GIÁO Án kỹ thuật lâm sinh (HỌc phần I)


KỸ THUẬT GÂY TRỒNG MỘT SÓ LOÀI CÂY LẤY GÓ



tải về 1.16 Mb.
trang10/11
Chuyển đổi dữ liệu02.09.2016
Kích1.16 Mb.
#31443
1   2   3   4   5   6   7   8   9   10   11

6.2. KỸ THUẬT GÂY TRỒNG MỘT SÓ LOÀI CÂY LẤY GÓ

6.2.1. Cây Mỡ (Tên khoa học: Manglietia glauca BL.)

6.2.1.1. Giá trị sử dụng

174


Gỗ mỡ có mầu trắng hoặc vàng nhạt, tỷ trọng ở độ ẩm 15% là 0,480. Dăm mịn, ít

co rút nứt nẻ, ít bị mối mọt, chịu được nắng mưa, dễ cưa xẻ, bào trơn, tiện, chạm trổ,

bắt sơn Là loại gỗ tốt được nhân dân ưa chuộng thường được dùng vào nhiều công

việc: Công nghiệp dán lạng, bút chì, bột giây, trụ mỏ, đồ mỹ nghệ, các đồ gia dụng bền

đẹp.

6.2.1.2. Đặc điểm hình thái

Mỡ là cây gỗ thường xanh cao tới 25-30m, đường kính ngang ngực 30cm có thể

tới 50-60cm. Thân tròn rất thẳng, vỏ mầu trắng bạc, thịt màu trắng có mùi thơm, chiều

cao dưới cành đạt tối thiểu 3/4 chiều cao thân. Thân cây đơn trục, một ngọn chính, lúc

non có hình tháp. Cành nhỏ mọc quanh thân. Lá đơn mọc cách, phiến lá hình trứng,

gân nổi rõ ở cả hai mặt, cuống lá mảnh. Hoa lưỡng tính, to, mầu trắng phớt vàng, mọc

đơn độc ở đầu cành. Quả kép hình trụ.

6.2.1.3. Đặc điểm sinh thái

Cho đến nay, Mỡ tự nhiên trong rừng nguyên sinh hầu như không còn, những

quần thụ Mỡ còn gặp đều là thuần loại thứ sinh phục hồi sau nương rẫy và những rừng

trồng. Trong rừng tự nhiên mọc xen với Kháo, Giới, Chờ Nâu, Vạng Trứng,...

Mỡ thích hợp với nhiệt độ trung bình năm 22-240C, tối cao 420C, tối thấp -10C.

Lượng mưa từ 1400-2000mm/năm, độ ẩm không khí trên 80%. Song Mỡ con mới

trồng nếu gặp sương muối, nhiệt độ xuống thấp cũng bị hại, táp lá, héo ngọn.

Mỡ phân bố ở độ cao 300-400m trở xuống, trong các hệ đồi bát úp, sinh trưởng tốt

trên các loại đất feralit đỏ vàng, sâu ẩm, thoát nước, nhiều mùn, phát triển trên phiến

thạch mịch, Gneis, Poócphia. Tốt nhất trên đất rừng vừa mới khai thác xong. Không

trồng được mỡ trên đất cỏ tranh, đồi trọc.

Mỡ khi nhỏ trong 2 năm đầu cần ánh sáng yếu, độ che bóng 40-50%. Là cây chịu

nhiệt kém, vào mùa hè có ánh sáng mạnh cũng cần có độ che bóng thích hợp thì mới

sinh trưởng tốt, thoát hơi nước mạnh.

Lớn lên Mõ đòi hỏi ánh sáng hoàn toàn. Hệ rễ rất phát triển, rễ cọc ăn sâu 2-3m.

Rễ ngang nhiều nhánh, ăn khá dài ra các hướng, song tập trung ở tầng đất mặt trong

khoảng sâu 10 - 13 cm. Mỡ tái sinh tự nhiên ít, chỉ thấy ở nơi có thảm tươi thưa. Có

khả năng tái sinh chồi mạnh ở tuổi rừng non và rừng sào.

Mỡ ra hoa vào tháng 2-4, quả chín vào tháng 8-9, vỏ ngoài mầu đỏ, hạt mầu đen.

* Phân bố

Mỡ phân bố tự nhiên ở Trung Quốc, Lào, ở Việt Nam Mỡ là cây đặc hữu của miền

Bắc Việt Nam. Phân bố ở các tỉnh Yên Bái, Hà Giang, Tuyên Quang, Phú Thọ, Thanh

Hoá, Hà anh, rải rác đến tận Quảng Bình.

6.2.1.4. Kỹ thuật gây trồng

175


* Kỹ thuật thu hái hạt giống

Mỡ trồng 5-6 năm bắt đầu ra hoa, thường thu hái giống ở lâm phần giống từ 8 tuổi

trở lên, chu kỳ sai quả 2-3 năm, ở những năm này tỷ lệ ra hoa đạt 80-90%, số cây đậu

quả 45-50%. Những năm mất mùa tỷ lệ này chỉ đạt 5-10%.

Thời gian thu hái thường từ 30/8-15/9, ở vùng trung tâm có thể sớm hơn 5- 10

ngày.


Chỉ thị độ chín: Khi quả chín thường vỏ có mầu xám với các đốm trắng, ở một số

mắt quả nứt để lộ vỏ hạt đỏ ra ngoài, vỏ hạt bên trong mầu đen và công. Thời gian thu

hái tốt nhất là khi lâm phần có từ 20-30% số cây có vỏ nứt.

