KỲ HỌp thứ TÁM, quốc hội khóa XIII (20/10/2014 – 28/11/2014)



tải về 7.28 Mb.
trang100/101
Chuyển đổi dữ liệu19.07.2016
Kích7.28 Mb.
#2002
1   ...   93   94   95   96   97   98   99   100   101

Trả lời: Tại công văn số 4581/BGDĐT-VP ngày 25/8/2014

Theo quy định tại các văn bản trên thì nguồn kinh phí thực hiện chi trả chế độ phụ cấp của nhà giáo, cán bộ quản lý giáo dục ở địa phương do ngân sách địa phương đảm bảo và được bố trí trong dự toán ngân sách nhà nước hàng năm của cơ sở giáo dục theo phân cấp quản lý ngân sách nhà nước hiện hành.

Các cơ quan, đơn vị quản lý trực tiếp trả lương cho nhà giáo, cán bộ quản lý giáo dục có trách nhiệm xét duyệt và lập dự toán kinh phí cho đối tượng được hưởng chế độ và gửi cơ quan quản lý cấp trên trực tiếp theo phân cấp ngân sách hiện hành để thẩm định và tổng hợp nhu cầu kinh phí tăng thêm của các cơ quan, đơn vị thuộc phạm vi quản lý, gửi Sở Tài chính thẩm định và tổng hợp nhu cầu kinh phí tăng thêm trình Ủy ban nhân dân cấp tỉnh quyết định.

Riêng năm 2013, năm 2014, Sở Tài chính có trách nhiệm thẩm định nhu cầu kinh phí tăng thêm và tổng hợp nhu cầu kinh phí thực hiện chế độ phụ cấp  báo cáo Ủy ban nhân dân cấp tỉnh để gửi Bộ Tài chính thẩm định và trình cấp có thẩm quyền bổ sung kinh phí.

Vì vậy, Bộ Giáo dục và Đào tạo đề nghị Đoàn Đại biểu Quốc hội tỉnh Lai Châu giám sát việc thực thi của các cơ quan có thẩm quyền tại địa phương thực hiện theo đúng các quy định nêu trên để bổ sung kinh phí chi trả chế độ phụ cấp cho nhà giáo và cán bộ quản lý giáo dục tại địa phương như cử tri đã kiến nghị.

100. Cử tri tỉnh Gia Lai kiến nghị: Tình trạng hiện nay tên gọi các trường học quá dài dòng, phức tạp và trùng lặp. Đề nghị xem xét, sửa đổi quy định tên gọi các bậc học nên gọn là cấp I, cấp II, cấp III (thay cho tiểu học, trung học cơ sở, trung học phổ thông) và quy định tên các trường học hiện nay theo hướng gắn với đơn vị hành chính cấp xã, huyện để tạo thuận lợi cho công tác quản lý và liên hệ của nhân dân.

Trả lời: Tại công văn số 4582/BGDĐT-VP ngày 25/8/2014

* Về tên gọi các cấp học của giáo dục phổ thông hiện nay

Tên gọi các cấp học của giáo dục phổ thông hiện nay (gồm: tiểu học, trung học cơ sở, trung học phổ thông) đã được quy định trong Luật giáo dục năm 2005. Cụ thể: điểm b khoản 2 Điều 4 Luật giáo dục năm 2005 quy định: Giáo dục phổ thông có tiểu học, trung học cơ sở, trung học phổ thông”. Trên thực tế, tên gọi các cấp học của giáo dục phổ thông như trên đã được sử dụng ổn định trong nhiều năm nay.

Tại thời điểm xây dựng Luật giáo dục năm 2005, có một số ý kiến cũng đề nghị về tên gọi của các cấp học giáo dục phổ thông. Qua tham khảo hệ thống giáo dục các nước theo quan điểm này trong khu vực và trên thế giới cho thấy các nước cũng sử dụng tên gọi tương tự như Việt Nam. Do đó, để hội nhập quốc tế, Luật giáo dục 2005 quyết định tên gọi các cấp học của giáo dục phổ thông gồm: tiểu học, trung học cơ sở, trung học phổ thông là phù hợp trong việc sử dụng văn bằng đối với người học.

