ thông sau 2015

Đề án đổi mới chương trình, sách giáo khoa giáo dục phổ thông sau năm 2015 đã được Bộ Giáo dục và Đào tạo xây dựng nhằm triển khai thực hiện Nghị quyết số 29-NQ/TW ngày 04/11/2013 của Hội nghị lần thứ 8, Ban chấp hành Trung ương (khóa XI) về đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo và cũng thuộc chương trình công tác của Chính phủ năm 2014.

Thủ tướng Chính phủ đã ủy quyền Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo thay mặt Chính phủ trình Ủy ban thường vụ Quốc hội xem xét, cho ý kiến về Đề án này trước khi trình Quốc hội đề nghị ban hành Nghị quyết mới về đổi mới chương trình, sách giáo khoa giáo dục phổ thông. Bộ Giáo dục và Đào tạo đã trình Ủy ban thường vụ Quốc hội dự thảo Đề án, trong đó chưa có nội dung kinh phí thực hiện Sau khi có ý kiến của Ủy ban thường vụ Quốc hội, Thủ tướng Chính phủ đã chỉ đạo Bộ Giáo dục và Đào tạo khẩn trương xây dựng Đề án, bao gồm cả nội dung dự kiến kinh phí và lộ trình thực hiện (Công văn số 2864/VPCP-KGVX ngày 24 tháng 4 năm 2014 của Văn phòng Chính phủ).

Hiện nay, Đề án Đổi mới chương trình, sách giáo khoa giáo dục phổ thông đang trong quá trình dự thảo và từng bước được hoàn thiện. Bộ Giáo dục và Đào tạo đã và đang tiếp tục tổ chức xin ý kiến góp ý của các tổ chức, cá nhân thông qua các hình thức: Gửi văn bản trực tiếp xin ý kiến, tổ chức hội thảo, hội nghị tham vấn… Thực hiện Kết luận của Chủ tịch Quốc hội tại phiên họp thứ 27 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội và Nghị quyết số 75/2014/QH13 về chất vấn và trả lời chất vấn tại kỳ họp thứ 7, Quốc hội khóa XIII, Bộ Giáo dục và Đào tạo đang khẩn trương bổ sung, hoàn thiện Đề án Đổi mới chương trình giáo dục phổ thông sau năm 2015 để trình Quốc hội tại kỳ họp thứ 8, Quốc hội khóa XIII sắp tới.



3. Một số nội dung đối với giáo dục mầm non

3.1.Việc cho phép dạy ngoại ngữ tại các trường mầm non: Hiện nay nhu cầu của phụ huynh cho trẻ làm quen với ngoại ngữ là khá lớn, để đáp ứng nhu cầu của phụ huynh, một số cơ sở giáo dục mầm non đã tổ chức cho trẻ mầm non làm quen với ngoại ngữ. Qua báo cáo của các sở giáo dục và đào tạo, một số cơ sở giáo dục mầm non tổ chức dạy ngoại ngữ theo kiểu dạy học ở phổ thông tạo nên sự căng thẳng đối với trẻ. Mặt khác, việc tổ chức dạy thêm ngoại ngữ cho trẻ trong khi các điều kiện về Chương trình, tài liệu, cơ sở vật chất, đội ngũ giáo viên chưa đảm bảo, ảnh hưởng tới việc học tập sau này của trẻ và gây bức xúc trong phụ huynh và xã hội.

Xuất phát từ thực trạng đó, Bộ Giáo dục và Đào tạo đã có công văn số 694/BGDĐT-GDMN ngày 18/2/2014 chấn chỉnh việc tổ chức cho trẻ làm quen với ngoại ngữ trong các cơ sở giáo dục mầm non.

