ĐIỀu chỉnh cơ CẤu kinh tế nhật bản trong bối cảnh toàn cầu hóa nhà xuất bản khoa học xã HỘI


III. NHỮNG THAY ĐỔI CƠ CẤU TRONG NỘI BỘ MỘT SỐ NGÀNH KINH TẾ CỤ THỂ



tải về 1.9 Mb.
trang7/30
Chuyển đổi dữ liệu16.11.2017
Kích1.9 Mb.
#34383
1   2   3   4   5   6   7   8   9   10   ...   30

III. NHỮNG THAY ĐỔI CƠ CẤU TRONG NỘI BỘ MỘT SỐ NGÀNH KINH TẾ CỤ THỂ


Phần trên đã trình bày những thay đổi chủ yếu về cơ cấu ngành của nền kinh tế Nhật Bản xét trên phương diện vĩ mô. Để góp phần làm nổi bật hơn nữa sự chuyển dịch cơ cấu ngành của nền kinh tế Nhật Bản. trong phần này chúng tôi sẽ đi sâu phân tích những thay đổi chủ yếu đã diễn ra trong nội bộ một số ngành kinh tế then chốt của Nhật Bản kể từ đầu thập kỷ 90 đến nay. Trong bối cảnh nền kinh tế suy thoái nghiêm trọng và kéo dài, khả năng cạnh tranh của các ngành công nghiệp chủ chốt của Nhật Bản bị suy giảm nghiêm trọng, Nhật Bản đã có những điều chỉnh như thế nào trong nội bộ các ngành để thích ứng với tình hình mới? Đó là những nội dung sẽ được đề cập đến trong phần này.

1. Sự ra đời và phát triển của các ngành kinh doanh mới


Có thể nói rằng sự ra đời và phát triển của các ngành kinh doanh mới có triển vọng là một trong những sự chuyển dịch cơ cấu ngành dễ thấy nhất ở bất cứ nền kinh tế nào. Trong những năm gần đây, mặc dù nền kinh tế Nhật Bản nói chung vẫn ở trong tình trạng suy thoái và trì trệ, song sự khởi sắc của một số ngành nghề mới đã thực sự có đóng góp đáng kể vào sự tăng trưởng kinh tế và đem lại sự lạc quan cho người Nhật Bản triển vọng về một tương lai tươi sáng. Những ngành nghề mới mà chúng tôi đề cập đến ở đây là xét trên phương diện vi mô (hay trong một phạm vi hẹp). Đó là những ngành được nảy sinh ra từ chính những khu vực hay những ngành lớn (xét trên phương diện vĩ mô) như đã đề cập đến ở phần II.

a. Những thay đổi trong ngành thông tin liên lạc

Trong xu thế phát triển mạnh mẽ của kỹ thuật thông tin và các phương tiện thông tin hiện đại, ngành thông tin liên lạc của Nhật Bản đứng trước những đòi hỏi phải theo kịp với những biến đổi từng ngày từng giờ trên thế giới, đã có những thay đổi rất đáng khích lệ.



Trước hết phải kể đến một trong những thay đổi lớn trong ngành thông lin riên lạc trong những năm gần đây là sự phát triển mạnh về số lượng và sự nâng cấp về chất lượng của hệ thống điện thoại cầm tay cá nhân (PHS). Dịch vụ trong lĩnh vực này hiện nay đang phát triển rất nhanh chóng với sự ra đời của các loại điện thoại di động như điện thoại cầm tay, điện thoại trên xe ô tô, các dịch vụ làm tăng giá trị phục vụ của điện thoại như fax, dịch vụ báo điện thoại, dịch vụ chuyển tiếp điện thoại v.v...

Từ tháng 7 năm 1995 dịch vụ PHS đã đi vào hoạt động. Đây là loại điện thoại vô tuyến sử dụng kỹ thuật số tương tự như máy con của máy điện thoại hữu tuyến trong gia đình nhưng lại có thể mang theo người. So với điện thoại cầm tay thông thường và điện thoại trên xe ô tô thì pin dùng cho PHS gọn nhẹ hơn dò sóng tín hiệu yếu hơn, cước phí cũng rẻ hơn rất nhiều. Mặc dù vẫn có một số nhược điểm như không sử dụng được khi di chuyển với tốc độ cao, vùng phủ sóng còn hẹp, nhưng PHS vẫn có thể thoả mãn nhu cầu sử dụng trong phạm vi sinh hoạt bình thường.

Số lượng người sử dụng điện thoại di động đến cuối tháng 3 năm 1995 là 4,33 triệu người, nhưng chỉ trong 6 tháng tiếp theo đã có thêm 2,3 triệu người. Đặc biệt ngay sau khi PHS ra đời trong tháng 8 - 1995, số lượng người đăng ký sử dụng điện thoại di động ở Nhật Bản đã đạt con số kỷ lục. Hiên tượng này được gọi là “hiệu ứng PHS”. Nhờ có tính năng gọn nhẹ, tiện lợi và chi phí thấp nên PHS đã trở thành động lực chính làm tăng sức mua điện thoại di động ở Nhật Bản. Tính đến cuối tháng 11 năm 1996, số lượng người đăng ký sử dụng PHS, điện thoại cầm tay và điện thoại trên xe ô tô đã lên đến 21,53 triệu người chiếm 1/6 dân số Nhật Bản. Điều này có nghĩa là cứ 6 người Nhật thì có một người sử dụng điện thoại di động. Những ai đến Nhật Bản vào những năm cuối của thập kỷ 90 đều có thể nhận thấy điều này. Cho dù ở công sở, nhà ga, trên tàu điện ngầm, hay các cửa hàng cửa hiệu, đâu đâu cũng có thể gặp người đang sử dụng điện thoại di động, kể cả sinh viên và học sinh phổ thông.

