Bài 7: Kỹ thuật trồng cây lát Mexico
I. GIÁ TRỊ KINH TẾ
- Gỗ có thớ mịn, mầu hồng nhạt, gỗ già có vân như gỗ lát hoa, nhưng vân to và thưa hơn. Gỗ chứa dầu nên không mối mọt và độ bền nấm mục cao, ít cong vênh nứt nổ.
- Dùng xẻ ván, làm ván ghép thanh, làm nguyên liệu gỗ bóc, làm ván lạng trang trí nội thất được dùng phổ biến trong nghề mộc và xây dựng cơ bản.
II- ĐẶC ĐIỂM SINH THÁI
- Ưa sáng hoàn toàn từ giai đoạn vườn ươm, ánh sáng càng đủ tăng trưởng càng mạnh.
- Ưa đất giàu can xi, ưa đất ít chua, phù hợp với trồng rừng trên vùng đá vôi.
- Ưa đất ẩm nhưng thoát nước tốt, tầng đất dày. Rất phù hợp với đất phát triển trên Bazan, phù sa, bồi tụ, chân sườn núi đá vôi, đất thịt nhẹ phát triển trên đá Mi-ca-sít và đá gneis. Với đất phát triển trên các đá mẹ khác cần tăng cường phân bón và can xi.
- Có thể gây trồng thuần loại hoặc tạo rừng hỗn giao.
- Rất ưa khí hậu nóng, ẩm.
- Rụng lá vào mùa lạnh, nhưng cây non rất ít rụng lá và vẫn tăng trưởng với nhịp độ yếu hơn.
- Rụng lá hoàn toàn nếu đất và khí hậu khô hạn dài ngày. Gặp hoàn cảnh khắc nghiệt có thể rụng lá hoàn toàn mà không chết, có thể qua đông trong băng giá.
- Có thể gây trồng trên mọi địa hình ở Việt Nam.
III- KỸ THUẬT GÂY TRỒNG
1. Tạo cây con
a, Bảo quản hạt
Bảo quản khô và mát. Thời hạn bảo quản không dài, cần tiến hành gieo ươm càng sớm càng tốt, vì hạt giống rất nhanh mất sức nẩy mầm.
b, Xử lý hạt giống
Đổ hạt vào nước 2 sôi 3 lạnh (khoảng 500 C) với trọng lượng nước gấp đôi trọng lượng hạt. Khuấy đều liên tục trong 5 phút rồi ngâm 12 giờ cho hạt hút no nước. Sau khi vớt ra, đợi róc hết nước rồi trộn tro bếp để khử chua, làm cho hạt rời rạc dễ gieo rồi đem gieo ngay.
c, Gieo hạt
- Gieo trên luống nền cứng
+ Bể cần đảm bảo tiêu nước tốt. Dùng cát sạch và hơi thô phủ đáy bể dày 12-15 cm. Chuẩn bị thuốc tím 0,1% để sát trùng (1g thuốc tím/1lít nước) nhằm diệt nấm khuẩn và động vật có hại. Nếu cát ẩm ướt cần tăng nồng độ thuốc tím lên gấp đôi (2g/lít). Dùng thùng hoa xen tưới đều thuốc tím lên mặt cát đảm bảo làm ướt đẫm 1 lớp cát dày 5-6 cm.
+ Sau 36 đến 48 giờ, dùng thùng hoa xen tưới nước sạch với lượng nước gấp đôi lượng dung dịch thuốc tím đã dùng để đẩy tầng thuốc tím xuống lớp cát dưới. Việc này cần được thực hiện trước để đảm bảo có thể gieo hạt ngay sau khi xử lý.
+ Rải hoặc đặt hạt đều trên mặt cát, dãn cách bình quân 1,0-1,5 cm, sàng phủ lên hạt 1 lớp cát dày 1cm đã xử lý thuốc và tráng rửa sạch như cách nói trên. Phun mù hoặc tưới ẩm bằng vòi hoa xen mỗi ngày từ 1 đến 2 lần.
+ Phủ vòm nilon hoặc lưới che râm đảm bảo giữ ẩm, tránh mưa xối, tránh nắng nóng quá mức và đặc biệt là phải đảm bảo ngăn chặn chuột, sâu, ốc sên, dế mèn phá hại mầm non. Vòm ni lon hoặc lưới che dâm phải được phủ tới rãnh luống và được chèn chặt bằng đất, cát, gỗ, gạch v.v... đảm bảo ngăn chặn được tác hại của động vật .
+ Nếu không có lưới che râm, phía trên vòm ni lon, cần phủ thêm cành cây, ràng ràng, lá chuối, tàu dừa v.v... để giảm bớt nắng nóng buổi trưa.
- Gieo trên luống nền mềm:
+ Áp dụng cho trường hợp không có luống gieo ươm nền cứng.
+ Cần loại trừ hoàn toàn nguy cơ phá hoại mầm non của sên, ốc sên, sâu xám, dế mèn v.v... bằng cách trên diện tích chuẩn bị làm luống gieo hạt và khu vực chung quanh rộng 2m cần xử lý bằng vôi bột với liều lượng 0,4-0,5 kg/m2 rải đều trên bề mặt. Sau 4-5 ngày, cầy hoặc cuốc rồi đánh thành luống rộng 1,0m ; cao 0,3 m đảm bảo tiêu nước tốt. Theo dõi sát tổ dế mới đào để tiêu diệt kịp thời.