* Về đề nghị quy định tên các trường học gắn với tên đơn vị hành chính cấp xã, huyện

Theo quy định tại Khoản 6, Điều 19, Nghị định số 75/2006/NĐ-CP ngày 02/8/2006 của Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Giáo dục: Mỗi xã, phường, thị trấn có ít nhất một trường tiểu học; mỗi xã hoặc cụm xã có ít nhất một trường trung học cơ sở, có thể có trường phổ thông có nhiều cấp học (tiểu học - trung học cơ sở); mỗi huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh có ít nhất một trường trung học phổ thông, có thể có trường phổ thông có nhiều cấp học.

Trên thực tế, tùy thuộc vào việc phân bố dân cư, đối với nơi dân cư đông thì trên một địa bàn cấp xã, cấp huyện có nhiều trường tiểu học, trung học cơ sở, trung học phổ thông; ngược lại đối với nơi dân cư ít thì trên một địa bàn cấp xã chỉ có một trường tiểu học, một trường trung học cơ sở; địa bàn cấp huyện chỉ có một trường trung học phổ thông.

Bên cạnh đó, ngoài hệ thống các trường tiểu học, trung học cơ sở, trung học phổ thông loại hình công lập còn có các trường loại hình tư thục. Theo quy định thì việc đặt tên trường theo đề nghị của cá nhân, tổ chức đề nghị thành lập trường.

Do đó, việc quy định tên các trường tiểu học, trung học cơ sở, trung học phổ thông theo hướng gắn với đơn vị hành chính cấp xã, huyện là không phù hợp và khó thực hiện.

101. Cử tri tỉnh Gia Lai kiến nghị: Đề nghị Quốc hội sửa đổi Luật giáo dục theo hướng bổ sung quy định: “Nhà giáo là những người đã đứng lớp” (đồng thời với quy định hiện hành là giáo viên đang đứng lớp), để điều chỉnh đối với những giáo viên đã có nhiều năm đứng lớp giảng dạy, là giáo viên giỏi, xuất sắc, có năng lực nên tổ chức điều động làm nhiệm vụ quản lý ở các phòng, sở Giáo dục và Đào tạo nhằm bảo đảm quyền lợi phụ cấp thâm niên cho những người đã đứng lớp giảng dạy.

Trả lời: Tại công văn số 4040/BGDĐT-VP ngày 31/7/2014

Theo Luật Giáo dục, Điều 70. Nhà giáo: “1. Nhà giáo là người làm nhiệm vụ giảng dạy, giáo dục trong nhà trường, cơ sở giáo dục khác”. Trong nội dung này không có quy định nhà giáo là "giáo viên đang đứng lớp”.

Ngày 04/7/2011, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 54/2011/NĐ-CP về chế độ phụ cấp thâm niên đối với nhà giáo. Theo đó, Nghị định quy định về chế độ phụ cấp thâm niên đối với nhà giáo đang giảng dạy, giáo dục ở các cơ sở giáo dục công lập và các học viện, trường, trung tâm làm nhiệm vụ đào tạo, bồi dưỡng thuộc cơ quan nhà nước, tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội, đã được chuyển, xếp lương theo Nghị định số 204/2004/NĐ-CP ngày 14/12/2004 của Chính phủ về chế độ tiền lương đối với cán bộ, công chức, viên chức và lực lượng vũ trang.

Theo quy định hiện hành, khi nhà giáo được điều động về làm công tác quản lý, tham mưu, chỉ đạo về giáo dục, dạy nghề ở các cơ quan trung ương và địa phương thì trở thành công chức, chịu sự điều chỉnh của Luật Cán bộ, công chức và được hưởng lương theo ngạch, bậc và phụ cấp công vụ. Chế độ tiền lương, các chế độ phụ cấp lương đối với cán bộ, công chức, viên chức đang được thực hiện theo quy định tại Nghị định số 204/2004/NĐ-CP ngày 14/12/2004 của Chính phủ.

Triển khai Chương trình hành động của Chính phủ ban hành kèm theo Nghị quyết số 44/NQ-CP ngày 09/6/2014 thực hiện Nghị quyết số 29-NQ/TW ngày 04/11/2013 và Kế hoạch hành động của Ngành giáo dục về đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo, trong thời gian tới, Bộ Giáo dục và Đào tạo cùng các bộ, ngành sẽ nghiên cứu đề xuất chính sách tiền lương theo tinh thần: mức lương của nhà giáo được hưởng trong hệ thống thang bảng lương hành chính sự nghiệp; phụ cấp theo tính chất công việc, theo vùng; phụ cấp thâm niên nghề nghiệp tính cho thời gian trực tiếp giảng dạy.