Có lẽ chính do sự phát triển rất nhanh chóng này mà kế hoạch đầu tư của các công ty thuộc lĩnh vực thông tin di động như điện thoại cầm tay, máy nhắn tin, PHS đã vượt khỏi dự tính ban đầu. Và cùng với sự phổ biến của các phương tiện thông tin đã ra đời nhiều loại dịch vụ mới như dịch vụ chuyển tiếp điện thoại, dịch vụ chuyển đổi thông tin từ máy fax sang thư điện tử.v.v.. Các dịch vụ này đã được đánh giá cao bởi các nhà kinh doanh, đặc biệt là những người thường phải đi công tác xa.



Thứ hai, tiếp theo PHS, điều kỳ diệu mới nhất trong lĩnh vực thông tin liên lạc của Nhật Bản trong mấy năm gần đây là sự ra đời và phát triển của loại điện thoại di động có thể truy cập Internet (I-mode) của công ty Docomo. Đây là loại điện thoại di động có màn hình màu và có thể thực hiện một số chức năng khác như truy cập Internet, gửi thư điện tử và trò chơi điện tử.v.v…

Docomo ra đời vào một thời điểm quan trọng khi thị phần của Nhật Bản về xuất khẩu trên thế giới đang giảm xuống. Những hãng sản xuất thuộc vào hàng tinh tuý như Sony và Honda đang chuyển các nhà máy của họ ra nước ngoài, khiến nền kinh tế trong nước ngày càng phụ thuộc vào các nông trang đang suy yếu, các dịch vụ ăn uống và các công ty xây dựng. Sau hơn một thập kỷ suy thoái, Nhật Bản đã bị tụt hậu trong cuộc cách mạng công nghệ thông tin. Tuy nhiên, với sự xuất hiện của I-mode, người ta cho rằng “Nhật Bản sẽ sớm trở lại những ngày huy hoàng khi hàng xuất khẩu của họ tràn ngập trên thế giới”8.

Trước đó không ai nghĩ rằng Docomo lại có thể lớn mạnh một cách nhanh chóng đến như vậy vì nó vốn là một chi nhánh của Công ty Điện tín và Điện thoại Nhật Bản (NTT). Có thể nói rằng sự ra đời và thành công của Docomo là một sự tình cờ, một đứa con doanh nghiệp bị bỏ rơi của công ty điện thoại độc quyền NTT. Để hiểu rõ hơn về Docomo, sau đây chúng tôi xin điểm lại đôi nét về sự ra đời và phát triển của công ty này.

Sau Chiến tranh thế giới thứ hai, Chính phủ Nhật Bản đã có cố gắng thiết lập 4 hoặc 5 công ty cạnh tranh trong mỗi ngành chủ chốt. Song trong ngành điện thoại, chỉ có một công ty độc quyền có thể tự đề ra quy chế cho nó hoạt động, đó là NTT. Và do đó, NTT đã trở nên đồng nghĩa với giá cả cao cố định và dịch vụ tồi. Danh tiếng của công ty này cũng chẳng thay đổi bao nhiêu khi Chính phủ Nhật Bản quyết định mở cửa ngành này vào đầu những năm 1990. Năm 1992, NTT đưa một số viên chức sang phụ trách Docomo (một chi nhánh của họ) với mục tiêu tham gia thị trường mới về điện thoại không dây, còn công ty mẹ đứng sang một bên. Theo GS. Mariko Sakakibara, tác giả cuốn “Liệu Nhật Bản có thể cạnh tranh?”, thì “NTT đã cho phép Docomo độc lập và khi đó điều này là rất bình thường. NTT không đánh giá hết tiềm năng của thông tin di động, và họ hầu như chẳng biết gì về điện loại di động. Mà nếu họ muốn can thiệp thì càng chẳng biết làm thế nào”.

Do vậy, các nhà lãnh đạo ban đầu của Docomo không chói sáng như những nhà doanh nghiệp huyền thoại đã từng chống lại cả hệ thống của Nhật Bản và liều mạng với nguy cơ phá sản để tạo lập nên cơ nghiệp của mình như các nhà lãnh đạo của Sony và Honda. Những gương mặt nổi bật của Docomo như Giám đốc Keiji Tachikawa đến từ NTT chẳng bao giờ biết liều mạng, nhưng họ có được quyền tự do và sự thông minh để tuyển dụng các tài năng từ lĩnh vực tin học và các lĩnh vực khác bên ngoài NTT. Những nhân viên này đã cung cấp những bộ óc đầy sáng tạo mà dường như đã tách Docomo khỏi những công nghệ kém hứa hẹn hơn của Nhật Bản, và tạo ra sản phẩm ăn khách nhất của mình.