+ Tưới đẫm mặt luống rồi phủ 1 lớp dày 3cm bằng cát có cỡ hạt trung bình đến hơi mịn đã được om 48 giờ bằng thuốc tím 0,1% và tráng rửa bằng nước sạch.
+ Gieo hạt vừa xử lý xong với mật độ như gieo trên nền cứng, phủ cát đã xử lý thành lớp dày 1cm rồi tưới ẩm.
+ Phủ vòm ni lon hoặc lưới che râm, mép vòm xuống tới rãnh luống, lấp đất lên mép vòm để làm kín, đảm bảo chống chuột và sên, dế mèn. Nếu có nguy cơ nắng nóng gay gắt cần ngăn nắng bằng phên, cành lá cây như trên.
+ Rải hoặc đặt hạt đều trên mặt cát, dãn cách bình quân 1,0-1,5 cm, sàng phủ lên hạt 1 lớp cát dày 1cm đã xử lý thuốc và tráng rửa sạch như cách nói trên. Phun mù hoặc tưới ẩm bằng vòi hoa xen mỗi ngày từ 1 đến 2 lần.
d- Tiêu chuẩn cây xuất vườn
- Có thể trồng rừng bằng cây con rễ trần 5-6 tuần tuổi, cao 20-25 cm nếu thời tiết hoặc đất trồng đủ ẩm ướt ; cũng có thể đánh trồng thành công với cây con rễ trần 1-2 năm tuổi cao 2-3m hoặc lớn hơn. Với trường hợp thứ nhất phải tăng công chăm sóc làm cỏ xới đất, trường hợp thứ hai chỉ áp dụng khi lỡ mùa vụ hoặc trồng với tre, luồng, trồng cây phân tán.
- Tuổi và kích thước cây xuất vườn chủ yếu quyết định bởi khoảng cách thời gian từ khi gieo ươm đến mùa vụ trồng rừng thuận lợi nhất.
- Tiêu chuẩn xuất vườn tốt nhất với cây con là đường kính gốc khoảng 1cm, cao 30-40 cm và phần gốc đã bắt đầu hoá gỗ.
2- Kỹ thuật trồng.
a. Chuẩn bị đất trồng
- Phát dọn và đốt sạch thực bì.
- Cuốc hố với quy cách hố 50 x 50 x 50 cm.
- Khi đào hố cần đặt riêng rẽ lớp đất mặt và lớp đất sâu bên miệng hố. Khi lấp hố cần đưa lớp đất mặt xuống trước và lớp đất sâu xuống sau.
- Bón lót : Trộn 200 - 300g vôi bột với lớp đất lót đáy hố và trộn 50-100g NPK với lớp đất lấp phần trên hố. Nếu có điều kiện, có thể tăng cường thêm 100 - 200g Super phốt phát và 3-5 kg phân chuồng hoặc các loại phân hữu cơ khác.
- Trong điều kiện trồng rừng tập trung và chủ động được kế hoạch, việc chuẩn bị đất trồng cần thực hiện đào hố trước khi trồng cây ít nhất là 3 tháng, phơi ải ít nhất 2 tháng rồi lấp hố.
b. Mùa trồng
- Nếu dùng cây gieo ươm từ vụ hạt năm trước, mùa trồng tốt nhất với các tỉnh Bắc bộ và Bắc Trung bộ là đầu xuân (trước sau tết âm lịch). Với Nam bộ và Tây Nguyên, mùa trồng tốt nhất là đầu mùa mưa.
- Có thể dùng cây gieo ươm từ vụ hạt cùng năm với ít tháng tuổi và kích thước nhỏ, nhưng việc trồng cây phải hoàn tất ít nhất là 2 tháng trước khi mùa mưa kết thúc cho cây kịp phát triển hệ rễ và thân cây hoá gỗ đầy đủ.
- Trồng cây vào ngày có mưa hoặc râm mát, chỉ được phép trồng khi đất trong hố đã đủ ẩm ướt.
c. Kỹ thuật trồng cây
- Moi đất trên hố đã lấp với kích thước vừa đủ để đặt bộ rễ. Đặt cây thẳng đứng, đặt rễ trải đều trong hố rồi lấp nhẹ bằng đất tơi xốp. Rung lắc thân cây cho đất lọt vào khoảng giữa các sợi rễ, lấp tiếp 1 lớp đất ẩm rồi dẫm đều chung quanh gốc cây. Cuối cùng phủ lên 1 lớp đất tơi xốp và cỏ rác để ngăn mưa xối và giảm bốc hơi.
- Xẻ rãnh tiêu úng cho mặt hố.
d. Chăm sóc và bón thúc
- Phải đảm bảo chăm sóc trong 2-3 năm đầu, đặc biệt là trong năm đầu và với trường hợp trồng cây kích thước nhỏ, ít tháng tuổi.