Cách thu hái: Trèo lên cây hoặc đứng dưới đất dùng cù nèo móc giật từng quả

chín, tuyệt đối không được bẻ cành.

* Tách hạt ra khỏi quả

Quả sau khi mang về phải phân loại, những quả chưa chín ủ lại thành từng đống từ

2-3 ngày cho quả chín đều, đống ủ không cao quá 50cm, phải thông gió, mỗi ngày đảo

lại một lần. Khi quả chín đem rải đều phơi dưới nắng nhẹ để tách hạt, những hạt chưa

tách ra được có thể dùng que tre để tách lấy hạt. Hạt đỏ sau khi tách mang ngâm vào

nước lã 2-3 ngày khi thấy vỏ ngoài trương lên vớt ra đãi sạch lấy hạt đen. Hạt được

hong khô ở nơi râm mát, khi hạt ráo nước cho vào bảo quản.

Tỉ lệ chế biến: 18-22kg quả/1kg hạt

Trọng lượng 1000 hạt: 39,9g

Số lượng hạt trong lkg: 25000 hạt

Tỷ lệ nảy mầm > 90%

* Bảo quản hạt giống

Bảo quản hạt giống trong cát ẩm ở nhiệt độ bình thường, độ ẩm của hạt khi đem

bảo quản 24-25%, hạt được trộn đều với cát ẩm 15- 16% theo tỷ lệ 1 hạt + 2 cát (theo

thể tích), hạt bảo quản được đánh thành từng luống, không cao quá 20 cm, bề rộng

luống 80-100cm. Không để lượng hạt bị chiếu nắng hoặc mưa dột, trong quá trình bảo

quản 3- 5 ngày đảo lại 1 lần, nếu cát bị khô phải bổ sung thêm nước (sàng tách riêng

hạt và cát).

Phương thức bảo này có thể duy trì sức sống của hạt 1 năm với tỷ lệ nảy mầm suy

giảm 15-20%.

Bảo quản trong túi PE ở nhiệt độ thấp. Độ ẩm của hạt đưa vào bảo quản 18-20%,

hạt đựng trong túi PE hàn kín miệng và được giữ ở nhiệt độ ổn định 5 - 100C, sau 1

năm tỷ lệ nảy mầm suy giảm không đáng kể, phương thức này có thề duy trì sức sống

của hạt vài ba năm.

176


* Kỹ thuật gieo ươm

Nơi chọn đất làm vườn ươm phải đảm bảo các điều kiện sau đây:

Phải tránh được gió hại chính như gió Lào, đồng thời tránh được thung lũng hẹp,

hoặc dễ bị sương muối làm hại cây con. Nơi đất bằng phẳng, thoát nước tốt, gần khu

vực trồng và có đủ lượng nước tưới trong mùa khô.

Đất thuộc loại đất thịt nhẹ hoặc thịt trung bình, lượng mùn trên 2%. Vườn ươm

sau 2 năm sử dụng thì di chuyển vị trí hoặc phải luân canh theo phương thức 2 năm

canh tác 1 năm cho đất nghỉ.

Đất phải cày bừa kỹ trước khi nên luống khử nấm bằng Phoóc môn 1-2,5%, tưới 1

-3 lít/m2 rồi phủ đất 48 giờ để diệt nấm. Đất phải ủ sau 5-10 ngày mới được gieo hạt.

• Xử lý hạt giống

Hạt Mỡ là loại hạt có dầu, vì vậy tuỳ điều kiện thời tiết nóng rét, khô ẩm mà có

thể: hoặc ngâm hạt ở nước ấm 400C để nguội dần trong 4-6 giờ, vớt ra đem ủ trong túi

vải mỗi ngày rửa chua 1 lần, khi hạt nứt vỏ đem gieo. Hoặc ủ hạt trong cát ẩm đến khi

một số hạt nứt nanh thì đem gieo (trước khi gieo hạt phải loại bỏ hạt thối, hạt lép).

• Gieo hạt

Có thể tiến hành gieo hạt trực tiếp vào bầu có kích thước loxi5cm hoặc 7xllcm.

Thành phần ruột bầu 80% đất tầng A+ 20% phân chuồng hoài, hạt gieo giữa bầu,

độ sâu lấp đất từ 0,5- 1cm.

Hoặc gieo hạt trên luống đất theo hàng. Với hạt tốt (tỷ lệ nảy mầm > 70%) mật độ

gieo là 80-120m2/kg. Sau khi gieo cây có 2-3 lá thì tỉa đem cấy (cấy vào bầu hoặc

luống đất) Cấy cây trồng Vụ xuân với cự ly 10x 10cm, cây trồng vụ thu cự ly 10x 15

cm hoặc 20x20cm tuỳ theo thời gian nuôi cây trong vườn ươm.

Thời vụ gieo chính là vào vụ thu hoặc tháng 2-3.

• Chăm sóc cây con

Luống hạt gieo phải tưới đủ ẩm, được che phủ để giữ độ ẩm và giữ độ xốp cho

mặt luống gieo, khi thấy hạt nảy mầm thì phải dỡ vật che phủ rồi tiến hành cắm ràng

ràng hoặc làm giàn che cho cây. Giai đoạn đầu độ che bóng khoảng 50-60%, sau giảm

dần cho đến 1 tháng trước khi đem trồng thì dỡ bỏ hết dàn che.