102. Cử tri tỉnh Gia Lai kiến nghị: Đề nghị Bộ quan tâm tham mưu với Thủ tướng Chính phủ cho thành lập Trường Cao đẳng Văn hóa - Nghệ thuật của tỉnh trên cơ sở Trường Trung cấp Văn hóa - Nghệ thuật; đồng thời bổ sung học sinh người dân tộc thiểu số học ở các trường nghệ thuật được hưởng chế độ như học sinh dân tộc nội trú, để đào tạo nguồn nhân lực lâu dài đáp ứng yêu cầu phát triển sự nghiệp văn học - nghệ thuật ở địa phương.

Trả lời: Tại công văn số 4671/BGDĐT-VP ngày 28/8/2014

1. Về việc thành lập trường Trường Cao đẳng Văn hóa nghệ thuật tỉnh Gia Lai

Theo điều chỉnh Quy hoạch mạng lưới các trường đại học, cao đẳng được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt tại Quyết định số 37/2013/QĐ-TTg vùng Tây Nguyên đến năm 2020 dự kiến có 15 trường, bao gồm 5 trường đại học và 10 trường cao đẳng. Số lượng các trường cao đẳng trên địa bàn hiện nay là 9 trường và hiện có 01 trường đã có chủ trương thành lập (Trường Cao đẳng Cộng đồng Đắk Nông). Như vậy, với số lượng trường cao đẳng hiện tại cộng với các trường đã có chủ trương thành lập đã phù hợp với quy hoạch đến năm 2020 của Thủ tướng Chính phủ.

Hiện nay, đối với việc thành lập trường đại học, cao đẳng, Thủ tướng Chính phủ có ý kiến ưu tiên việc thành lập thêm các trường đào tạo các ngành công nghệ phục vụ sản xuất đang thiếu nhân lực và những ngành đặc thù để phát triển kinh tế, xã hội của vùng và địa phương. Bên cạnh đó, quy mô đào tạo đại học, cao đẳng của các trường trên địa bàn tỉnh Gia Lai không lớn, nguồn tuyển sinh giới hạn và nhu cầu còn thấp.

Với những lý do nêu trên, Bộ Giáo dục và Đào tạo thấy rằng việc nâng cấp thành lập một trường cao đẳng tại tỉnh Gia Lai là chưa phù hợp với tình hình thực tiễn nhu cầu đào tạo nguồn nhân lực của địa phương và khu vực.



2. Về việc bổ sung chế độ cho học sinh dân tộc thiểu số học tại các trường văn hóa, nghệ thuật được hưởng chế độ như học sinh dân tộc nội trú

Theo quy định hiện hành, học sinh, sinh viên dân tộc thiểu số học tập ở các trường trung cấp chuyên nghiệp, cao đẳng, đại học đã được hưởng chính sách ưu tiên như: cử tuyển, học bổng, miễn giảm học phí, cho vay vốn tín dụng để có điều kiện học tập. Về lâu dài, Bộ Giáo dục và Đào tạo sẽ nghiên cứu, thảo luận với các Bộ, ngành liên quan để đề xuất với Thủ tướng Chính phủ bổ sung chế độ chính sách ưu tiên nhiều hơn cho học sinh dân tộc thiểu số học tại các trường văn hóa, nghệ thuật.



103. Cử tri thành phố Hải Phòng kiến nghị: Tình trạng thiếu thốn, xuống cấp của các ngôi trường tại vùng cao, vùng sâu khu vực biên giới, sự khó khăn của các em học sinh khu vực này làm cử tri rất bức xúc. Cử tri đề nghị quan tâm hơn, đầu tư mạnh hơn nữa cho công tác giáo dục, thay vì đầu tư cho quá nhiều đề án, chương trình không hiệu quả, đề nghị Bộ Giáo dục và Đào tạo sử dụng tập trung nguồn ngân sách cùng các địa phương đầu tư xây dựng mới và nâng cấp các trường học tại khu vực biên giới, vùng sâu, vùng xa có điều kiện khó khăn.