- Năm đầu chăm sóc 2 đến 3 lần. Nội dung chủ yếu là rẫy cỏ xới đất trên bán kính 50-60 cm chung quanh gốc và phát sạch thực bì chèn ép.
- Năm thứ 2 chăm sóc 1 đến 2 lần, rẫy cỏ xới đất trên bán kính 1m quanh gốc và phát dọn thực bì chèn ép, cùng với lần chăm sóc xới đất đầu tiên, cần bón thúc cho mỗi gốc 20-30g NPK.
- Năm thứ 3 chăm sóc 1 lần, chủ yếu là phát dọn thực bì chèn ép.
- Cần tích cực trồng xen đậu lạc để kết hợp chăm sóc rừng trồng.
Lát Mexico 1 tuổi tại Bình Dương
đ. Bảo vệ rừng
- Cần giải quyết tốt vấn đề phòng chống lửa rừng, đặc biệt là với các tỉnh phía Nam.
Chương VI
KỸ THUẬT GÂY TRÒNG
MỘT SÓ LOÀI CÂY THÔNG DỤNG
6.1. KỸ THUẬT GÂY TRÒNG MỘT SÓ LOÀI CÂY ĐẶC SẢN RỪNG VÀ
CÂY LẤY QUẢ
6.1.1. Cây Quế (Tên khoa bọc: Cinnamomum cassia Neesex Blume)
6.1.1.1. Giá trị sử dụng
Quế là cây đặc sản có giá trị, lá, hoa và vỏ Quế dùng để sản xuất tinh dầu. Tinh
dầu Quế dùng trong công nghiệp dược phẩm, thực phẩm và là nguyên liệu quý dùng
để xuất khẩu.
Gỗ lúc nhỏ có thể làm gỗ trụ mỏ, gỗ lớn dùng trong xây dựng, có thể làm gỗ dán
lạng, vỏ bút chì, hoặc làm nguyên liệu giấy và các đồ mộc thông thường. Là cây trồng
trong cải tạo rừng và vườn rừng.
6.1.1.2 Đặc điểm hình thái
Cây thân gỗ sống lâu năm, cao trung bình 18 - 20m, đường kính ngang ngực có
thể tới 40-45 cái, thân thẳng tròn, tán lá tương đối hẹp, vỏ mầu xám nâu, vỏ và lá có
mùi thơm dễ chịu.
Lá đơn mọc cách hoặc gần đối, thuôn dài có thể tới 20 cái, rộng 4-6cm, phiến lá
cứng có ba đường vân đặc trưng của lá quế.
Hoa tự chùm sim, đầu cành nhánh mang những hoa trắng nhỏ, cuống dài 1,4 -
2;5cm. Quả dài 12-15cm.
6.1.1.3. Đặc điểm sinh thái
Quế là loài cây nhiệt đới thích hợp ở những vùng ẩm, mưa nhiều, lượng mưa hàng
154
năm trên 1800mm. Nhiệt độ bình quân năm 20-210C. Độ ẩm không khí trên 80%. Độ
cao so với mặt nước biển: ở nhcm Bắc: 200m, miền Trung 500m, miền Nam 700m.
Quế có thể trồng trên nhiều loại đất khác nhau (trừ đất đá vôi, đất cát, đất ngập
úng) đất phát triển trên đá mẹ phiến thạch sét, phiến thạch mica, có độ dầy tầng đất
trên 80cm, độ pa từ 4,5 - 5,5, phát triển không tốt trên đất phù sa quá xốp.
Trong 2 năm đầu, Quế là cây cần được che bóng, sau đó ưa sáng hoàn toàn. Trong
rừng tự nhiên cây tái sinh dưới tán cây mẹ. Trạng thái thực bì thích hợp với việc trồng
quế là các dạng rừng thứ sinh nghèo kiệt, rừng phục hồi, rừng nứa hoặc cây bụi có cây
gỗ rải rác, nương rẫy mới. Không trồng Quế trên đất trống đồi núi trọc, nơi chỉ có
thảm cỏ cây bụi chịu hạn, cỏ tranh xấu, nơi không có hoàn cảnh rừng.
* Phân bố
Cây mọc tự nhiên ở Trung Quốc, ở Việt Nam Quế phân bố nhiều ở các tỉnh:
Quảng Nam, Quảng Ngãi (Tuy Phước, Trà Mỹ, Tam Kỳ, Thăng Bình, Quế Sơn), Nghệ
An (Quỳ Châu, Quỳ Hợp, Quế Phong), Thanh Hoá (Thường Sơn, Ngọc Lạc), Yên Bái,
Quảng Ninh (Quảng Hà).
6.1.1.4. Kỹ thuật gây trồng
* Kỹ thuật thu hái hạt giống
Cây trồng 5 -6 năm bắt đầu ra hoa, thường thu hái giống ở những lâm phần giống
từ 15 - 30 tuổi. Chọn cây mẹ ở những lâm phần giống đã được chuyển hoá. Ớ những
nơi chưa có rừng giống, có thể chọn cây mẹ từ những cây mọc phân tán và thoả mãn
những tiêu chuẩn sau đây:
Cây sinh trưởng tốt, tán đều, cành lá xum xuê, chưa bị bóc vỏ, thân thẳng và
không bị sâu bệnh.