Năm 1999, Docomo đã cho ra đời dịch vụ điện thoại Intemet đầu tiên trên thế giới (I-mode), với một số chức năng mới như đã kể trên. Ngay lập tức nó đã hấp dẫn người tiêu dùng Nhật Bản, đặc biệt là giới trẻ. Hiện nay mỗi ngày Docomo có tới 32.500 khách hàng. Theo ý kiến của một học giả Nhật Bản, bà Sakakibara: I-mode là một thiết bị thực sự tuyệt vời, một sáng tạo miễn chê giúp cho điện thoại di động cũng có thể liên lạc Internet. . . Những gì Docomo đạt được thậm chí còn có ý nghĩa lớn hơn9.

Tham vọng của Docomo tại Nhật Bản là thống trị “nền văn hoá ngón tay cái”, làm cho điện thoại di động thay thế tất cả các loại máy nhắn tin và các thiết bị cầm tay khác mà người Nhật thường cầm và sử dụng với hai ngón tay cái. Nhưng điều đáng nói hơn cả là loại điện thoại Intemet di động mà Docomo đã sáng tạo ra không đơn thuần chỉ là một thiết bị. I-mode chính là một phương thức giao tiếp không dây mới dựa trên ngôn ngữ lập trình của Intemet. Người ta gọi đó là phương ngữ I-mode. Theo ông Jon Bilo, một nhà phân tích kinh tế tại Cap Gemioni Emst & Young ở Lon don: Docomo là công ty duy nhất trên hành tinh này xúc tiến dịch vụ di động theo đúng cách. Các công ty khác cũng có thể đề ra những kế hoạch chiến lược tuyệt vời, nhưng chỉ có Docomo thực sự biến kế hoạch của mình thành hiện thực10.

Thậm chí Docomo cũng không thấy trước được rằng dịch vụ I - mode của họ lại được ưa chuộng tại Nhật Bản đến như vậy. Khoảng 50% số khách hành của dịch vụ này là những thanh niên trên dưới 20 tuổi. Khi chưa có sự xuất hiện của I-mode, họ thường phải gắn đủ thứ phụ kiện vào chiếc máy điện thoại của mình. Ban đầu Docomo dự định sẽ cho ra đời các dịch vụ về thị trường chứng khoán, thông tin giao thông và hoạt động ngân hàng trực tuyến. Nhưng sau đó các nhà lãnh đạo công ty này đã nhận thấy rằng được ưa chuộng nhất vẫn là email và những thứ khác như các nhân vật hoạt hình, các trò chơi và đoán số vì các dịch vụ này rất phù hợp với người tiêu dùng Nhật Bản. Người Nhật thường phải đi làm trên quãng được dài trong những toa tàu điện đông đúc, khiến họ có nhiều thời gian để tiêu khiển với một chiếc máy điện thoại I-mode, thích thú với các trò chơi điện tử và bói toán. Thêm vào đó, màu sắc độc đáo của màn hình và những nhân vật hoạt hình lý thú đã có sức lôi cuốn rất lớn đối với giới trẻ Nhật Bản.

Tuy nhiên, để thâm nhập vào các thị trường nước ngoài thì Docomo còn phải tiếp tục nghiên cứu và cải tiến sản phẩm của mình hơn nữa bởi vì những đặc điểm của người tiêu dùng Âu và Mỹ khác rất nhiều so với người tiêu dùng Nhật Bản. Vì vậy việc thâm nhập vào các thị trường này như thế nào vẫn đang còn là một thách thức đặt ra cho các nhà lãnh đạo của Docomo. Một số nhà quan sát cho rằng Docomo có thể khai thác được nhu cầu chưa từng thấy và chưa từng được đáp ứng trước đây, tương tự như việc Honda phát hiện ra nhu cầu bất ngờ của giới tiêu dùng Mỹ về loại xe hơi nhỏ vào thập niên 1970. Giáo sư toán Nathan, tác giả cuốn sách giới thiệu về Sony, cho rằng công ty khổng lồ này của Nhật Bản đã nổi lên gần như một cách hữu cơ từ nhu cầu của nước Nhật sau chiến tranh đói thông tin rất muốn có những chiếc đài bán dẫn không dây. Và do đó, ông cho rằng có sự tương đồng trong trường hợp của Docomo và Internet không dây: Điều Docomo cảm nhận được là ham muốn của người Nhật tránh đối đầu trực diện, ẩn mình trong các bức thư điện tử và trò chơi. Họ sẽ xuất khẩu cuộc cách mạng này ra nước ngoài11.