Trả lời: Tại công văn số 4277/BGDĐT-VP ngày 12/8/2014

Trong những năm qua, Bộ Giáo dục và Đào tạo đã chủ trì, phối hợp với các bộ, ngành tham mưu để Đảng và Nhà nước ban hành nhiều chính sách hỗ trợ đầu tư xây dựng cơ sở vật chất cho các trường học ở vùng miền núi, vùng sâu, vùng xa và các vùng có điều kiện kinh tế - xã hội khó khăn, chỉ đạo các địa phương thực hiện nhằm góp phần nâng cao chất lượng giáo dục như: Đề án Kiên cố hoá trường, lớp học và nhà công vụ cho giáo viên giai đoạn 2008 - 2012, Dự án giáo dục tiểu học cho trẻ em có hoàn cảnh khó khăn, Dự án giáo dục Trung học cơ sở vùng khó khăn nhất; Dự án phát triển giáo dục Trung học cơ sở 2; Dự án phát triển giáo dục Trung học phổ thông.

Mỗi Đề án, dự án được thực hiện theo từng giai đoạn, mỗi giai đoạn thực hiện một số mục tiêu nhất định để giải quyết nhu cầu cấp thiết và hướng đầu tư cơ sở vật chất các trường học đủ điều kiện xây dựng trường đạt chuẩn quốc gia. Trong quá trình thực hiện, Bộ Giáo dục và Đào tạo đã đề nghị các địa phương khi phân bổ vốn cho các dự án công trình cần ưu tiên bố trí cho các xã có điều kiện kinh tế xã hội khó khăn ở vùng sâu, vùng xa, vùng có nhiều đồng bào dân tộc. Các Đề án, dự án đã đem lại hiệu quả về mặt xã hội, đáp ứng nguyện vọng của nhân dân, làm cho bộ mặt nhiều trường học được thay đổi rõ rệt, thực sự là điểm sáng về văn hoá, giáo dục của địa phương, góp phần nâng cao dân trí (nhất là tại các địa bàn vùng sâu, vùng xa, vùng đồng bào dân tộc đời sống còn nhiều khó khăn); nhiều trường học được xây dựng mới, bảo đảm khang trang, thoáng mát, cảnh quan sư phạm xanh, sạch, đẹp, thân thiện với học sinh, phù hợp với các tiêu chuẩn về xây dựng trường học đạt chuẩn quốc gia; nâng cao tỷ lệ huy động học sinh đi học, tạo cơ hội bình đẳng về quyền hưởng lợi trong giáo dục.

Để hỗ trợ đầu tư hơn nữa về cơ sở vật chất cho các trường ở vùng miền núi, vùng sâu và các vùng có điều kiện kinh tế - xã hội khó khăn, hiện nay Bộ Giáo dục và Đào tạo đã phối hợp với các bộ, ngành, địa phương tiến hành xây dựng và trình Chính phủ phê duyệt Đề án Kiên cố hoá trường, lớp học và nhà công vụ cho giáo viên giai đoạn 2014 - 2015 và lộ trình đến năm 2020. Mục tiêu của Đề án: Hoàn thành danh mục các công trình đã được phê duyệt tại Quyết định số 20/2008/QĐ-TTg ngày 01/02/2008 của Thủ tướng Chính phủ và Đầu tư xây dựng mới để xóa sổ phòng học bán kiên cố, phòng học tạm, xây mới cho đủ 1 lớp/phòng đối với cơ sở giáo dục tiểu học. Đầu tư xây dựng mới các hạng mục công trình thuộc khu phục vụ học tập: phòng học bộ môn, phòng thiết bị, phòng hiệu bộ, phòng học đa năng, phòng thư viện, phòng y tế.

Tuy nhiên, theo Luật Ngân sách, việc đầu tư xây dựng cơ sở vật chất các trường học do địa phương quản lý là nhiệm vụ chi của ngân sách địa phương. Căn cứ vào nhu cầu hàng năm về đầu tư cơ sở vật chất, Ủy ban nhân dân các địa phương có đề nghị cụ thể để Hội đồng nhân dân tỉnh ra nghị quyết về ngân sách đầu tư cho giáo dục, trên cơ sở lồng ghép các chương trình mục tiêu, đề án và các nguồn khác để thực hiện.