Chu kỳ sai quả 2 -3 năm, ở những năm này tỷ lệ cây ra hoa có thể đạt 80-90 %, số
cây đậu quả 45 - 55%. Những năm mất mùa tỷ lệ này chỉ đạt 5 - 10%. Sản lượng trung
bình của lâm phần 15 tuổi là 20 - 30kglha/năm.
Thời gian thu hai quả chín từ tháng 1 đến tháng 3, khi Vỏ quả chuyển từ mầu xanh
sang mầu tím sẫm. Có thể thu hái bằng nhiều cách như trèo cây hái quả, dùng các dụng
cụ thu hái hoặc phát dọn sạch xung quanh tán cây giống trước mùa thu hái một tháng
để nhặt hạt rơi rụng. Không chặt cành để hái quả, không thu hái quả non.
Sử dụng giống để trồng rừng: Quế Yên Bái trồng ở phía Bắc, Quế Thanh Hoá -
Nghệ An trồng ở Thanh Hoá - Quảng Bình, Quế Quảng Nam - Quảng Ngài trồng ở
phía Nam.
* Tách hạt ra khỏi quả
Quả Quế thu hái về phải phân loại, những quả chưa thật chín được ủ lại thành
đống từ 1 -3 ngày để quả chín đều, đống ủ không cao quá 50cm và phải thông gió, mỗi
155
ngày đảo lại một lần. Khi quả chín đen đem sát và đài lớp vỏ thịt trong nước sạch để
thu hạt, hong khô hạt ở nơi râm mát khi hạt đã ráo nước cho vào bảo quản.
Một số thông tin cơ bản:
Tỷ lệ chế biến: 2 - 2,5 kg quả/1kg hạt
Trọng lượng 1000 hạt: 263, 16g
Số lượng hạt trong 1kg: 3000 - 5000 hạt
Tỷ lệ nảy mầm: 80%
Độ thuần: > 95%
* Bảo quản hạt giống
Bảo quản trong cát ẩm ở nhiệt độ bình thường: Độ ẩm của hạt khi đưa vào bảo
quản từ 34 -35%, hạt được trộn đều với cát có độ ẩm từ 15 - 16% theo tỷ lệ 1 hạt + 2
cát (theo thể tích). Hạt bảo quản được đánh thành từng đống, cao không quá 20cm, bề
rộng tù 80- 100cm, không để lượng hạt bị chiếu nắng hoặc mưa dột. Trong quá trình
bảo quản 2-3 ngày đảo hạt 1 lần, nếu cát bị khô phải bổ sung nước (phở sàng riêng hạt
và cát khi bổ sung nước). Phương thức bảo quản hạt này có thể duy trì sức sống của
hạt từ 15-20 ngày với tỷ lệ nảy mầm suy giảm từ 5 - 10%.
Bảo quản trong túi PE ở nhiệt độ thấp. Độ ẩm của hạt khi đưa vào bảo quản từ 34-
35%, hạt được trộn với cát ẩm tỷ lệ như trên, đựng trong chum hoặc thùng tôn bên trên
bề mặt phủ một lớp cát dầy 30cm. Trong thời gian bảo quản thường xuyên kiểm tra
chuột phá hoại. Nếu cát bị khô phải bổ sung thêm nước và giữ ở nhiệt độ 5-looc,
phương thức này có thể duy trì sức sống của hạt vài ba tháng.
* Kỹ thuật gieo ươm
• Xử lý và gieo hạt:
Rửa sạch hạt, loại bỏ hạt thối, hạt lép, ngâm hạt trong nước ấm từ 30-400C trong 3
giờ, vớt ra để ráo nước, ngâm tiếp vào thuốc tím có nồng độ 0,1% trong 15 phút hoặc
dung dịch Booc đô nồng độ 1% trong 3-4 phút.
Hong hạt cho ráo nước rồi đem gieo, khi gieo rải hạt đều trên mặt luống với số
lượng 3kg hạt/1m2, dùng cát mịn hoặc đất nhỏ phủ kín hạt (0,3 -0,5cm), thường xuyên
tưới phun đủ ẩm cho luống gieo, đến khi hạt nảy mầm dài 1 cm đem cấy vào bầu hoặc
luống ươm để tạo cây rễ trần.
• Cấy hạt mầm:
Tưới nước cho luống cấy và luống bầu đủ ẩm trước khi cấy hạt từ 1 -2 giờ, độ sâu
cấy hạt từ 0,5-lcm, chú ý đặt phần chóp rễ của cây mầm xuống phía dưới, lấp kín bằng
đất mịn dày 0,3-0,5cm.
Che tủ mặt luống bằng rơm dạ hoặc cỏ tranh, ràng ràng đã phơi khô, tẩy trùng
156
bằng Cerezan hoặc thuốc tím 0,05%.
Tưới nước thường xuyên để đủ ẩm cho luống cấy hoặc luống bầu, khi cây mầm
hình thành trên mặt đất thì dỡ bỏ vật liệu che phủ.