Ở châu Á, những thông tin gần đây nhất đã cho biết Docomo đang tiến hành việc chinh phục thị trường điện thoại di động của Trung Quốc. Theo tin Kinh tế quốc tế số 37/2001, Docomo dự kiến đầu tư hơn 10 tỷ USD vào việc thăm dò thị trường điện thoại di động của Trung Quốc. Docomo dự kiến tung ra thị trường dịch vụ I-mode truy cập Internet qua điện thoại di động cùng với các hãng chế tạo điện thoại đi động Trung Quốc đang sử dụng công nghệ WAP và một số công nghệ khác. Đây cũng chính là một thị trường đầy tiềm năng cho các sản phẩm của Docomo và các hãng chế tạo điện thoại di động khác của Nhật Bản. Ví dụ, theo số liệu thống kê, tới cuối năm 2000, số người sử dụng điện thoại di động tại Trung Quốc đã lên tới 85,3 triệu người nhờ sự thông dụng của các dịch vụ kèm theo như dịch vụ nhắn tin chẳng hạn. Các dịch vụ di động chiếm tới 42% tổng doanh thu 307,4 tỷ nhân dân tệ (37 tỷ USD) của ngành viễn thông Trung Quốc năm 200012. Theo dự đoán, trong những năm sắp tới tại Trung Quốc sẽ xuất hiện thêm các dịch vụ điện thoại di động có giá trị gia tăng cao, và nhiều nhà phân tích thị trường cho rằng theo đà này thị trường điện thoại di động tại Trung Quốc sẽ phát triển mạnh trong thời gian tới. Và đây chính là cơ hội rất lớn cho sự mở rộng thị phần của Docomo ở đây.



Thứ ba, cùng với điện thoại di động, sự phát triển mạnh của các dịch vụ Internet cũng là một nội dung đáng chú ý trong sự chuyển dịch cơ cấu của ngành thông tin liên lạc. Sự phổ biến nhanh chóng của máy vi tính đã dẫn đến sự ra đời của Internet, kết nối các máy tính trong phạm vi cả nước và trên thế giới. Trước đây, ở Nhật Bản Internet chỉ được sử dụng cho mục đích nghiên cứu và bị cấm sử dụng với mục đích thương mại trong một thời gian dài. Nhưng lệnh cấm đó đã được bãi bỏ ở Nhật Bản từ năm 1993, tạo điều kiện cho sự bùng nổ của Internet hiện nay. Vào giữa những năm 1990, ở Nhật Bản có khoảng 3 triệu người sử dụng Internet. Số lượng các hãng cung cấp dịch vụ mạng Internet đã tăng lên nhanh chóng. Vào tháng 10 năm 1996 đã có 1357 hãng13. Lúc đầu việc sử dụng dịch vụ này còn hạn chế do cước phí sử dụng khá cao. Nhưng hiện nay số lượng các hãng cung cấp dịch vụ cho các cá nhân và công ty với cước phí rẻ tăng lên, kích thích mạnh mẽ nhu cầu của khách hàng.

Tại Nhật Bản hiện nay rất nhiều các công ty, các cơ quan hành chính từ Văn phòng Thủ tướng cho đến các cơ quan chính quyền địa phương trường học,.v.v… đã có các trang Internet (Websiđe) riêng của mình để phục vụ cho việc trao đổi thông tin. Có 5 loại mục đích sử dụng Internet trong thương mại.

- Một là hoạt động trình bày, quảng cáo sản phẩm. Thông thường đa số các trang Internet của các công ty chủ yếu được sử dụng dưới mục đích này, ngoài ra cũng có nhiều trường hợp dùng để tuyển nhân viên.

- Hai là mục đích hỗ trợ cho khách hàng. Những trang Internet này được thiết lập để cung cấp thông tin và hỗ trợ khách hàng hay người sử dụng theo chế độ hội viên.

- Ba là hoạt động bán sản phẩm. Hình thức bán sản phẩm qua các phương tiện thông tin mà không cần cửa hàng đã và đang được thực hiện rất phổ biến qua mạng Internet. Từ những ca ta lô hàng hoá trên Internet, người ta có thể tìm thấy các mặt hàng rất đa dạng như máy vi tính, thực phẩm, đồ uống, mỹ phẩm, hàng may mặc.v.v… Ngoài ra cũng có thể sử dụng các dịch vụ đặt trước như đặt chỗ khách sạn, đặt vé máy bay, vé xem biểu diễn nghệ thuật, thể thao qua Internet.

- Bốn là khảo sát thị trường. Ví dụ, người ta có thể phát trên Internet các câu hỏi thăm dò thị hiếu và nhu cầu của khách hàng về một số loại sản phẩm nào đó...

- Năm là mục đích kinh doanh quảng cáo. Các công ty cung cấp dịch vụ Internet có thể nhận quảng cáo của các công ty kinh doanh hoặc thương mại trên các trang Internet và thu tiền quảng cáo. Ngoài ra còn có nhiều hình thức kinh doanh trên Internet khác mới xuất hiện như dịch vụ phiên dịch, dạy tiếng Anh hội thoại trên Internet.v.v…