Để làm rõ hơn việc chỉ đạo cho trẻ làm quen với ngoại ngữ, khắc phục tình trạng “dạy học ngoại ngữ kiểu phổ thông hóa” ở cấp học mầm non, ngày 18/3/2014, Bộ Giáo dục và Đào tạo đã ban hành công văn số 1303/BGDĐT-GDMN chỉ đạo các địa phương nghiêm túc thực hiện công văn số 694/BGDĐT-GDMN đồng thời nhấn mạnh các điều kiện cần thiết để có thể tổ chức hoạt động cho trẻ làm quen với ngoại ngữ có hiệu quả, đáp ứng nhu cầu của phụ huynh, cụ thể là:

- Ở những nơi có điều kiện, phụ huynh có nhu cầu, các cơ sở giáo dục mầm non có thể tổ chức thí điểm cho trẻ làm quen với ngoại ngữ khi đảm bảo các điều kiện theo quy định46.

- Tổ chức cho trẻ làm quen ngoại ngữ một cách nhẹ nhàng thoải mái thông qua các trò chơi, bài hát, tranh ảnh…, tạo niềm vui, hứng thú cho trẻ nhưng không làm ảnh hưởng tới việc thực hiện chương trình giáo dục mầm non, tới việc huy động trẻ ra lớp và phổ cập giáo dục mầm non cho trẻ em năm tuổi.

Như vậy, 02 công văn trên bổ sung cho nhau để chỉ đạo tốt hơn việc cho trẻ làm quen ngoại ngữ, góp phần thực hiện mục tiêu của giáo dục mầm non, đồng thời đáp ứng được nguyện vọng chính đáng của phụ huynh, tạo sự hài lòng của xã hội đối với giáo dục mầm non nói riêng và giáo dục và đào tạo nói chung.

3.2. Việc cấp giấy phép hành nghề cho các nhà trẻ, mẫu giáo, trong đó có các nhà trẻ, mẫu giáo tư nhân

Thực hiện chủ trương xã hội hóa giáo dục của Nhà nước, trong những năm gần đây, giáo dục mầm non ngoài công lập phát triển nhanh, nhất là ở các thành phố, thị xã, khu đông dân cư, khu công nghiệp, khu chế xuất. Các cơ sở giáo dục mầm non ngoài công lập đã góp phần đáng kể trong việc đáp ứng nhu cầu đưa trẻ nhà trẻ tới trường của nhân dân, giảm bớt áp lực, tình trạng quá tải trong các cơ sở giáo dục mầm non công lập.

Công tác quản lý các cơ sở giáo dục mầm non ngoài công lập đã được chỉ đạo thống nhất từ trung ương đến địa phương. Bộ Giáo dục và Đào tạo đã ban hành các văn bản quản lý, chỉ đạo về giáo dục mầm non ngoài công lập47; Tại các văn bản trên đã quy định cụ thể về điều kiện, trình tự, thủ tục cho phép thành lập, cho phép hoạt động, hoặc đình chỉ, giải thể các cơ sở giáo dục mầm non ngoài công lập.

Bộ Giáo dục và Đào tạo chỉ đạo các sở Giáo dục và Đào tạo tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra đối với các cơ sở giáo dục mầm non ngoài công lập; ban hành nhiều công văn chỉ đạo tăng cường công tác quản lý các cơ sở giáo dục mầm non ngoài công lập, đảm bảo an toàn cho trẻ em tại cơ sở giáo dục mầm non48. Hàng năm, Bộ đã đưa nội dung tăng cường quản lý các nhóm lớp ngoài công lập vào hướng dẫn nhiệm vụ năm học và chỉ đạo tăng cường công tác thanh, kiểm tra, xử lý vi phạm.

Trên cơ sở các văn bản chỉ đạo của Bộ, nhìn chung, các địa phương đã thực hiện tốt việc quản lý cấp giấy phép thành lập và giấy phép hoạt động đối với các cơ sở giáo dục mầm non tư thục theo phân cấp quản lý; ngành giáo dục đã làm tốt vai trò tham mưu cho Ủy ban nhân dân tỉnh/thành phố ban hành các văn bản chỉ đạo Ủy ban nhân dân các quận/huyện tăng cường công tác quản lý, chỉ đạo đối với các cơ sở giáo dục mầm non ngoài công lập. Các phòng Giáo dục và Đào tạo đều có văn bản phân công trách nhiệm cho các trường mầm non công lập trong việc hỗ trợ chuyên môn đối với các nhóm lớp tư thục trên địa bàn.