Tưới nước: Trong 3 tháng đầu sau khi gieo hạt và 15-20 ngày đầu sau khi cấy,

phải tưới nhẹ mỗi ngày 1 lần, về sau tưới ẩm hơn nhưng 2-3 ngày. Tuy nhiên lượng

nước tưới cũng như số lần tưới tuỳ thuộc vào độ ẩm thực tế của đất.

Khi có sương muối xuất hiện vào tháng 1 -2 dương lịch thì phải kịp thời tưới rửa

sương muối cho cây ươm, tưới vào sáng sớm, lượng nước tưới 2-31ít/m2.

Làm cỏ phá váng cho cây theo định kỳ 15 ngày/1ần, không làm tổn thương cây

177


còn non.

Phòng trừ nấm phải đặc biệt chú ý từ lúc cây mới mọc cho đến lúc cây có 4-7 lá.

Khi phát hiện thấy bệnh lở cổ rễ thì phải nhanh chóng nhổ hết và đốt những cây bị

nhiễm bệnh. Đồng thời phun Bước độ với nồng độ 0,5-1% phun 1lít/5m2. Nếu bi sâu

xám thì phun Malathion nồng độ 0,1% với liều lượng llít/5m2.

Đình chỉ chăm sóc cây ươm trước khi đem trồng 1 tháng. Tiêu chuẩn cây con đem

trồng tuỳ thuộc vào thời vụ trồng. Trồng vào vụ Xuân cây con có 4-6 tháng tuổi, có

D00=0,3-0,5 cm, H = 30-40 cm, trồng vào vụ Thu cây có 6-9 tháng tuổi, D00=0,6 -1cm,

H: 60- 100cm. Về chất lượng cây trồng phải đều, có lá xanh nhưng không quá mướt,

thân tương đối cứng, không bị sâu bệnh, phải chọn cây trước khi đem trồng, nếu không

đủ tiêu chuẩn trên thì phải loại.

* Kỹ thuật trồng

Đất trồng Mỡ phải chọn đất ở từng kiệt, rừng mới khai thác trắng, rừng nứa, rừng

nứa xen cây bụi, tầng đất dày, ẩm.

Việc xừ lý thực bì đê trồng Mỡ được quy định như sau:

Nơi đất dốc < 200, địa hình đồi bát úp, khí hậu thuận lợi, thì chặt trắng dọn sạch,

ngay sau khi dọn đất phải tiến hành gieo cây che đất, giữa các băng trồng Mỡ, cây che

đất để cải tạo đất đồng thời hỗ trợ cho cây Mở lúc còn non.

Nơi đất dốc > 200, phát băng theo đường đồng mức, băng chừa.rộng 8-12m trong

băng không để lại những cây to có tán rộng, băng chặt rộng 25-40m để trồng cây. Mỡ

thường được trồng thuần loài, mật độ trồng 2500-3300cây/ha, ở những nơi đất tốt nên

trồng với mật độ thưa hơn nơi đất xấu. Cự ly trồng được quy định nhừ sau: Hàng cách

hàng 2-3m, cây cách cây l,5-2m. Hố để trồng có kích thước 30x30x30cm.

Thời vụ trồng: ớ những nơi đầu năm thời tiết ấm có mưa phùn vụ trồng chính là

Vụ xuân vào những tháng mà lượng mưa đạt > 50mm và đã lớn hvn lượng bốc hơi. Ở

những nơi mà mùa Xuân có thời tiết khô, ít mưa phùn, nhất lại có gió Lào đến sớm thì

thời vụ chính là vụ thu. Ở những nơi mà mùa xuân rất khô, mùa thu kết thúc sớm, mưa

tập trung vào mùa nóng thì trồng cây vào mùa mưa. Trong thời vụ trồng phải chọn

những ngày mưa kéo dài trời râm mát, đất đủ ẩm, không có gió to để trồng.

Chăm sóc rừng trồng trong 3 năm đầu, cũng có thể 4-5 năm. Trồng dặm phải được

thực hiện khi tỷ lệ sống đạt dưới 80-85%. Nếu trồng vào vũ Xuân thì phải trồng ngay

trong vụ thu tiếp theo. Nếu trồng vào vụ thu thì phải trồng vào Vụ xuân năm sau.

Cỡ cây đem trồng dặm phải gần bằng cỡ cây trung bình của rừng.

Nội dung chăm sóc: Năm đầu và năm thứ 2 mỗi năm chăm sóc 2 - 3 lần, năm thứ

3 chăm sóc 1 -2 lần, nếu phải chăm sóc tiếp mỗi năm 1 lần.

Mỡ trong những năm đầu là cây ưa ánh sáng nhẹ, vì thế khi chăm sóc không nên

178

phát quá rộng hoặc đột ngột đề phòng nắng nóng làm cây bị héo.



Mỡ thường bị loài Ong ăn lá Mỡ phá hoại, tuỳ tình hình cụ thể mà mức độ phòng

chống khác nhau: Mức độ nhẹ, chỉ cần xới đất sâu 6-7cm, rộng hơn hình chiếu tán lá

2ó-50cm, những cây bị sâu ăn lá, mỗi năm xới 1-2 lần từ tháng 2 đến thượng tuần

tháng Rừng Mỡ kinh doanh gỗ lớn, trong quá trình nuôi dưỡng nên tỉa thưa 4 lần, lần

tỉa thưa thứ nhất nên tiến hành vào cuối tuổi 4, muộn nhất ở tuổi 7, những lần tỉa thưa

tiếp theo thường sau lần tỉa thưa trước 2-3 năm, lần tỉa thưa thứ 4 nên trước tuổi 15,

cường độ tỉa thưa nên ở trong phạm vi trên dưới 50% số cây có trong lâm phần, ở tuổi

nhỏ tỉa thưa mạnh hơn, sau giảm dần.