Sự phát triển mạnh của Intemet kéo theo những bước tiến mới trong ngành chế tạo máy tính và đồ điện dân dụng. Kể từ năm 1996, một số hãng máy tính của Nhật Bản như Nippon Computer, Sega Enterprises, Bandai đã tung ra thị trường loại máy tính chuyên dụng cho Internet với giá rẻ có thể sử dụng màn hình tivi trong gia đình. Tiếp đó là loại thiết bị thông tin đầu cuối cầm tay PDA (Personal Digital Assistant) có chức năng trao đổi thư điện tử, có thể xem và thu thập thông tin qua các trang Internet của các công ty và chính phủ. Ngoài ra, người ta cũng đã tiến hành cài đặt chức năng sử dụng Internet trong các sản phẩm đồ điện dân dụng. Đầu tiên là tivi màu có thể nối mạng Internet. Từ mùa Thu năm 1996, các hãng Sanyo, Sharp, Mitsubishi Electronic đã cho ra đời loại sản phẩm này. Các chức năng thông tin của tivi đã được thiết lập sẵn nên có thể sử dụng điều khiển từ xa để đưa trang Internet lên màn hình hay gửi và nhận thư điện tử. Giá thành của loại tivi này đắt hơn so với tivi thông thường nhưng lại rẻ hơn so với máy vi tính.

Cùng với sự bùng nổ của Internet, số người sử dụng mạng máy tính cá nhân cũng ngày càng gia tăng. Tại thời điểm tháng 6 - 1995, tổng số thành viên của 2.617 cơ sở mạng máy tính trên toàn quốc đã lên tới 36.680.000 người (theo điều tra của Hiệp hội phát triển thông tin đa phương tiện), tăng 42% so với cùng kỳ năm trước. Trong số đó, 81% là thành viên của những mạng máy tính có quy mô lớn với hơn một vạn người. Cả hai mạng máy tính lớn như NIFTY - Serve của Fujitsu và PC - VAN của NEC đều có số thành viên trên một triệu người. Sự bùng nổ mãnh liệt này của Internet đã tác động không nhỏ đến ngành sản xuất máy vi tính và điện dân dụng. Gần đây, việc sử dụng mạng Internet đã trở thành động cơ chủ yếu để mua máy tính. Hầu hết các hãng sản xuất máy tính đều có riêng hãng cung cấp dịch vụ Internet hay cùng hợp tác, cài sẵn phần mềm giúp khách hàng có thể ký hợp đồng sử dụng mạng trực tiếp trên máy. Phần mềm Browser cần để đọc thông tin trên mạng Internet cũng được cài đặt sẵn. Mục tiêu của các công ty là tạo điều kiện thuận lợi nhất để khách hàng có thể sử dụng Internet một cách dễ dàng ngay sau khi mua máy tính.

Việc nối mạng qua Internet được thực hiện theo 3 hình thức mang tính cạnh tranh cao. Thứ nhất là dịch vụ thông tin qua Internet sử dụng mạng thông tin được mở rộng từ mạng điện thoại và vô tuyến qua vệ tinh thông tin; thứ hai là dịch vụ thông tin qua Internet sử dụng kênh trống của truyền hình cáp (truyền hình hữu tuyến) và cuối cùng là dịch vụ thông tin qua Internet sử dụng mạng tín hiệu theo từng mục đích của các đoàn thể địa phương, công ty đường sắt và công ty điện lực.

Kể từ năm l997, 5 hãng lớn là Hitachi Cable, Nippon Telecom, Sony Music Entertainment, Tomen và Parallel Technology đã bắt đầu việc chuyển dữ liệu cao tốc bằng vệ tinh thông tin, tốc độ tải thông tin trên Internet đã tăng gấp 6 đến 7 lần so với trước đó. Trên thực tế, các hãng này đã ký hợp đồng sử dụng vệ tinh với công ty vệ tinh thông tin tư nhân lớn nhất thế giới Panamsat. Một công ty thuộc tập đoàn Mitsubishi cũng có dự án tương tự. Vệ tinh thông tin ngày càng được sử dụng làm hạ tầng cơ sở quan trọng cho Internet. Kể từ cuối năm 1996, NTT cũng bắt đầu cung cấp dịch vụ mạng OCN (Open Computer Network) thích ứng với Internet. Đồng thời công ty điện thoại đường dài Daini Denden, đối thủ của NTT cũng có dự án về dịch vụ ODN (Open Data Network). Đặc điểm của những loại dịch vụ này là cước phí liên tục giảm xuống so với Internet nối qua đường điện thoại.

Các hình thức kinh doanh mới về hạ tầng cơ sở của Internet cũng đã ra đời. Kể từ tháng 9 - 1995, hãng truyền hình cáp đô thị lớn nhất là Tokyu Cable Television đã đưa ra dự án nối Internet qua cáp truyền hình. Vào mùa Hè năm 1996, dịch vụ cáp truyền hình mới liên kết với dịch vụ Internet đã ra đời. Hiện nay, hầu như trên khắp các thành phố của Nhật Bản đã có các dịch vụ Internet sử dụng một kênh của truyền hình cáp.

Đặc điểm của dịch vụ Internet qua mạng cáp truyền hình là tốc độ tải thông tin có thể tăng hàng nghìn lần so với tốc độ tải thông tin qua điện thoại. Môi trường thông tin được cải thiện vượt bậc và có khả năng trao đổi cả những thông tin có khối lượng dữ liệu lớn như hình ảnh động, hình ảnh tivi. Hơn nữa giá cả sử dụng dịch vụ Intemet qua cáp truyền hình rẻ hơn rất nhiều, thậm chí chỉ bằng 1/10 so với qua mạng điện thoại. Dịch vụ Internet qua mạng cáp truyền hình đã trở thành một đối thủ cạnh tranh lớn của của dịch vụ OCN của NTT và ODN của Shin Denden.