Có thể áp dụng gieo hạt trực tiếp vào bầu: hạt sau khi xử lý. cho hạt vào túi vải ủ
trong bao tải, mỗi ngày rửa chua 1-2 lần, đến khi hạt nứt nanh đem gieo vào bầu kích
thước 9 x 15cm. Thành phần ruột bầu: 80%đất tầng A + 20% phân chuồng hoài. Gieo
vào mỗi bầu một hạt, độ sâu lấp đất từ 0,3 - 0,5 cm. Thời vụ gieo vào tháng 2-3.
• Chăm sóc cây con:
Từ 1-3 tháng đầu che bóng 70-80%, tránh ánh sáng trực xạ; Từ 4-6 tháng tuổi che
bóng 40-50%; Từ tháng thứ 7 cần dỡ bỏ giàn che dần cho đến trước khi đem cây con
đi trồng 1 tháng phải dỡ bỏ hết giàn che.
• Tưới nước, làm cỏ, bón thúc:
Trong khoảng 15 ngày đầu sau khi cấy hạt mầm phải tưới nước đều đặn và luôn
giữ ẩm cho luống cây, lượng nước tưới từ 3-4 lít/m2 sau đó giảm dần; vào những ngày
trời âm u, mưa nhiều cần đánh rãnh thoát nước và mở bớt giàn che.
Sau 15 ngày đến 1 tháng cần tiến hành nhổ cỏ, phá váng trên mặt bầu. Kết hợp
phòng trừ sâu bệnh hại, có thể dùng dung dịch Bước đô nồng độ 1% hoặc Benlat nồng
độ 0,05% phun 0,5 lít/1m2 theo định kỳ 15 ngày/1lần để phòng trừ bệnh thối cổ rễ.
Nếu bị sâu xám hại thì trực tiếp bắt hoặc dùng thuốc Malathion (Lythion- 25WP) pha
nồng độ 0,1% để phun 1lít/4-5m2.
Bón thúc: nếu cây sinh trưởng chậm cần bón thúc bằng phân chuồng hoặc từ tháng
thứ 4, về sau có thể thêm phân NPK nồng độ 0,5 % (tưới 2-3 lít/1m2). Trước khi trồng
1 tháng thì không cần bón thúc và giám lượng nước tưới.
• Tiêu chuẩn cây con đem trồng
Thời gian nuôi cây trong vườn từ 1 đến 2 năm. Trước khi đem cây con đi trồng từ
2-3 tháng phải đảo bầu cắt đứt các rễ cây ăn sâu xuống đất và giãn mật độ của bầu cho
cây phát triển cân đối.
Cùng với việc đảo bầu là phân loại cây con, cây có cùng chiều cao và mức độ sinh
trưởng thì xếp vào cùng một khu vực, những cây sinh trưởng kém thì xếp riêng để có
biện pháp chăm sóc tốt hơn.
Nếu trồng rừng tập trung thì chiều cao cây đạt từ 25-30cm, đường kính cổ rễ 0,4-
0,5 cm. Nếu trồng rừng phân tán trong các vườn hộ gia đình, chọn cây có chiều cao
50- 60cm, đường kính 0,6- 0,8cm. Cây sinh trưởng tốt không sâu bệnh.
* Kỹ thuật trồng rừng
• Quế được trồng theo 3 phương thức:
157
Trồng Quế dưới tán rừng nghèo kiệt sau khi khái thác hoặc rừng mới phục hồi sau
nương rẫy có độ tàn che 0,3-0,4; Mật độ trồng 1000 - 2000 cây/ha, sau 2-3 năm ken
dần các cây gỗ kém giá trị.
Quế trồng theo phương thức Nông Lâm kết hợp: Quế + Lúa nương; Quế + Sắn
(hoặc Ngô, ý dĩ,...); Quế + cây cải tạo đất (Đậu triều, Cốt khí,...). Với cách trồng này
sau 7-10 năm có thể chặt tỉa và sau 15-20 cho khai thác.
Trồng Quế kết hợp với cây ăn quả trong các vườn rừng: Quế tiếng xen với cây ăn
quả theo hàng cách nhau 5m, cây cách cây từ 3-4m tuỳ thuộc vào tùng loài cây ăn quả.
Với phương thức này nên trồng bằng cây con 2 tuổi.
Xử lý thực bì theo nguyên tắc để lại độ tàn che ban đầu cho quế từ 0,3-0,4, xử lý
theo băng và theo đường đồng mức.
Làm đất cục bộ theo hố có kích thước 40 x 40 x 40cm, hố lấp phải cao hơn mặt
đất tự nhiên từ 2-3 cái.
Thời vụ trồng: ở phía Bắc trồng chính vào Vụ xuân (tháng 1 đến tháng 3) và trồng
vào vụ thu (tháng 8-9). Phía Nam trồng vào mùa mưa từ tháng 9 đến tháng 12.
• Chăm sóc rừng mới trồng:
Nếu trồng theo phương thức Nông Lâm kết hợp thì việc chăm sóc cho cây nông
nghiệp cũng là chăm sóc cho cây Quế; phải luôn chú ý không để cây nông nghiệp cũng
như cây phù trợ cạnh tranh với Quế về ánh sáng, độ ẩm đất, một năm chăm sóc ít nhất
là 2 lần.