Rừng kinh doanh gỗ nhỏ, gỗ làm giấy chỉ nên tỉa thưa 1 lần vào cuối tuổi 4 hoặc

tuổi 5, để lại mật độ 1200 - 1600 cây/ha. Với gỗ nhỏ tuổi khai thác chính nên từ trên 9

tuổi, gỗ làm nguyên liệu giấy nên ở tuổi 9, tuổi 10.

Rừng trồng Mỡ thuần loài thường khai thác trắng, sau đó kinh doanh chồi hoặc

trồng lại rừng.

6.2.2. Bạch đàn Trắng (Tên khoa học: Eucalyptus camaldulensis Dehn)

6.2.2. 1. Giá trị sử dụng

Gỗ của Bạch đàn trắng có thể sử dụng trong xây dựng, đóng đồ mộc, trụ mỏ, làm

nguyên liệu cho công nghiệp giấy, chiều dài sợi Cellulose của Bạch đàn dài từ 0,6-

1,4mm. Lá có thể trưng cất tinh dầu, hoa có mật có thể nuôi Ong.

Là cây trồng rừng gỗ cho công nghiệp, rừng lục hoá, vườn lặng, phòng hộ đồng

ruộng.


6.2.2.2. Đặc điểm hình thái

Bạch đàn là cây gỗ cao tới 25-30m, thân thẳng tròn. Lá đơn mọc cách, tán lá hẹp

và thưa. Vỏ bong mảng, mầu trắng bạc. Hoa tụ sim hai ngả.

6.2.2.3. Đặc điểm sinh thái

Bạch đàn có khả năng tỉa cành tụ nhiên tốt, sinh trưởng tốt trên loại đất bồi ven

sông, đất phù sa, đất Feralite đỏ vàng phát triển trên phiến thạch sét. Thành phần cơ

giới cát pha cho đến thịt nhẹ, dễ thoát nước, độ pH 4-6. Cũng có thể trồng bạch đàn

trên nhiều loại đất khác nhưng trên đất nhiều vôi lá cây thường bị úa vàng, có thể sống

được trên đất cằn cỗi. Có thể trồng ở những nơi có lượng mưa từ 1500-2500mm/năm,

nhiệt độ trung bình tháng lạnh nhất là 150C, tháng nóng nhất 26-290C. Độ cao so với

mực nước biển từ 30-600m.

Bạch đàn là cây ưa ánh sáng hoàn toàn, sinh trưởng nhanh, sinh trưởng liên tục

trong năm, Bạch đàn tăng trưởng không ngừng cả về chiều cao, đường kính và luôn

sản sinh thế hệ cành mới. Hệ rễ rất phát triển, đặc biệt là rễ ngang.

Bạch đàn trắng 3-5 tuổi bắt đầu ra hoa, ra hoa vào tháng 3-4, quả chín vào tháng

179

7-8 (Miền Bắc), tháng 5-6 (Miền Nam), khả năng tái sinh bằng hạt và chồi mạnh.



* Phân bố

Bạch đàn là loài cây đặc trưng ở Australia, phân bố tự nhiên nhiều từ vĩ độ 70N

cho đến 43039'S. Là loài cây đã được gây trồng từ lâu ở nước ta và được trồng ở nhiều

tỉnh trong cả nước.



6.2.2.4. Kỹ thuật gây trồng

Kỹ thuật thu hái hạt giống

Thường thu hái giống ở lâm phần giống từ 8 tuổi trở lên, chu kỳ sai quả 2 năm, ở

những năm này tỷ lệ ra hoa đạt 80-90%, những năm mất mùa tỷ lệ này chỉ đạt 5-10%.

Sản lượng trung bình của lâm phần 10 tuổi là 15kg/ha/năm.

Thời gian thu hái thường từ tháng 7-8 (Miền Bắc), tháng 5-6 (Miền Nam).

Chỉ thị độ chín: Khi quả chín thường Vỏ quả chuyển từ mầu xanh sang đầu quả

mầu nâu thẫm, cuống quả mốc trắng. Hạt mầu nâu thẫm, mày mầu nâu nhạt.

Cách thu hái: Trèo lên cây hoặc đứng dưới đất dùng cù nèo móc giật từng chùm

quả chín, tuyệt đối không được bẻ cành.

* Tách hạt ra khỏi quả

Quả sau khi mang về phải phân loại, những quả chưa chín ủ lại thành từng đống từ

2-3 ngày cho quả chín đều, đống ủ không cao quá 50cm, phải thông gió, mỗi ngày đảo

lại một lần. Khi quả chín đem rải đều trên vải bạt hoặc nong, nia phơi dưới nắng nhẹ 2-

3 nắng để tách hạt, thu hạt hàng ngày. Sau phơi lại 1 -2 nắng, khi hạt đã khô sàng sảy

hết tạp vật thu hạt tốt cho vào bảo quản.

Tỉ lệ chế biến: 7-8kg quả/1kg hạt

Số lượng hạt trong 1kg: 250.000 - 300.000hạt

Tỷ lệ nảy mầm > 90%

Hàm lượng nước: 7-8%

* Bảo quản hạt giống

Hạt giống được bảo quản khô ở nhiệt độ bình thường:

Hạt đựng trong chum vại hoặc thùng gỗ, mỗi thùng đựng 20-30kg hạt, để ở nơi

thoáng mát, độ ẩm của hạt khi đem bảo quản 7-8%. Phương thức bảo này có thể duy

trì sức sống của hạt 10 - 12 tháng.