Với nhu cầu đầu tư cơ sở vật chất trường học là rất lớn, cần phải huy động thêm nguồn vốn Trung ương và địa phương, Bộ Giáo dục và Đào tạo đề nghị Quốc hội, Chính phủ tiếp tục tăng nguồn vốn Trung ương hỗ trợ cho các tỉnh khó khăn nhất và đề nghị các địa phương chủ động huy động thêm nhiều nguồn từ ngân sách địa phương, kêu gọi xã hội hóa và các nguồn tài trợ để giải quyết dần hết nhu cầu.



104. Cử tri Thành phố Hải Phòng kiến nghị: Cử tri phản ánh tình trạng dạy thêm, học thêm vẫn diễn ra phổ biến với nhiều biến tướng, hiện tượng lạm thu vẫn diễn ra ở hầu hết các cấp học nhưng công tác kiểm tra còn yếu kém, chưa thường xuyên nên chưa phát hiện được các vụ việc. Đề nghị chỉ đạo các địa phương tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra vấn đề này, đồng thời nên thiết lập đường dây nóng để trực tiếp tố giác các hành vi vi phạm.

Trả lời: Tại công văn số 4622/BGDĐT-VP ngày 27/8/2014

1. Để quản lý và chấn chỉnh tình trạng dạy thêm học thêm tràn lan gây bức xúc trong xã hội thời gian qua, Bộ Giáo dục và Đào tạo đã ban hành Thông tư số 17/2012/TT-BGDĐT ngày 16/5/2012 quy định về dạy thêm học thêm và chỉ đạo các sở giáo dục và đào tạo tham mưu cho lãnh đạo địa phương ban hành các văn bản quy định về dạy thêm học thêm phù hợp với điều kiện thực tế trên địa bàn. Đến nay, các tỉnh, thành phố đều đã ban hành quy định về dạy thêm, học thêm.

Trong những năm qua, tại Chỉ thị về nhiệm vụ trọng tâm của các năm học đối với giáo dục mầm non, giáo dục phổ thông, giáo dục thường xuyên, Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo luôn chỉ đạo các cấp quản lý giáo dục, các cơ sở giáo dục ở địa phương quán triệt và triển khai nghiêm túc Thông tư số 17/2012/TT-BGDĐT, đồng thời tăng cường công tác quản lý, thanh tra, kiểm tra, chấn chỉnh và xử lý nghiêm các vi phạm quy định về quản lý dạy thêm học thêm. Qua kết quả công tác thanh tra, kiểm tra cho thấy, ở những địa phương có sự vào cuộc quyết liệt của các cấp ủy Đảng, sự phối hợp đồng bộ của chính quyền, các tổ chức đoàn thể cùng với ngành giáo dục (như Quảng Ninh, Hải Phòng, Đà Nẵng, Hà Nội; Thanh Hóa, Nghệ An, Phú Yên, Thành phố Hồ Chí Minh, …) thì hoạt động dạy thêm, học thêm được quản lý ngày một tốt hơn, không nảy sinh những hiện tượng tiêu cực gây bức xúc trong xã hội.

2. Về việc chấn chỉnh tình trạng lạm thu trong nhà trường

Thời gian qua, Bộ Giáo dục và Đào tạo đã thực hiện các giải pháp nhằm chấn chỉnh và tăng cường công tác quản lý thu chi trong các cơ sở giáo dục, như: Ban hành các văn bản chỉ đạo, chấn chỉnh và hướng dẫn công tác thu, chi đối với các cơ sở giáo dục106; có văn bản đề nghị Ủy ban nhân dân các tỉnh, thành phố chỉ đạo Sở Giáo dục và Đào tạo phối hợp với các cơ quan liên quan hướng dẫn, giám sát các cơ sở giáo dục trên địa bàn thực hiện các khoản thu, chi theo đúng quy định; Tổ chức thanh tra, kiểm tra và xử lý nghiêm các sai phạm về công tác quản lý, chỉ đạo thu, chi đầu năm học tại một số địa phương.