Công tác quản lý cơ sở giáo dục mầm non ngoài công lập được chính quyền địa phương các cấp, các ngành quan tâm, có sự vào cuộc của các ban, ngành như Y tế, Tài nguyên – môi trường, Tài chính, Công an, Hội Liên hiệp Phụ nữ, Đoàn Thanh niên…trong việc kiểm tra, giám sát, hỗ trợ, hướng dẫn hoạt động của các cơ sở giáo dục mầm non ngoài công lập.

Tuy nhiên, một số địa phương còn có những hạn chế trong công tác quản lý cấp phép các cơ sở giáo dục mầm non ngoài công lập, đặc biệt là các nhóm lớp độc lập; sự phối hợp giữa phòng giáo dục với Ủy ban nhân dân xã, phường thiếu chặt chẽ, buông lỏng trong quản lý gây mất an toàn cho trẻ. Trong thời gian tới, Bộ Giáo dục và Đào tạo tiếp tục chỉ đạo tăng cường công tác quản lý đối với các cơ sở giáo dục mầm non ngoài công lập; chỉnh sửa Quy chế tổ chức và hoạt động trường mầm non tư thục phù hợp với tình hình thực tiễn; tham mưu, phối hợp xây dựng cơ chế chính sách cho giáo dục mầm non các khu công nghiệp, khu chế xuất.



4. Đối với giáo dục đại học

4.1. Việc cho tuyển sinh trở lại một số ngành đại học, cao đẳng

Tiếp theo việc rà soát các chuyên ngành trình độ tiến sĩ (2010) và trình độ thạc sĩ (2012), năm 2013, Bộ Giáo dục và Đào tạo tiến hành rà soát 2.700 ngành đào tạo trình độ đại học của 242 cơ sở đào tạo về điều kiện đảm bảo chất lượng của các ngành đào tạo trình độ đại học, mà điều kiện tiên quyết là đội ngũ giảng viên cơ hữu. Mục tiêu của đợt rà soát các ngành đào tạo trình độ đại học nhằm: nắm được thực trạng điều kiện đảm bảo chất lượng của các ngành đào tạo, nhất là đội ngũ giảng viên cơ hữu; Thống nhất cách thức quản lý ở cấp hệ thống và cấp trường; Dừng các ngành không đủ giảng viên cơ hữu để các trường có kế hoạch xây dựng bổ sung và phát triển đội ngũ giảng viên cơ hữu của trường, đảm bảo chất lượng đào tạo; Xây dựng cơ sở dữ liệu về giáo dục đại học phục vụ cho công tác quản lý của Bộ Giáo dục và Đào tạo.

Kết quả rà soát: có 207 ngành của 71 cơ sở đào tạo bị dừng tuyển sinh do không đảm bảo điều kiện về đội ngũ giảng viên cơ hữu theo quy định hiện hành49.

Ngày 25/01/2014, Bộ Giáo dục và Đào tạo có Công văn số 452/BGDĐT-GDĐH thông báo dừng tuyển sinh đối với các ngành chưa đảm bảo điều kiện giảng viên cơ hữu của các cơ sở đào tạo và chỉ đạo các cơ sở đào tạo các công việc tiếp theo để khắc phục các nguyên nhân đình chỉ tuyển sinh.

Thực hiện chỉ đạo của Bộ, một số cơ sở đào tạo đã kịp thời chấn chỉnh, khắc phục các nguyên nhân dẫn đến việc đình chỉ tuyển sinh của các ngành và đã có báo cáo giải trình, đề nghị được tiếp tục tuyển sinh trở lại, Bộ Giáo dục và Đào tạo đã kiểm tra kỹ các minh chứng kèm theo báo cáo giải trình của các trường (báo cáo sắp xếp đội ngũ giảng viên cơ hữu, lý lịch khoa học, Quyết định tuyển dụng, bản sao văn bằng; kiểm tra, đối chiếu trong cơ sở dữ liệu giảng viên để không trùng lặp với giảng viên của các trường khác…).