Nếu được giữ ở nhiệt độ ổn định 5-looc có thể duy trì sức sống của hạt được 2-3

năm.

* Kỹ thuật gieo ươm



Nơi chọn đất làm vườn ươm phải đảm bảo các điều kiện sau đây:

180


Nơi bằng phẳng, thoát nước tốt, gần khu vực trồng và có đủ lượng nước tưới trong

mùa khô. Đất thuộc loại đất cát pha đến thịt nhẹ, lượng mùn trên 2%.

Đất phải cày bừa kỹ trước khi làm luống khử nấm bằng Phoóc môn 1-2,5%, tưới

1- 3 lít/m2 rồi phủ đất 48 giờ để diệt nấm. Đất phải ủ sau 5-10ngày mới được gieo hạt.

• Xử lý hạt giống

Trước khi gieo ngâm hạt ở nước nóng 35- 400C để nguội dần trong 6-8 giờ, vớt ra

để ráo nước đem ủ trong túi vải (mỗi túi ủ từ 2-3 lạng hạt), ngày rửa chua 1 lần, sau 3-

4 ngày hạt nứt nanh đem gieo.

• Gieo hạt

Có thể tiến hành gieo hạt vào khay đã chuẩn bị sẵn có chứa 1 lớp đất mặt vườn

ươm hoặc đất mùn Ràng ràng, dày 3-4cm, sau 5-6 ngày khi cây mầm cao 2-3cm nhổ

cấy vào bầu, trước khi cấy phải tưới nước cho bầu đủ ẩm. Bầu có kích thước 7x12cm.

Thành phần ruột bầu 80% đất tầng A+ 20% phân chuồng hoài, những nơi gần rừng,

hỗn hợp ruột bầu có thể lấy lớp đất mặt của đất rừng trộn thêm 1 % supe lân. Thời vụ

gieo tháng 2-3 và tháng 9-10, thời gian nuôi cây trong vườn 3-4 tháng.

Hoặc gieo hạt trên luống đất, sau khi gieo cây có 2-3 lá thì tỉa đem cấy

• Chăm sóc cây con

Tưới nước: Trong 3 tháng đầu sau khi gieo hạt và 15-20 ngày đầu sau khi cấy,

phải tưới mỗi ngày 1 lần, lượng nước tưới 4-5 lít/m2. Tuy nhiên lượng nước tưới cũng

như số lần tưới tuỳ thuộc vào độ ẩm thực tế của đất.

Khi có sương muối xuất hiện vào tháng 1 -2 dương lịch thì phải kịp thời tưới rửa

sương muối cho cây ươm, tưới vào sáng sớm, lượng nước tưới 2-31ít/m2.

Làm cỏ phá váng cho cây theo định kỳ 15 ngày/1ần, không làm tổn thương cây

còn non và tưới nước phân chuồng hoài hoặc NPK pha loãng 1%. Nếu thấy cây bị

vàng còi hoặc bạc lá dùng sulphat đạm và supelân để tưới cho cây, pha nồng độ 0,1 -

0,2% tưới 2,5lít/m2 hai ngày tưới 1 lần. Sau khi tưới nước phân phải tưới rửa lá bằng

nước 1ă. Phòng trừ bệnh lở cổ rễ cho cây con bằng thuốc Benlate (1g/10lít nước) phun

đều trên mặt luống theo định kỳ. Nếu bệnh xuất hiện thì phải nhanh chóng nhổ hết và

đốt những cây bị nhiễm bệnh. Đồng thời phun Benlate với nồng độ 6g/10 lít nước

phun cho 100m2 một tuần 2 lần. Phun liên tục trong 2-3 tuần. Nếu bị sâu xám thì phun

Malathion nồng độ 0,1% với liều lượng 1lít/5m2.

Đình chỉ chăm sóc cây ươm trước khi đem trồng 1 tháng. Tiêu chuẩn cây con đem

trồng có D00 = 0,3-0,4cm, H = 25-50cm. Về chất lượng cây trồng phải đều, cỏ lá xanh

nhưng không quá mướt, thân tương đối cứng, không bị sâu bệnh, phải chọn cây trước

khi đem trồng, nếu không đủ tiêu chuẩn trên thì phải loại.

* Kỹ thuật trồng

181

Đất trồng Bạch đàn phải được phát thực bì sạch, dọn theo băng. Băng dọn sạch



im, băng chừa để cành nhánh rộng 2m, băng dọn theo đường đồng mức.

Nơi đất dốc < 150, địa hình thuận lợi có thể làm đất toàn diện.

Nơi đất dốc > 150, phát băng theo đường đồng mức, làm đất cục bộ theo hố, hố có

kích thước 30x30x30cm. Nếu trồng thâm canh thì hố có kích thước 40x40x40cm. Lấp

hố trước khi trồng 10- 15ngày, bón lót bằng phân supelân với 75g/hố trước khi trồng 1

tuần.


Bạch đàn thường được trồng thuần loài, mật độ trồng 2000- 2500cây/ha. Nếu

trồng thâm canh thì mật độ 1111 cây/ha, cự ly trồng 3x3m.

Thời vụ trồng: ớ những nơi đầu năm thời tiết ấm có mưa phùn vụ trồng chính là

Vụ xuân vào những tháng mà lượng mưa đạt > 50mm và đã lớn hơn lượng bốc hơi. Ở

những nơi mà mùa Xuân có thời tiết khô, ít mưa phùn, nhất lại có gió Lào đến sớm thì

thời vụ chính là vụ thu.