Ngoài ra, phương pháp sử dụng cáp quang ngầm trong cống thoát nước, men theo đường sắt hay cáp quang liên kết với cáp điện làm đường nối Internet cũng đã được nghiên cứu thành công và đưa vào sử dụng. Rất nhiều doanh nghiệp đã tham gia vào lĩnh vực này. Ví dụ, các công ty điện lực như Công ty điện lực Tokyo, Công ty điện lực Kansai, và các đoàn thể địa phương như tỉnh Okayama, Ibaraki, Kochi cũng đã triển khai các kế hoạch về mạng cáp quang mà trọng tâm là dịch vụ Internet.

Trong cuộc cạnh tranh gay gắt để giành giật thị trường hoặc khách hàng, các doanh nghiệp đã có nhiều cải tiến về mặt kỹ thuật và tìm cách hạ giá thành. Kể từ năm 1997 đến nay, cước phí sử được mạng thông tin của Nhật Bản đã giảm đi đáng kể và nhờ đó, quá trình xã hội hoá thông tin cao độ ở Nhật Bản ngày càng được thúc đẩy mạnh mẽ.

b. Ngành điện tử và điện dân dụng

Ngành sản xuất đồ điện dân dụng của Nhật Bản sau Chiến tranh thế giới thứ hai đã đưa ra thị trường những mặt hàng bán rất chạy như tivi đen trắng, tivi màu, đầu video. Một mặt nhờ nhu cầu tiêu dùng trong nước, mặt khác nhờ khả năng mở rộng xuất khẩu nhanh chóng nên ngành điện tử và điện dân dụng đã phát triển rất vững chắc trong nhiều thập kỷ qua. Tuy nhiên, bước sang thập kỷ 90, với sự suy giảm mạnh về lợi thế cạnh tranh ở trong nước cũng như trên thế giới, ngành điện tử và điện dân dụng đã phải có sự chuyển dịch mạnh về cơ cấu, đặc biệt là trong những năm gần đây. Sự chuyển dịch cơ cấu trong ngành điện tử và điện dân dụng có một số điểm đáng chú ý sau:



Thứ nhất, các ngành sản xuất các sản phẩm truyền thống đẩy mạnh di chuyển ra nước ngoài. Có thể nói rằng trong công nghiệp chế tạo máy, các ngành sản xuất đồ điện dân dụng Nhật Bản là những ngành đặc biệt tích cực trong việc mở rộng sản xuất ra nước ngoài. Do đồng Yên lên giá, giá lao động trong nước tăng, thị trường trong nước bão hoà, xu hướng mở rộng đầu tư sản xuất ra nước ngoài của các công ty sản xuất các mặt hàng điện dân dụng như tivi, đầu video, tủ lạnh, máy giặt... ngày càng tăng. Tốc độ mở rộng sản xuất ra nước ngoài của các ngành này đã được đẩy mạnh kể từ giữa thập niên 80 của thế kỷ XX và tiếp tục tăng mạnh trong những năm 1990 và hiện nay, đặc biệt là sang khu vực Đông Nam Á. Các sản phẩm sản xuất ở nước ngoài không chỉ được tiêu thụ ở nước sở tại, mà còn được xuất khẩu sang các nước khác và nhập khẩu trở lại Nhật Bản. Vì thế, sản xuất ở trong nước đối với một số mặt hàng đã giảm mạnh, thậm chí người ta đã sử dụng từ “trống rỗng” để chỉ một số ngành công nghiệp trong nước của Nhật Bản trong những năm 1990, đặc biệt là các ngành điện tử và điện dân dụng. Ví dụ, tỷ lệ của kim ngạch sản xuất ở nước ngoài trên tổng doanh thu của Hitachi năm 1993 là 38%, năm 1994 là 41%, và cuối năm 1995 là 50%. Chỉ riêng trong lĩnh vực điện dân dụng thì năm 1993 tỷ lệ này là 58%, đến cuối năm 1995 đã là 80%.