Nếu trồng Quế trong băng, rạch hoặc dưới tán cây tái sinh tự nhiên thì cần chăm
sóc cây theo chế độ sau: từ năm thứ nhất đến năm thứ 3 chăm sóc mỗi năm 2 lần, từ
năm thứ 4 đến khi khai thác chăm sóc mỗi năm 1 lần.
Nội dung chăm sóc: Trồng dặm những cây Quế đã chết ở năm thứ nhất, phát dọn
dây leo và những cây cỏ lấn át Quế, giữ ẩm cho gốc cây và phòng trừ sâu bệnh phá
hoại. Xới xung quanh gốc với đường kính im, kết hợp bón phân NPK (bón cách gốc
0,3-0,4cm) mỗi lần 50g/gốc cho những lần chăm sóc từ năm thứ nhất đến năm thứ 3.
Trong quá trình chăm sóc phải điều chỉnh độ tàn che, đến năm thứ 4 Quế cần ánh sáng
hoàn toàn.
• Nuôi dưỡng rừng khi khép tán:
Tỉa thưa: Năm đầu khi rừng mới khép tán, cần xúc tiến tỉa thưa, đến năm thứ 5
mật độ còn 2000 cây/ha, năm thứ 15 còn 800- 1000cây/ha, từ năm thứ 20 trở đi còn
500- 800cây/ha.
Bảo vệ rừng Quế: phòng chống cháy rừng, sâu bệnh hại.
6.1.2. Thông Nhựa (Tên khoa học: Pinus merkusii J.et De Vries)
158
6.1.2.1. Giá trị sử dụng
Thông nhựa là một trong những loài cây trồng rừng chủ yếu ở nước ta. Gỗ có
nhiều nhựa, ở lõi nhiều hơn ở giác. Nhựa là sản phẩm chủ yếu của rừng Thông nhựa,
là một đặc sản rừng có giá trị lớn. Từ nhựa chế biến được hai chất chính là dầu thông
(tê rê ben tin) và tùng hương (cô lô phân). Các nguyên liệu trên rất cần thiết cho ngành
công nghiệp sơn, véc ni, xen lu lô, dược phẩm, xà phòng, giấy, chất dẻo, mực in, cao
su.
Cây thông 25-30 tuổi sinh trưởng tốt, có thể trích nhựa được 3-4kg nhựa/năm.
Gỗ có vòng tăng trưởng hẹp, mịn mặt, vân rõ dùng làm đồ mộc gia dụng, bao bì,
ván bề mặt trong toa xe. Gỗ nhỏ đường kính dưới 25-30 cm chưa có lõi, nhẹ, hàm
lượng nhựa ít còn dùng làm nguyên liệu giấy. Thông nhựa hình dáng đẹp, mùi nhựa
toả thơm cho nên được trồng làm cây phong cảnh cho các khu vực nghỉ mát, an dưỡng,
danh lam thắng cảnh. Là cây trồng rừng công nghiệp và phủ xanh đất trống, đồi trọc.
6.1.2.2. Đặc điểm hình thái
Cây gỗ lớn, cao đến 25-30m và có thể hơn, đường kính ngang ngực 50-60cm có
cây đến một mét, thân thẳng tròn, nhiều nhựa, vỏ dầy mầu nâu đỏ nhạt nứt dọc sâu.
Tản lá rộng, lá kim mầu xanh sẫm, dài 15-25cm. Gốc lá có bẹ dài 1-2cm. Quả nón, hạt
hình trái xoan hơi dẹt.
6.1.2.3. Đặc điểm sinh thái
Thông nhựa thích hợp với vùng khí hậu nhiệt đới ẩm, có nhiệt độ trung bình năm
22-250C, cao nhất tuyệt đối 400C, thấp nhất tuyệt đối sóc. Lượng mưa trung bình năm
1500mm trở lên, độ ẩm tương đối của không khí là 80-84%.
Thông nhựa là loài cây dễ tính, trong tự nhiên mọc được ở nơi đất xấu, khô kiệt,
các loài cây khác không mọc được thì loài cây này mọc thuần loài và sinh trưởng bình
thường Thích hợp với đất có thành phần cơ giới nhẹ, thoát nước, thoáng, độ pa từ 4,5 -
5,5. Không ưa đất sét nặng, đất kiềm, đất đá vôi.
Thông nhựa là cây ưa sáng hoàn toàn, khi nhỏ chịu được bỏng nhẹ, xanh quanh
năm, tỉa cành tự nhiên kém. Rễ rất phát triển, ăn lan rộng có nơi tới 8- 10m, rễ cọc
đâm sâu rễ có nấm cộng sinh. Thông nhựa sinh trưởng chậm, đặc biệt lúc nhỏ, sau 4-5
năm cây cao khoảng 1,5- 2m, đường kính 3-4cm. Ngoài 10 tuổi mọc nhanh hơn, mỗi
năm sinh trưởng được một vòng cành. Cây bắt đầu ra hoa từ tuổi 10-12. Ra hoa thảng
5-6, tháng 9-10 năm sau quả chín. Nón quả không rụng, không có khả năng tái sinh
bằng chồi
* Phân bố
Thông nhựa là loài cây đặc hữu của vùng khí hậu nhiệt đới Đông Nam Á. Nước ta
Thông nhựa có ở nhiều nơi từ Đồng Nai, Lâm Đồng đến Quảng Nam qua Thừa Thiên
Huế, Quảng Bình, Hà Tĩnh, Nghệ An, Ninh Bình đến Quảng Ninh. Nhìn chung Thông
159
nhựa được phân bố từ 11 đến 21 độ vĩ Bắc, ở độ cao dưới 800m, cảng về phía Bắc độ
cao càng xuống thấp, dưới 150m.