Ở những nơi mà mùa xuân rất khô, mùa thu kết thúc sớm, mưa tập trung vào mùa

nóng thì trồng cây vào mùa mưa. Trong thời vụ trồng phải chọn những ngày mưa kéo

dài trời râm mát, đất đủ ẩm, không có gió to để trồng.

Chăm sóc thông thường trong 3 năm đầu, cũng có thể 4-5 năm.

Trồng dặm phải được thực hiện khi tỷ lệ sống đạt dưới 80-85%. Nếu trồng vào Vụ

xuân thì phải trồng ngay trong vụ thu tiếp theo. Nếu trồng vào vụ thu thì phải trồng

vào Vụ xuân năm sau. Cỡ cây đem trồng dặm phải gần bằng cỡ cây trung bình của

rừng. Nội dung chăm sóc: Năm đầu và năm thứ 2 mỗi năm chăm sóc 2 - 3 lần, năm thứ

ba 12 lần, nếu phải chăm sóc tiếp mỗi năm 1 lần.

Kinh doanh rừng chồi thường được áp dụng cho làng trồng Bạch đàn. Có thể cung

cấp khối lượng gỗ cho trụ mỏ, gỗ ván dầm, gỗ bột giấy, gỗ cột, củi cho công nghiệp và

đồ gia dụng.



6.2.3. Cây Bồ đề (Tên khoa học: Styrax tonkinensis Pierre)

6.2.3.1. Giá trị sử dụng

Gỗ Bồ đề mềm và nhẹ, thớ mịn và đều, co ít, dễ xẻ, dễ chẻ nhỏ, bóc thành những

tấm mỏng, không bị cong vênh, song dễ gãy. Gỗ Bồ đề đồng nhất, không có lõi, tỷ lệ

vỏ thấp, rất thuận tiện trong công nghiệp giấy. Hiện nay Bồ đề chủ yếu dùng trong

công nghiệp giấy và làm diêm.

Gỗ thân cây Bồ đề còn tiết ra nhựa thơm khi cây bị tổn thương do một nguyên

nhân nào đó (Sâu đục, vết dao chém,...).nhựa chảy ra thành giọt màu trắng sau đọng lại

thành từng miếng mầu vàng nhạt rồi xúm lại. Nhựa này có tên là gọi là cánh kiến

trắng, là nguyên liệu được dùng trong y học, chế biến định hương trong nghề làm nước

hoa, chống ôi khét bảo quản mỡ béo, điều chế axit benzoic, trong công nghiệp chế biến

182

véc ni và một số loại sơn đặc biệt.



Là cây trồng trong cải tạo rừng và vườn rừng.

6.2.3.2. Đặc điểm hình thái

Bồ đề là cây trung bình, cao tới 1 8-20m, đường kính ngang ngực 20-25cm. Thân

màu trắng tương đối tròn, vỏ mỏng mầu mốc trắng, tán rộng và thưa, lá mặt trên màu

xanh mặt dưới màu trắng bạc. Rễ cọc phát triển yếu, ngược lại hệ rễ bàng phát triển

mạnh và tập trung trên 80% ở tầng đất mặt 0-20cm, do vậy độ phì tầng đất mặt có ý

nghĩa rất lớn đối với sinh trưởng và phát triển của Bồ đề.



6.2.3.3. Đặc điểm sinh thái

Bồ đề Là cây ưa sáng hoàn toàn, chịu nhiệt kém, ở nhiệt độ 600C lá non bị phá

huỷ hoàn toàn, thoát hơi nước mạnh. Bồ đề có thời kỳ tung lá, ngừng sinh trưởng vào

khoảng từ tháng 11- 12 đến tháng 1 - 2. Là loài cây sinh trưởng nhanh chu kỳ khai thác

ngắn. Thích hợp với nhiệt độ trung bình năm 19-230C, sống được ở nơi có nhiệt độ 15-

260C. Có thể chịu được nhiệt độ tối cao tuyệt đối 450C, tối thấp -40C nhưng chỉ trong

thời gian ngắn. Lượng mưa từ 1500-2000mm/năm, tốt nhất là trên 1700mm, không có

tháng khô hạn rõ rệt hoặc mùa khô không kéo dài quá 3 tháng. Độ ẩm không khí trung

bình 85- 88%, không có hoặc ít chịu ảnh hưởng của gió nóng (Tây Nam). Bồ đề tái

sinh tự nhiên tốt trên đất sau nương rẫy, rừng mới bị tàn phá để đất trống, mọc xen với

nứa, cây gỗ, có khả năng chịu rét tốt.

Bồ đề đòi hỏi đất tốt, tầng đất sâu ẩm, còn tính chất đất rừng, mọc tốt trên đất

Feralit vàng hoặc đỏ vàng phát triển trên đá phiến thạch sét, phiến thạch mịch, có độ

pa trung tính. Không thích hợp với đất xấu, trũng úng, đất đá vôi, đất cát, đá ong.

Bồ đề có 2 loại: Loại nhiều nhựa có vỏ dầy mầu lâu sẫm, gỗ phớt hồng thường

gặp ở rừng già, mọc ở độ cao 700-800m, lên cao 1500 -1600 vẫn gặp Bồ đề nhưng

mọc rải rác. Loại ít nhựa vỏ mầu trắng, nứt nông, gỗ trắng mềm, thường thấy sau

nương rẫy, mọc ở độ cao 150-300m.