Thứ hai, sự ra đời của một số loại sản phẩm mới với chất lượng cao. Trong nhưng năm 1990, ngành điện tử đã cho ra đời một loại sản phẩm mới đã và đang thu hút sự chú ý rất lớn của người tiêu dùng. Đó là đầu và đĩa video kỹ thuật số (DVD - Digital Video Disk). Sản phẩm này cho chất lượng hình ảnh và âm thanh cao hơn rất nhiều so với đầu video chạy băng và được coi là mặt hàng có tính công nghệ cao nhất thế kỷ XX. Vào tháng 11 - 1996, các hãng sản xuất DVD đã đồng loạt tung ra thị trường loại sản phẩm này và đã được đón nhận một cách nồng nhiệt. Đến năm 1997, các hãng lại cho ra đời loại đĩa DVD kiểu mới, có khả năng ghi thông tin bằng máy tính cá nhân. Đĩa DVD có đường kính 12 cm giống như đĩa nhạc CD, nhưng có thể chứa được lượng thông tin lớn vào khoảng 4,7GB so với 0,6GB của CD và có thể ghi được một chương trình phim hoặc ca nhạc trên 2 tiếng đồng hồ với chất lượng hình ảnh và âm thanh cao. Người ta hy vọng rằng, với sự phổ biến nhanh chóng như một đĩa CD - ROM có dung lượng lớn, đĩa DVD sẽ là sản phẩm phục vụ đắc lực cho xã hội đa phương tiện. Cuộc cạnh tranh giữa các công ty trong việc sản xuất đầu đĩa và đĩa DVD cũng đã diễn ra không kém phần quyết liệt so với việc sản xuất đầu và băng video trước đây. Sony và hãng Phillip của Hà Lan đã mở đầu cho cuộc cạnh tranh này. Vào tháng 12 năm 1994, các hãng này đã công bố sản phẩm mới, MMCD (Multimedia CD). Đó là một đĩa dày 1,2mm bằng đĩa CD nhưng có thể ghi được 3,7GB, gấp khoảng 5 lần dung lượng của CD - ROM. Một liên minh gồm 7 công ty khác là Toshiba, Matshushita, Hitachi, Pioneer, Thomson (Pháp), Thime Warner và MCA (Mỹ) đã cho ra đời đĩa SD (Super Density). Đó là một đĩa kép có hai bản mỏng dính vào nhau có thể ghi được cả hai mặt với dung lượng mỗi mặt 5GB. Để tăng cường tính ưu việt cho sản phẩm của mình, hai bên đều liên kết với các công ty lớn sẽ sử dụng đĩa DVD như các hãng điện ảnh lớn của Mỹ và các hãng sản xuất máy tính. Điều này càng đẩy mạnh cuộc cạnh tranh giữa các công ty. Tuy nhiên, kể từ tháng 9 năm 1995, các hãng đã đi đến được một sự thoả thuận về thống nhất tiêu chuẩn chất lượng. Theo sự thoả thuận này, cấu tạo của đĩa tiêu chuẩn giống với đĩa SD ở chỗ là có hai bản dính liền với nhau và mỗi mặt có dung lượng là 4,7 GB nhưng một phần của mạch xử lý các tín hiệu đọc ra từ đĩa lại có cấu tạo theo kiểu đĩa MMCD. Trong quá trình thống nhất sản phẩm, các công ty Nhật Bản đã liên kết và hợp tác chặt chẽ với các công ty Mỹ. Chính vì thế, nhiều vụ mua bán và sáp nhập giữa các công ty của hai nước đã diễn ra, đặc biệt là trong những năm gần đây.

Thứ ba, sự phát triển mạnh của sản xuất máy tính cá nhân, đặc biệt là sau khi hệ điều hành Windows95 được phổ cập vào năm 1995. Số lượng sản xuất máy tính cá nhân ở Nhật Bản năm 1995 đạt mức kỷ lục là 6 triệu 340 nghìn chiếc, tăng 71,5% so với năm 1994. Sự xuất hiện của hệ điều hành Windows95 tiếng Nhật đã thu hút sự chú ý của người sử dụng và vì thế máy tính cá nhân được cài đặt sẵn Windows95 tiếng Nhật đã bán rất chạy ở Nhật Bản.

Hiện nay những máy tính cá nhân xách tay với màn hình tinh thể lỏng màu cũng đang thu hút sự chú ý của khách hàng nhờ giá cả ngày càng hạ. Sự tiện lợi của loại máy này là dễ mang theo nên có thể sử dụng như một máy tính di động khi đi công tác, tham gia các buổi diễn thuyết, hội thảo, hội nghị... Ở Nhật Bản, do vấn đề nhà cửa hạn hẹp, nên những sáng kiến cải tiến nhằm tiết kiệm không gian sử dụng, như máy tính xách tay được đánh giá rất cao. Ngoài ra, gần đây các hãng sản xuất đồ điện lớn đã sản xuất hàng loạt màn hình tinh thể Plasma (PDP) để sản xuất tivi treo tường. Đây là loại tivi có độ dày chỉ vài cm gắn vào tường dùng cho truyền hình có độ nét cao. Sản phẩm này đã có mặt trên thị trường từ năm 1998 - Năm khai mạc thế vận hội mùa Đông Nagano. Cơ chế hoạt động của PDP là làm phát sinh hiện tượng phóng điện ở một lớp khí đặc biệt giữa hai tấm kính mỏng, tia tử ngoại sinh ra tác động lên đèn huỳnh quang làm phát ra 3 màu đỏ, lục, xanh nước biển là những màu cơ bản tạo nên hình ảnh màu của tivi.