6. 1.2.4. Kỹ thuật gây trồng
* Kỹ thuật thu hái quả
Thường thu hái giống ở lâm phần giống từ 15 tuổi trở lên. Chu kỳ sai quả 2-3
năm, ở những năm này tỷ lệ cây ra hoa có thê đạt tới 80-90%, ở những năm mất mùa
tỷ lệ này chỉ đạt 5- 10%, sản lượng trung bình của lâm phần 15 tuổi là 5kg/ha/năm.
Thời gian thu hái: Quả chín và thu hái vào tháng 9-10 (miền Bắc), tháng 3-5 (miền
Nam).
Chỉ thị độ chín: Khi quả chín vỏ thường có mầu vàng nhạt, hoặc một phần vỏ quả
có mầu cánh dán, mắt quả to mẩy, nhân hạt chắc cứng, hạt có nhiều dầu, một số mắt
quả nút ra để hạt tung ra ngoài.
Cách thu hái: Trèo lên cây hoặc đứng dưới đất, dùng cù lèo móc giật từng quả
chính, tuyệt đối không được bẻ cành.
* Tách hạt ra khỏi quả
Quả sau khi mang về phải phân loại, những quả chưa chín ủ lại thành từng đống từ
2-3 ngày cho quả chín đều, đống ủ không cao quá 50cm, phải thông gió, mỗi ngày đảo
lại một lần. Khi quả chín đem rải đều phơi dưới nắng nhẹ 3-5 nắng, khi hạt khô đem
vò và sàng sảy cho hết tạp vật, thu hạt tốt và cho vào bảo quản.
Tỉ lệ chế biến: 30-35kg quảllkg hạt (các tỉnh phía Bắc), 65-70kg quả/1kg hạt (các
tỉnh phía Nam).
Số lượng hạt/1kg: 28000-31000 hạt.
Tỷ lệ nảy mầm > 90%.
Hàm lượng nước của hạt khi đem bảo quản: 7-8%
* Bảo quản hạt giống
Bảo quản khô ở nhiệt độ bình thường, hạt được đựng trong chum vại hoặc thùng
gỗ, mỗi thùng đựng 20-30 kg, để ở nơi thoáng mát, phương thức này có thể duy trì sức
sống của hạt tối đa không quá 1 năm. Nếu được giữ ở nhiệt độ ổn định 5-10% có thể
duy trì sức sống của hạt đến vài ba năm.
* Kỹ thuật gieo ươm
• Xử lý và gieo hạt:
Trước khi gieo loại bỏ hạt thối, hạt lép, ngâm hạt trong nước ấm từ 40-450C để
nguội gần trong 4-6 giờ, vớt ra để ráo nước, ngâm tiếp vào thuốc tím có nồng độ
0,01% trong 15 phút hoặc dung dịch Bước đô nồng độ 1% trong 3-4 phút. Sau đó vớt
ra cho vào túi vải ủ trong bao tải, mỗi ngày rửa chua 1 lần, khi hạt nứt nanh đem gieo
160
hạt vào khay cát. Sau 8-10 ngày khi cây mầm có hình que diêm cao 2-3 chỉ được nhổ
cấy vào bầu. Bầu có kích thước 8x 12cm, đất đóng bầu nên chọn đất phát triển trên đá
mẹ phiến thạch, phấn sa, gneis, gianh, trên có thực bì Tế guột, Sim, Mua, Thao kén,
Sầm sì, Me rừng, che phủ trên 50% mặt đất. Thành phần ruột gồm 80% đất tầng A +
20% phân chuồng hoài, những nơi gần rừng Thông nên lấy đất ở rừng Thông và thêm
1% supelân. Có thể gieo trực tiếp hạt đã nứt nanh vào bầu, hạt gieo giữa bầu, độ sâu
lấp đất 0,5-lcm. Thời vụ gieo tháng 2-3 và tháng 9-10, thời gian nuôi cây trong vườn
ươm 6 tháng đến thăm.