Bồ đề ra hoa vào tháng 3-4, quả chín vào tháng 8-9.

* Phân bố

Bồ đề mọc tự nhiên ở Trung Quốc, Lào, Việt Nam. Là loài cây đặc hữu cửa Miền

Bắc Việt Nam, có diện phân bố tương đối rộng ở nhiều vùng từ Tây Bắc, Việt Bắc

xuống đến.miền tây Thanh Hoá và còn lác đác đến biên giới Nghệ An -Lào. Thường

gặp phổ biến ở các tỉnh như Tuyên Quang, Yên Bái, Phú Thọ, Lạng Sơn, Thái

Nguyên, Bắc Kạn, Hoà Bình, Sơn La, Hà Giang, Cao Bằng,... Bồ đề được trồng ở

vùng trưng tâm nhiều năm nay.



6.2.3.4. Kỹ thuật gây trồng

* Kỹ thuật thu hái hạt giống

183

Cây trồng 4-5 năm bắt đầu ra hoa, thường thu hái giống ở lâm phần giống từ 6



tuổi trở lên, chu kỳ sai quả 2-3 năm, ở những năm này tỷ lệ ra hoa đạt 80-90%, số cây

đậu quả 45-55%, những năm mất mùa tỷ lệ này chỉ đạt 5-10%. Sản lượng trung bình

của lâm phần 8 tuổi là 500kg/ha/năm.

Thời gian thu hái thường từ 30/8-15/9, ở vùng trung tâm có thể sớm hơn 5- 10 ngày.

Chỉ thị độ chín: Khi quả chín vỏ chuyển từ mầu xanh sang màu vàng nhạt, mốc

trắng có vết rạn nứt theo tâm bì, bóp mạnh Vỏ quả dễ tách ra, hạt bên trong có mầu

đen và cứng. Dùng cù nèo hoặc tay bẻ những cành nhỏ dưới lcm có quả.

* Tách hạt ra khỏi quả

Quả sau khi mang về phải phân loại, những quả chưa chín ủ lại thành từng đống từ

2-3 ngày cho quả chín đều, đống ủ không cao quá 50cm, phải thông gió, mỗi ngày đảo

lại một lần. Khi quả chín nếu bảo quản bằng hạt thì xát nhẹ để tách hạt ra khỏi vỏ, sau

sàng lấy hạt.

Tỉ lệ chế biến 3kg quả/1kg hạt

Trọng lượng 1000 hạt: 148,3g

Số lượng hạt trong lkg: 7000 - 8000hạt

Tỷ lệ nảy mầm > 80%

Độ thuần > 95%

* Bảo quản hạt giống

Bảo quản hạt trong cát ẩm ở nhiệt độ bình thường, có thể bảo quản nguyên quả

hoặc hạt. Quả sau khi thu hái về đã chín đều, loại bỏ cành, lá, tạp vật hong nơi thoáng

mát 2- 3 ngày cho se Vỏ quả sau đưa vào bảo quản, nếu bảo quản bằng hạt thì xát lấy

hạt và cho vào bảo quản. Độ ẩm của hạt khi đem bảo quản 24-25%, hạt được trộn đều

với cát ẩm 20-22% theo tỷ lệ 1 hạt + 2 cát (theo thể tích), hạt bảo quản được đánh

thành từng luống, không cao quá 50 cm, bề rộng luống 80-loocm. Không để luống hạt

bị chiếu nắng hoặc mưa dột, trong quá trình bảo quản 15-20ngày đảo lại 1 lần, nếu cát

bị khô phải bổ sung thêm nước (sàng tách riêng hạt và cát). Phương thức đảo này có

thể duy trì sức sống của hạt 1 năm với tỷ lệ nảy mầm suy giảm 15 -20%.

Bảo quản trong túi PE ở nhiệt độ thấp. Độ ẩm của hạt đưa vào bảo quản 1 8-20%,

hạt đựng trong túi PE hàn kín miệng và được giữ ở nhiệt độ thấp, sau 1 năm tỷ lệ nảy

mầm suy giảm không đáng kể.

* Kỹ thuật gieo ươm

• Xử lý hạt giống

Hạt Bồ đề là loại hạt có dầu, trước khi gieo hạt ngâm hạt ở nước ấm 400C để

nguội dần trong 6-8 giờ, vớt ra đem ủ trong túi vải mỗi ngày rửa chua 1 lần, khi hạt

184

nứt nanh đem gieo.



• Gieo hạt

Có thể tiến hành gieo hạt trực tiếp vào bầu có kích thước 7x12cm. Thành phần

ruột bầu 80% đất tầng A+ 20% phân chuồng hoài, hạt gieo giữa bầu, độ sâu lấp đất từ

0,5- 1cm.

Thời vụ gieo vào tháng 2-3 hoặc tháng 9-10, thời gian nuôi cây trong vườn ươm

6-7 tháng.

• Chăm sóc cây con

Luống hạt gieo phải tưới đủ ẩm, được che phủ để giữ độ ẩm và giữ độ xốp cho

mặt luống gieo.

Tưới nước: Trong 3 tháng đầu sau khi gieo hạt phải tưới nhẹ mỗi ngày 1 lần, về

sau tưới ẩm hơn nhưng 2-3 ngày tưới 1 lần. Tuy nhiên lượng nước tưới cũng như số

lần tưới tuỳ thuộc vào độ ẩm thực tế của đất.