Kết quả xử lý: Bộ đã cho phép một số ngành được đào tạo trở lại, với những lý do chủ yếu sau: Nhà trường chủ động bố trí lại đội ngũ; một số trường rà soát lại cơ cấu ngành đào tạo, dừng một số ngành để tập trung cho các ngành là thế mạnh và đủ lực lượng của trường; một số trường tuyển dụng được thêm giảng viên mới hoặc một số giảng viên của trường đã tốt nghiệp nhận bằng thạc sĩ, tiến sĩ bổ sung vào đội ngũ giảng viên nên đủ điều kiện; Một số trường trước đây báo cáo không chính xác đội ngũ giảng viên ở một số ngành, nay báo cáo giải trình lại. Tất cả các báo cáo, giải trình đều phải có minh chứng cụ thể về từng giảng viên. Bộ không chấp nhận một giảng viên đăng ký cơ hữu ở nhiều trường.

Đối với ngành nghệ thuật, ngành ngoại ngữ cho phép áp dụng các biện pháp linh hoạt, đặc thù để huy động đội ngũ giảng viên trong giai đoạn quá độ (huy động giảng viên thỉnh giảng là người nước ngoài hoặc đề nghị bộ chủ quản điều động cán bộ quản lý đủ điều kiện đang công tác tại các cơ quan về trường tham gia giảng dạy…), hoàn toàn không có sự hạ thấp điều kiện đảm bảo chất lượng để cho tuyển sinh trở lại.

Trong thời gian từ nay đến hết năm 2015, các trường vẫn tiếp tục kiện toàn đội ngũ, báo cáo để được xem xét tuyển sinh trở lại theo đúng yêu cầu. Nếu đến hết năm 2015, trường nào không khắc phục được, Bộ sẽ kiên quyết thu hồi quyết định cho phép mở ngành đào tạo theo đúng quy định tại Điều 8, Thông tư số 08/2011/TT-BGDĐT (Năm 2012, Bộ GD-ĐT cũng đã thu hồi quyết định mở ngành đối với 57 chuyên ngành thuộc 27 cơ sở đào tạo trình độ tiến sĩ).

Việc Bộ yêu cầu các trường báo cáo để rà soát, kiểm tra các điều kiện đảm bảo chất lượng cũng là một biện pháp để thường xuyên nhắc nhở các trường phải duy trì, đảm bảo và nâng cao chất lượng, xây dựng uy tín, “thương hiệu” trong đào tạo. Vì vậy, việc dừng tuyển sinh là biện pháp cần thiết để chấn chỉnh chất lượng đào tạo đối với các cơ sở chưa đảm bảo, nâng cao uy tín, niềm tin đối với hệ thống giáo dục đại học nói chung.

4.2. Các giải pháp đảm bảo chất lượng trong tuyển sinh đại học 2014-2015

Nhằm đảm bảo chất lượng tuyển chọn đầu vào tuyển sinh đại học, cao đẳng hệ chính quy năm 2014, Bộ Giáo dục và Đào tạo quy định các tiêu chí đảm bảo chất lượng đầu vào như sau:

- Căn cứ vào kết quả thi đại học, cao đẳng của thí sinh trong cả nước Hội đồng xác định điều kiện đảm bảo chất lượng đầu vào đề xuất Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo xem xét công bố một số mức (3 hoặc 4 mức) điểm xét tuyển cơ bản cho từng khối thi, trong đó có mức điểm tối thiểu xét tuyển vào đại học và mức điểm tối thiểu xét tuyển vào cao đẳng

- Đối với trường, ngành quy định môn thi chính, tiêu chí đảm bảo chất lượng đầu vào là điểm chuẩn xét tuyển có tính đến hệ số môn chính (tổng điểm 3 môn thi, trong đó có 1 môn thi chính nhân hệ số 2) vào trường hay vào từng ngành của trường.