Thứ tư, sự phát triển mạnh của việc sản xuất linh kiện bán dẫn. Năm 1995 do nhu cầu máy tính cá nhân tăng vọt và thông tin di động được phổ biến rộng rãi, ngành chế tạo linh kiện bán dẫn của Nhật Bản đã có bước tiến kỷ lục. Giá cả các loại linh kiện bán dẫn ngày càng giảm mạnh, đặc biệt là đối với các linh kiện máy vi tính như DRAM (bộ nhớ) chẳng hạn. Bên cạnh bộ xử lý siêu nhỏ (MPU) là bộ não chính của máy tính cá nhân, bộ nhớ cũng rất cần thiết. Mặt khác, nhu cầu về máy tính nhỏ lắp trong các đồ điện dân dụng như lò vi sóng, nồi cơm điện tự động cũng phát triển rất mạnh. Vì thế, mặc dù kinh tế Nhật Bản suy thoái song sản xuất và nhu cầu về các loại sản phẩm bán dẫn không có dấu hiệu suy giảm.

Các hãng sản xuất đồ điện lớn đã tập trung đầu tư vào việc sản xuất chất bán dẫn. Tổng số tiền đầu tư vào thiết bị trong năm 1995 của 5 hãng lớn là NEC, Fujitsu, Hitachi, Toshiba, và Mitshubishi Electronic đã đạt mức kỷ lục 855 tỷ Yên, tăng 60% so với năm 1994.

Gần đây, nhu cầu về bộ nhớ nháy (Flash memory), một bộ phận chủ yếu của máy tính cá nhân, cũng tăng rất mạnh. Bộ nhớ nháy có ưu điểm hơn so với DRAM ở chỗ nó có khả năng ghi nhớ và xử lý toàn bộ dữ liệu bằng điện nên dù cắt nguồn điện, số liệu vẫn không bị xoá. Hiện nay bộ nhớ nháy đang được sử dụng trong việc ghi nhớ số điện thoại di động hay PHS. So với DRAM thì quy mô thị trường của bộ nhớ nháy lúc đầu còn nhỏ, nhưng cùng với sự phổ cập của điện thoại di động, bộ nhớ nháy đã ngày càng dược sử dụng rộng rãi trong các thẻ nhớ (memory card) cũng như thiết bị thông tin di động đầu cuối và nhờ đó thị trường đã được mở rộng.

Ngoài ra, mạch tích hợp hệ thống (System LSI) cũng được coi là linh hồn của kỹ thuật bán dẫn. Mạch tích hợp hệ thống là khối tập trung chất bán dẫn có nhiều chức năng ở trên bản mạch điện tử. Trong thực tế, mạch tích hợp tập trung nhiều linh kiện bán dẫn cấu tạo nên bộ nhớ hay MPU của đồ điện gia dụng. Thiết bị thông tin vào một vi mạch diện tích chỉ khoảng vài mm2 do đó thúc đẩy việc hạ giá thành, nâng cao tính năng thu nhỏ sản phẩm. Mạch tích hợp hệ thống được coi là LSI cơ sở, không thể thiếu được trong quá trình kết hợp giữa đồ điện dân dụng và thiết bị thông tin như tivi nối mạng Internet chẳng hạn.

Các nhà sản xuất Nhật Bản đã đặt hy vọng rất lớn vào mạch tích hợp hệ thống. Tháng 10 - 1996, công ty Fujitsu đã tiến hành cải tổ trên quy mô toàn công ty các bộ phận mà trước đây đã phân chia theo từng loại sản phẩm như bộ nhớ hay vi mạch lôgíc để tiến hành sản xuất mạch tích hợp. Công ty NEC cũng đã được cải tổ lại từ tháng 7 - 1996, tiến hành kết hợp hai bộ phận sản xuất bộ nhớ và vi mạch lôgíc để sản xuất mạch tích hợp. Các công ty này đã liên doanh với các công ty của Mỹ như Texas, Instruments trong việc sản xuất LSI. Hình thức liên doanh này được đẩy mạnh đặc biệt trong những năm gần đây.


Каталог: uploaded -> 2011
2011 -> Nghị quyết số 49-nq/tw ngàY 02 tháng 6 NĂM 2005 CỦa bộ chính trị VỀ chiến lưỢc cải cách tư pháP ĐẾn năM 2020
2011 -> BỘ giáo dục và ĐÀo tạo viện nghiên cứu phát triểN giáo dụC
2011 -> TÌnh hình và xu thế phát triển giáo dụC ĐẠi họC Ở MỘt số NƯỚc thuộc khu vực châU Á thái bình dưƠNG
2011 -> LUẬt pháp về biển và VÙNG biểN
2011 -> VĂn phòng quốc hộI
2011 -> Nghị quyết số 9-nq/tw ngàY 02 tháng năM 2005
2011 -> MỘt số quy đỊnh của bộ luật tố TỤng hình sự VỀ hoạT ĐỘng đIỀu tra và truy tố ĐỐi với ngưỜi chưa thành niên phạm tộI
2011 -> Nguyên tắc lập luận hợp lý VÀ nguyên tắc VI phạm mặc nhiên trong pháp luật cạnh tranh giới thiệu chung

tải về 1.9 Mb.

Chia sẻ với bạn bè của bạn:
1   2   3   4   5   6   7   8   9   10   ...   30




Cơ sở dữ liệu được bảo vệ bởi bản quyền ©hocday.com 2024
được sử dụng cho việc quản lý

    Quê hương