Năm học 2014, Bộ Giáo dục và Đào tạo đã tổ chức thanh tra việc dạy thêm học thêm và các khoản đóng góp trong các cơ sở giáo dục tại Sở Giáo dục và Đào tạo tỉnh Bắc Ninh, Hải Dương, Hà Nội, thành phố Hồ Chí Minh, Hưng Yên, Vĩnh Long. Sau thanh tra, Bộ đã có Thông báo kết luận, nêu rõ những việc đã làm được, những hạn chế, thiếu sót trong công tác quản lý dạy thêm học thêm và tình trạng lạm thu trong các cơ sở giáo dục của các địa phương, kiến nghị các biện pháp khắc phục.

Trong thời gian tới, Bộ Giáo dục và Đào tạo tiếp tục triển khai một số giải pháp khắc phục tình trạng trên, cụ thể như sau:

- Đẩy mạnh công tác tuyên truyền trên các phương tiện thông tin truyền thông, công khai minh bạch các quy định thu, chi của nhà trường để người dân, Ban đại diện cha mẹ học sinh hiểu những hoạt động, nhiệm vụ và trách nhiệm của mình.

- Tăng cường đôn đốc, kiểm tra việc thực hiện thu, chi của các cơ sở giáo dục; tiếp tục chỉ đạo các địa phương tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra định kỳ, đột xuất với sự phối hợp liên ngành tài chính và các cấp chính quyền, đặc biệt là vào đầu năm học mới; xử lý nghiêm minh các cơ sở giáo dục để xảy ra tình trạng lạm thu. Chỉ đạo các cơ quan quản lý giáo dục tổ chức các hình thức tiếp nhận mọi thông tin phản ánh về các hành vi vi phạm trong công tác quản lý dạy thêm học thêm và tình trạng lạm thu trong các cơ sở giáo dục ở địa phương để xử lý kịp thời.

- Đề nghị các cấp chính quyền quan tâm sửa chữa, xây mới cơ sở vật chất trường học, bổ sung trang thiết bị nhằm đảm bảo đủ điều kiện tối thiểu cho hoạt động dạy và học.



- Bộ Giáo dục và Đào tạo đề nghị Ủy ban nhân dân các tỉnh, thành phố chỉ đạo các sở, ban, ngành quan tâm đảm bảo định mức chi thường xuyên cho các hoạt động giáo dục tại các cơ sở giáo dục mầm non, giáo dục phổ thông ở địa phương để có đủ kinh phí hoạt động chuyên môn.

105. Cử tri các tỉnh An Giang, Đắk Lắk, Hậu Giang, Nghệ An, Ninh Thuận, Lạng Sơn, Quảng Trị, Tiền Giang kiến nghị: Hiện nay, có nhiều trường hợp sinh viên vay tiền để đầu tư cho việc học tập, sau khi ra trường chưa có việc làm hoặc có việc làm nhưng thu nhập thấp. Đề nghị xem xét, có chính sách khoanh nợ, giãn nợ và giảm lãi suất hoặc không thu lãi suất đối với sinh viên vay vốn đi học đã tốt nghiệp nhưng chưa xin được việc làm hoặc có việc làm nhưng thu nhập thấp.