Làm cỏ phá váng cho cây theo định kỳ 15 ngày/1ần, không làm tổn thương cây

còn non. Kết hợp tưới nước phân chuồng hoài hoặc phân NPK pha loãng 1 %. Cây

trong vườn ươm cần được che bóng, độ che thích hợp 50% ánh sáng tự nhiên.

Phòng trừ bệnh lở cổ rễ cho cây con bằng thuốc Bước đô pha với nồng độ 0,5-1%,

phun 1 lít/5m2 cây. Nếu bị sâu xám thì phun Malathion (Lythion - 25WP) nồng độ

0,1% với liều lượng 1lít/5m2.

' Đình chi chăm sóc cây ươm trước khi đem trồng 1 tháng. Tiêu chuẩn cây con

đem trồng có Dao = 0,5-0,7cm, H: 50cm. Về chất lượng cây trồng phải đều, có lá xanh

nhưng không quá mướt, thân tương đối cứng, không bị sâu bệnh.

* Kỹ thuật trồng

- Chuẩn bị đất trồng Bồ đề:

Thực bì được phát trắng, đốt dọn sạch như sau:

Trên đồi bát úp, dốc ngắn, phát trắng toàn bộ, trên đồi dốc >250 cần chừa lại dải

tầng trên đỉnh rộng ít nhất lom mỗi bên sườn. Sườn dốc dài > mồm cần chừa lại những

băng theo đường đồng mức, băng chừa rộng 6-10m, băng chặt rộng 50-60m để trồng

cây Đốt trước lúc cuốc hố 10- 15 ngày.:

- Trồng rừng: Có thể trồng Bồ đề bằng gieo hạt thẳng, trồng bằng cây con có bầu,

trồng bằng cây thân cụt.



+ Gieo hạt thẳng

Hố đào có kích thước: 20x20x20cm. Sau khi cuốc hố tiến hành gieo hạt ngay, mỗi

hố gieo 5-6 hạt đặt cách nhau 5cm, lấp đất dầy 2cm. Mật độ từ 2000-3300 hốlha tuỳ

theo độ tốt xấu của đất, ở những nơi đất tốt nên trồng với mật độ thưa hơn nơi đất xấu.

185

+ Trồng bằng cây con có bầu

Hố trồng có kích thước 30x30x30cm. Thời vụ gieo từ tháng 1 đến tháng 3 thường

được trồng thuần loài, mật độ trồng 2500-3300cây/ha, ở những nơi đất tốt nên trồng

với mật độ úluđ hơn nơi đất xấu. Cự ly trồng hàng cách hàng 2-3m, cây cách cây l,5-

2m. Nếu trồng thâm canh mật độ có thể 1660 hố/ ha (cự ly 3x2m).

+ Trồng cây thân cụt: Cây thân cụt được lấy từ cây gieo ươm có đủ các tiêu chuẩn

sau: tuổi từ 10- 12 tháng, cao 1,2- 1,5m, đường kính gốc 1 -2cm. Cắt bỏ thân, để lại

một đoạn dài 3-5cm tính từ cổ rễ. Khi trồng không để rễ bị cong, lấp đất kín cổ rễ, chỉ

để chừa lại thân trên 2-3cm. Hố rộng 35-40cm, sâu 30cm. Thời vụ trồng vào tháng 1-2,

trong thời vụ trồng phải chọn những ngày mưa kéo dài trời râm mát, đất đủ ẩm, không

có gió to để trồng.

- Chăm sóc rừng non: Trồng dặm phải được thực hiện khi tỷ lệ sống đạt dưới 80-

85%. Nếu trồng vào Vụ xuân thì phải trồng ngay trong vụ thu tiếp theo. Nếu trồng vào

vụ thu thì phải trồng vào Vụ xuân năm sau. Cỡ cây đem trồng dặm phải gần bằng cỡ

cây trung bình của từng.

Chăm sóc trong 3 năm:

+ Năm đầu chăm sóc 4 lần:

Lầm: Với gieo hạt thẳng, sau khi gieo 1 tháng phải tiến hành trồng dặm nếu tỷ lệ

sống < 85%.

Nếu trồng bằng cây con có bầu sau khi trồng 15-20 ngày làm cỏ và xới nhẹ xung

quanh gốc cây. Nếu trồng thân cụt thì tỉa chồi chỉ để lại 1 -2 chồi khoẻ/cây.

Lần 2: Khi cây cao 25-30cm, phát cỏ dại cây bụi, mức độ tuỳ thuộc vào tình hình

sinh trưởng của cây con. Chỉ để lại 1 chồi khoẻ/cây (với cây thân cụt).

Lần 3: Khi cây cao 60-70cm, phát cỏ dại cây bụi, dây leo, tỉa chỉ để lại 1 cây/hố

(với gieo thẳng)

Lần 4: Chăm sóc vào tháng 10-11, phát cỏ dại, dây leo, xới đất vun gốc xung

quanh cây với đường kính 60cm.

Năm thứ hai: Cây trồng gần khép tán, chăm sóc 2 lần. Chặt bỏ dây leo, cây bụi,

xới đất vun gốc.

Năm thứ ba: Chặt dây leo, tỉa hạ bớt mật độ (nếu cần). Chặt bỏ cây sâu bệnh, để

lại những cây tái sinh không ảnh hưởng đến Bồ đề.



tải về 1.16 Mb.

Chia sẻ với bạn bè của bạn:
1   2   3   4   5   6   7   8   9   10   11




Cơ sở dữ liệu được bảo vệ bởi bản quyền ©hocday.com 2024
được sử dụng cho việc quản lý

    Quê hương