• Chăm sóc cây:
Thường xuyên tưới nước đảm bảo độ ẩm thích hợp cho cây, tuỳ theo tình trạng
của cây và độ ẩm thực tế của đất để quyết định số lần tưới trong ngày. Trung bình
trong 3 tháng đầu mỗi ngày tưới 1 lần, lượng nước tưới 4-5 lít/1m2. Làm cỏ phá váng
cho cây theo định kỳ 15 ngày/1 lần. Thông con ờ thời kỳ 1 -3 tháng đầu thường bị các
bệnh phổ biến như lở cổ rễ, vàng còi, bạc lá. Khi có bệnh lở cổ rễ xuất hiện thì ngừng
tưới nước, xới xáo phá váng cho đất khô, nhổ hết cây bị bệnh và phun Bước đô 0,5%
với 1 lít dung dịch/4m2 1 tuần 2 lần. Nếu thấy cây bị vàng còi hoặc bạc lá dùng sulphat
đạm và
supelân để tưới cho cây, pha nồng độ 0,1-0,2% tưới 2,51ít/1m2 (2 ngày tưới trần),
sau khi tưới nước phân phải tưới rửa bằng nước là. Khi cây 4-5 tháng tuổi trở lên phải
áp dụng biện pháp phòng thí bệnh rơm lá thông bằng dung dịch Bước đô.
Tiêu chuẩn cây con xuất vườn:
Cây khoẻ mạnh, không sâu bệnh, chiều cao tối thiểu là 14 -20cm, đường kính cổ
rễ 4-7mm.
*Kỹ thuật trồng rừng
• Làm đất dọn thực bì:
Thông nhựa chủ yếu được trồng trên đồi núi trọc, đất trơ sỏi đá, đất có trảng cỏ
hay cây bụi thấp. Trừ nơi có thực bì cao và dầy thì mới dọn toàn diện, cần thiết có thể
đốt, còn nhìn chung thực bì thưa và ít thì chủ yếu dọn xung quanh hố và đào hố. Hố
được đào trước mùa trồng 1-2 tháng, kích thước 30x30x30cm, đất cuốc lên phải được
băm nhỏ và lấp đầy hố. Nhất thiết phải bố trí các băng không trồng rộng 10- 12m để
cản lửa và phòng chống sâu bệnh. Thường cứ khoảng 200m (theo chiều ngang, hoặc
trên sườn dốc dài) có 1 băng chừa.
• Thời vụ trồng:
Tuỳ điều kiện từng nơi có thể trồng rừng trong Vụ xuân hoặc vụ thu (miền Bắc),
không trồng vào những ngày có nắng to, gió mạnh hoặc hanh khô. Từ Nghệ An trở
vào trồng vào vụ thu, các tỉnh miền Nam trồng vào mùa mưa.
161
• Mật độ trồng:
Từ 2500-3000cây/ha, hoặc 4000-5000cây/ha khi có điều kiện kết hợp trồng lấy
củi, hoặc 1500-2000cây/ha khi có điều kiện trồng kết hợp với cây nông nghiệp.
• Chăm sóc rừng trồng:
Một, hai tháng sau khi trồng thấy số cây chết trên 10% thì cần tiến hành trồng dặm
ngay (chậm nhất trong vụ trồng tiếp theo), chọn cây khoẻ tốt, trồng đúng kỹ thuật và
thời tiết để đảm bảo tỷ lệ sống 100%. Chăm sóc trong 5 năm mỗi năm 2 lần, tiến hành
vào Vụ xuân và vụ thu. Nội dung chủ yếu là phát dây leo, cây bụi, làm cỏ xới đất, vun
gốc và bón phân, đặc biệt lưu ý dọn thực bì khô để phòng cháy trong mùa khô hanh.
Sau khi tặng Thông khép tán, tung Thông nhựa thường có nhiều sâu bệnh hại như sâu
đục nõn, bệnh rơm lá Thông, đáng chú ý là Sâu Róm Thông thường phá hoại nhiều
nhất.
Phải theo dõi, lập kế hoạch dự tính, dự báo thực hiện các biện pháp phòng trừ.
Rừng khép tán được 1 -2 năm tiến hành tỉa thưa lần 1 (vào cuối tuổi 8 hoặc đầu
tuổi 9), sau đó cứ sau 5 năm tiếp tục tỉa thưa 1 lần, tuỳ theo mục đích kinh tế và tình
hình sinh trưởng của từng. Riêng kinh doanh lấy nhựa, số lần tỉa thưa được tiến hành
2-3 lần, lần thứ nhất khi cây trồng được 6-7 tuổi, lần thứ 2 cách lần thứ nhất 4-5 năm,
cường độ tỉa thưa 30-50% số cây có trong lâm phần, số cây cuối cùng giữ lại khoảng
800cây/ha. Rừng đạt tuổi 25-30 đường kính ngang ngực 25- 30cm có thể trích nhựa,
trung bình mỗi năm cho 4-5kg nhựa/cây, thời gian trích nhựa từ 50- 60năm.
Rừng Thông trồng với mục đích phòng hộ chống xói mòn do nước, nhìn chung
không tỉa thưa mà chỉ chặt vệ sinh.
Rừng trồng để lấy gỗ làm bột giấy, gỗ mỏ, sau khi rừng khép tán và bắt đầu có sự
phân hoá nên tiến hành tỉa thưa lần thứ nhất, lần thứ 2 cách lần thứ nhất từ 4-5 năm,
cường độ tỉa thưa 20-30% cây trong lâm phần. Mật độ giữ lại cuối cùng là 1600cây/ha,
khai thác trắng sau đó trồng lại. Tuổi thành thục công nghệ 15-1 8 tuổi.
Chia sẻ với bạn bè của bạn: |