Nguyên tắc xác định điểm chuẩn xét tuyển trong trường hợp này là giá trị trung bình của điểm chuẩn xét tuyển có tính đến hệ số của môn chính (điểm chuẩn xét tuyển có tính đến hệ số môn chính chia cho 4) không được thấp hơn giá trị trung bình của mức điểm xét tuyển cơ bản vào học đại học (mức điểm xét tuyển cơ bản vào đại học chia cho 3, đối với các trường đại học) hoặc giá trị trung bình của mức điểm xét tuyển cơ bản vào cao đẳng (mức điểm xét tuyển cơ bản vào cao đẳng chia cho 3, đối với các trường cao đẳng) đã được Bộ công bố và trường đã lựa chọn.

Với quy định các tiêu chí đảm bảo chất lượng như trên, một mặt nhằm tạo điều kiện cho các trường nâng cao chất lượng nguồn tuyển, mặt khác, tạo tiền đề cho việc triển khai phân tầng, xếp hạng các trường đại học, cao đẳng trong tương lai.



5. Việc thực hiện mục tiêu phân luồng cho học sinh sau trung học cơ sở

Phân luồng học sinh sau trung học cơ sở là nhiệm vụ chiến lược được đặt ra từ nhiều năm nay nhưng vẫn chưa đạt được mục tiêu. Hiện tại, hệ trung cấp chuyên nghiệp mỗi năm chỉ tuyển được từ 25.000- 28.000 học sinh tốt nghiệp trung học cơ sở vào học theo chương trình 3 năm.

Việc thực hiện phân luồng đang gặp nhiều khó khăn là do một số nguyên nhân cơ bản như: Tâm lý chạy theo bằng cấp trong xã hội, thể hiện trong cả tuyển dụng (rất nhiều doanh nghiệp đăng thông tin tuyển lao động đều phải tốt nghiệp trung học phổ thông) và đề bạt người lao động; Chất lượng công tác giáo dục hướng nghiệp trong trường phổ thông làm chưa tốt; đội ngũ giáo viên được đào tạo về hướng nghiệp còn thiếu và ít kinh nghiệm thực tế. Các doanh nghiệp cũng chưa quan tâm phối hợp với nhà trường để thực hiện công tác hướng nghiệp; Cơ hội việc làm cho những học sinh tốt nghiệp trung học cơ sở vào học trung cấp nghề hay trung cấp chuyên nghiệp còn khá hạn chế...

Trước thực trạng này, Bộ Giáo dục và Đào tạo đã triển khai một số công việc sau:

- Chỉ đạo các địa phương phối hợp với các tổ chức chính trị xã hội để đẩy mạnh công tác phân luồng bằng những việc làm cụ thể, như: vận động Hội Phụ nữ, Mặt trận Tổ quốc, Hội Cựu chiến binh, Hội Nông dân tuyên truyền để đưa học sinh tốt nghiệp trung học cơ sở vào học trung cấp chuyên nghiệp (Thành ủy thành phố Hồ Chí Minh đã ban hành Nghị quyết riêng về phổ cập trung học, là điều kiện quan trọng để triển khai phân luồng).

- Chỉ đạo các địa phương triển khai Công nghệ đào tạo trong giáo dục nghề nghiệp, thiết kế các khóa đào tạo kỹ năng cho học sinh tốt nghiệp trung học cơ sở nhưng không theo học các chương trình trung cấp nghề hay trung cấp chuyên nghiệp;

- Phối hợp với Ban Tuyên giáo Trung ương, Bộ Lao động-Thương binh và Xã hội, các cơ quan truyền thông tổ chức các hội thảo về công tác phân luồng nhằm tăng cường tuyên truyền và đẩy mạnh công tác này;

- Phối hợp với Bộ Lao động-Thương binh và Xã hội chỉ đạo các Trung tâm giáo dục thường xuyên phối hợp với các cơ sở đào tạo nghề thí điểm kết hợp dạy văn hóa và dạy nghề, để sau 3-4 năm học sinh có thể nhận bằng tốt nghiệp trung học phổ thông và bằng trung cấp nghề;

- Chỉ đạo các cơ sở đào tạo trung cấp chuyên nghiệp đổi mới nội dung đào tạo theo định hướng tiếp cận năng lực; Sắp xếp lại nội dung chương trình, đẩy mạnh đào tạo kỹ năng ngay từ đầu khóa học để hạn chế tình trạng thôi học.