Cử tri các tỉnh Hòa Bình, Ninh Thuận, Quảng Trị kiến nghị: Theo Quyết định 157/2007/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ ngày 27 tháng 9 năm 2007 về tín dụng đối với học sinh, sinh viên thì thời hạn trả nợ gốc và lãi tiền vay là không quá 12 tháng kể từ ngày học sinh, sinh viên kết thúc khoá học. Trường hợp khó khăn thì có thể kéo dài đến 18 tháng. Tuy nhiên, hiện nay, nhiều sinh viên đang vay vốn tại Ngân hàng Chính sách xã hội đã tốt nghiệp ra trường nhưng chưa xin được việc làm, có trường hợp các em trúng tuyển và đang thực hiện nghĩa vụ quân sự nên chưa có khả năng trả nợ vay Ngân hàng. Cử tri đề nghị Chính phủ nghiên cứu, có chính sách gia hạn thêm thời gian trả nợ vay Ngân hàng đối với trường hợp sinh viên quá thời hạn trả nợ nêu trên nhưng chưa xin được việc làm hoặc đang thực hiện Nghĩa vụ quân sự nhằm giảm bớt khó khăn cho gia đình các sinh viên. Về chương trình cho học sinh, sinh viên có hoàn cảnh khó khăn vay vốn: Hiện nay, đối tượng học sinh, sinh viên vay vốn phải trả nợ gốc và lãi tiền vay lần đầu tiên ngay sau khi học sinh, sinh viên có việc làm, có thu nhập, nhưng không quá 12 tháng kể từ ngày học sinh, sinh viên kết thúc khóa học (Điểm 2, Điều 9, Quyết định số 157/2007/QĐ - TTg ). Tuy nhiên, hiện nay rất nhiều học sinh, sinh viên sau khi ra trường không tìm được việc làm (có những học sinh, sinh viên ra trường sau 3 năm vẫn không tìm được việc làm) do đó, không có nguồn trả nợ, trong khi đó gia đình họ là những hộ nghèo, kinh tế khó khăn. Trong thời gian tới, nợ quá hạn cho vay chương trình này sẽ gia tăng cao. Đề nghị nghiên cứu và đề xuất với Chính phủ cho kéo dài thời gian trả nợ gốc, lãi tiền vay lần đầu tiên từ 12 tháng lên 24 tháng để tạo điều kiện cho học sinh, sinh viên ra trường, tìm việc làm và có thu nhập trả nợ.

Cử tri tỉnh Ninh Thuận kiến nghị: Tại khoản 3, Điều 6 của Quyết định số 157/2007/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ về tín dụng đối với học sinh, sinh viên có quy định: “Thời hạn trả nợ là khoảng thời gian tính từ ngày đối tượng được vay vốn trả món nợ đầu tiên đến ngày trả hết nợ (gốc và lãi). Đối với các chương trình đào tạo có thời gian đào tạo không quá một năm, thời hạn trả nợ tối đa bằng 02 lần thời hạn phát tiền vay, đối với các chương trình đào tạo khác, thời hạn trả nợ tối đa bằng thời hạn phát tiền vay. Thời hạn trả nợ được chia thành các kỳ hạn trả nợ do Ngân hàng chính sách xã hội quy định”. Tuy nhiên, thực tế cho thấy số học sinh, sinh viên tốt nghiệp ra trường nhưng chưa tìm kiếm được việc làm dẫn đến chưa có khả năng trả nợ vay cho ngân hàng còn nhiều. Nhằm tạo điều kiện cho số học sinh, sinh viên nghèo này an tâm trong việc trả nợ vay, cử tri kiến nghị Chính phủ nghiên cứu sửa đổi, bổ sung khoản 3, Điều 6 của Quyết định số 157/2007/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ về tín dụng đối với học sinh, sinh viên theo hướng: Thời hạn trả nợ vay bằng 02 lần thời gian cho vay và cho phép được gia hạn nợ vay tối đa bằng thời gian trả nợ đối với học sinh, sinh viên đã kết thúc khóa học mà chưa tìm kiếm được việc làm. Đồng thời, cử tri kiến nghị cần nghiên cứu, bổ sung cơ chế khoanh nợ đối với chương trình cho vay học sinh, sinh viên trong trường hợp rủi ro đặc biệt liên quan đến một trong các đối tượng vay vốn, người thừa kế, học sinh sinh viên mà chưa đủ điều kiện để xóa nợ, như: học sinh, sinh viên bị bệnh, bị chết, bị tâm thần, đã tốt nghiệp ra trường nhưng chưa tìm được việc làm, người vay bị ốm đau thường xuyên, bị bệnh hiểm nghèo...

Cử tri tỉnh Nghệ An kiến nghị: Đề nghị có chính sách khoanh, giãn, hoãn nợ vay cho số sinh viên này.

Trả lời: Tại công văn số 3802/BGDĐT-VP ngày 22/7/2014

Theo Quyết định số 157/2007/QĐ-TTg ngày 27/9/2007 của Thủ tướng Chính phủ về tín dụng đối với học sinh, sinh viên: Người vay phải trả nợ gốc và lãi tiền vay lần đầu tiên ngay sau khi học sinh, sinh viên có việc làm, có thu nhập nhưng không quá 12 tháng kể từ ngày học sinh, sinh viên kết thúc khoá học. Thời hạn cho vay tối đa được xác định theo công thức sau:

Thời hạn cho vay tối đa = thời hạn phát tiền vay + 12 tháng + thời hạn trả nợ.

Đối với các chương trình đào tạo có thời gian đào tạo đến một năm, thời gian trả nợ tối đa bằng 2 lần thời hạn phát tiền vay. Đối với các chương trình đào tạo trên một năm, thời gian trả nợ tối đa bằng thời hạn phát tiền vay.

Ngoài ra, đến kỳ trả nợ cuối cùng, người vay gặp khó khăn chưa trả được nợ thì đề nghị Ngân hàng Chính sách xã hội xem xét cho gia hạn nợ. Tùy từng trường hợp cụ thể, ngân hàng có thể gia hạn nợ một hoặc nhiều lần cho một khoản vay, nhưng thời gian gia hạn nợ tối đa bằng 1/2 thời hạn trả nợ.

Như vậy, nếu học sinh, sinh viên học đại học 4 năm thì thời hạn cho vay tối đa là 9 năm, nếu gặp khó khăn được gia hạn nợ tối đa thêm 2 năm nữa thì tổng cộng cho vay là 11 năm. Trong khi đó, nguồn trả nợ được trích từ thu nhập của hộ vay và thu nhập của sinh viên khi đi làm.

Về khoanh nợ, gia hạn nợ quá thời gian gia hạn nợ tối đa, điểm a và d khoản 4 Điều 1 Quyết định số 164/QĐ-TTg ngày 21/01/2014 của Thủ tướng Chính phủ về việc phê duyệt Đề án “Xử lý nợ xấu của Ngân hàng Chính sách xã hội” quy định như sau:

- Đối với các khoản nợ xấu bị rủi ro do nguyên nhân khách quan đủ điều kiện xử lý theo quy định tại Quyết định số 50/2010/QĐ-TTg ngày 28/7/2010 của Thủ tướng Chính phủ về việc ban hành cơ chế xử lý nợ bị rủi ro tại Ngân hàng Chính sách xã hội, Ngân hàng Chính sách xã hội thực hiện xử lý rủi ro kịp thời theo đúng quy định;

- Đối với các khoản nợ xấu phát sinh do các nguyên nhân như: Học sinh, sinh viên ra trường chưa xin được việc làm hoặc việc làm có thu nhập không ổn định mà gia đình gặp khó khăn chưa có khả năng trả nợ; học sinh, sinh viên chết, gia đình gặp khó khăn chưa có khả năng trả nợ...; người lao động nước ngoài phải về nước trước hạn do nhiều nguyên nhân khác nhau sau khi về nước không có khả năng trả nợ; các khoản nợ xấu được đánh giá có khả năng thu hồi nhưng người vay không có ý thức trả nợ do nhiều nguyên nhân như: khách hàng có khả năng trả nợ nhưng không trả, sử dụng vốn vay sai mục đích... sau khi áp dụng các biện pháp đôn đốc, thu hồi mà vẫn không thu được nợ, Ngân hàng Chính sách xã hội tổng hợp báo cáo Bộ Tài chính, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam để trình Thủ tướng Chính phủ xem xét, quyết định.

106. Cử tri thành phố Cần Thơ kiến nghị: Nhiều cử tri chưa đồng tình về việc xây dựng Đề án triển khai Chương trình, sách giáo khoa giáo dục phổ thông sau năm 2015 với kinh phí lên đến hàng chục nghìn tỷ đồng. Kiến nghị cần chuẩn bị thận trọng, chặt chẽ và thực hiện đồng bộ hóa với việc đổi mới, nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ quản lý, thầy cô giáo, cơ sở vật chất, trang thiết bị dùng cho dạy và học; kịp thời sửa đổi, bổ sung, điều chỉnh những vấn đề còn bất cập, để nền giáo dục Việt Nam đạt được kết quả ổn định, lâu dài, đáp ứng kịp yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội của đất nước trong tình hình mới.



tải về 7.28 Mb.

Chia sẻ với bạn bè của bạn:
1   ...   93   94   95   96   97   98   99   100   101




Cơ sở dữ liệu được bảo vệ bởi bản quyền ©hocday.com 2024
được sử dụng cho việc quản lý

    Quê hương