Bộ Giáo dục và Đào tạo cho rằng phân luồng là công việc phức tạp, phải có giải pháp hệ thống tạo ra con đường phát triển thuận lợi cho học sinh học nghề sau khi tốt nghiệp. Để thực hiện hiệu quả công tác phân luồng, ngoài trách nhiệm chính của ngành giáo dục và đào tạo và ngành lao động, thương binh và xã hội, cần có sự vào cuộc mạnh mẽ của cấp ủy, chính quyền các cấp, của cả hệ thống chính trị và cộng đồng doanh nghiệp, sự thay đổi nhận thức của học sinh và gia đình. Đầu tháng 6/2014, Bộ trưởng Giáo dục và Đào tạo và Bộ trưởng Bộ Lao động-Thương binh và Xã hội đã có cuộc làm việc để bàn và thống nhất các nội dung phối hợp để đẩy mạnh thực hiện phân luồng.

Trong thời gian tới, Bộ Giáo dục và Đào tạo tiếp tục thực hiện một số công việc sau:

- Tăng cường tuyên truyền; Mở diễn đàn trên Báo Giáo dục và Thời đại về công tác phân luồng học sinh sau trung học cơ sở để cả xã hội tham gia đóng góp đẩy mạnh công tác này;

- Chỉ đạo các sở giáo dục và đào tạo yêu cầu các trường chuyên nghiệp trên địa bàn tham gia dạy các kỹ năng nghề nghiệp trong các trường phổ thông, giúp học sinh sớm làm quen với môi trường giáo dục nghề nghiệp để tạo ham muốn và lòng tin ban đầu, đồng thời phát huy hiệu quả sử dụng nguồn lực có sẵn ở các trường chuyên nghiệp;

- Phối hợp với Bộ Lao động-Thương binh và Xã hội, các bộ, ngành và địa phương hoàn thiện quy hoạch mạng lưới cơ sở giáo dục nghề nghiệp, tạo điều kiện tập trung huy động nguồn lực để nâng cao chất lượng đào tạo.

- Triển khai nghiên cứu cơ cấu hệ thống giáo dục quốc dân để hoàn thiện cơ chế phân luồng và liên thông trong hệ thống.

- Phối hợp với Bộ Lao động-Thương binh và Xã hội tổ chức Hội nghị quốc gia để bàn về các giải pháp đẩy mạnh phân luồng.

- Nghiên cứu, đề xuất Chính phủ cho phép triển khai Chương trình mục tiêu quốc gia về đào tạo nghề và việc làm gắn với phân luồng học sinh hoặc lồng ghép công tác phân luồng vào chương trình mục tiêu quốc gia về việc làm và dạy nghề hiện nay.

10. Cử tri thành phố Hồ Chí Minh kiến nghị: Cử tri đánh giá nền giáo dục hiện nay còn rất nhiều bất cập, xu hướng thương mại hóa giáo dục đang làm ảnh hưởng đến chất lượng đào tạo. Đề nghị Bộ Giáo dục và Đào tạo cần chuẩn bị chu đáo, triển khai có hiệu quả đề án đổi mới căn bản và toàn diện nền giáo dục nước nhà.



tải về 7.28 Mb.

Chia sẻ với bạn bè của bạn:
1   ...   84   85   86   87   88   89   90   91   ...   101




Cơ sở dữ liệu được bảo vệ bởi bản quyền ©hocday.com 2024
được sử dụng cho việc quản lý

    Quê hương