DƯƠng thị NỤ MỞ ĐẦU



tải về 2.34 Mb.
trang8/19
Chuyển đổi dữ liệu26.03.2018
Kích2.34 Mb.
#36770
1   ...   4   5   6   7   8   9   10   11   ...   19

Phần 1. Chuẩn bị bài đọc

Để bài học trên lớp thành công, vai trò của việc chuẩn bị là không thể phủ nhận. Việc chuẩn bị không những giúp cho sinh viên đến lớp có mục đích hơn, tự tin hơn mà còn tạo cho họ một thói quen và thái độ học tập chủ động tích cực. Việc chuẩn bị được thực hiện bởi cả giáo viên và sinh viên trong thời gian một tuần trước giờ lên lớp. Đối với giáo viên họ phải tìm kiếm tài liệu bổ sung, thông tin liên quan đến chủ đề bài học từ nhiều nguồn: sách, báo và chủ yếu từ internet. Các tài liệu này có thể ở dạng văn bản, hình ảnh, đồ họa, video. Thực tế, với tính đa dạng và yêu cầu cao của môn học, các tài liệu này đòi hỏi ở dạng số là chủ yếu. Do đó khả năng khai thác thông tin qua mạng của giáo viên có vai trò quan trọng trong khâu chuẩn bị. Cùng với sự hỗ trợ của máy tính họ đồng thời dựa trên việc nắm vững nội dung dạy và khả năng chắt lọc thông tin, thiết kế các bài giảng trên phần mềm ứng dụng PowerPoint để có bài giảng sinh động hơn. Thực tế cho thấy nhu cầu nghe nhìn những hình ảnh, sơ đồ minh họa để nắm vững những nội dung liên quan đến CNTT là rất cao. Từ bài giảng này, giáo viên sẽ thiết kế các bài tập/hoạt động khai thác bài học phong phú, đa dạng, phù hợp với nhiều đối tượng người học. Các hoạt động này gồm có: câu hỏi đọc hiểu, các trò chơi phân vai để khai thác, tái tạo kiến thực, củng cố từ vựng, các hoạt đọng cung cấp cho sinh viên cơ hội thực hành TACN Công nghệ thông tin. Đồng thời, giáo viên phải thiết kế các bài tập kiểm tra đánh giá các hoạt động trên lớp của sinh viên.

Về phía sinh viên, để lên lớp tích cực mà không chỉ trả lời các câu hỏi đọc hiểu một cách thụ động, chính họ phải đọc, dịch bài ở nhà, làm toàn bộ các bài tập để hiểu nội dung và vận dụng được nội dung đó trong các tình huống cụ thể, nhớ được thông tin chi tiết trong bài học. Bên cạnh đó, họ cũng phải tìm thêm tài liệu về một hoặc nhiều nội dung mà họ quan tâm trong bài, từ đó có thể khai thác bài học tốt hơn, cũng như có thể tham gia tích cực vào các hoạt động trao đổi, thảo luận trên lớp. Sinh viên CNTT có khả năng khai thác thông tin mang tính chuyên ngành từ các nguồn internet rất cao, do họ có kiến thức và kỹ năng về mạng và có khả năng sử dụng các công cụ tìm kiếm rất hiệu quả. Do dó quy trình dạy tập trung phát huy hết khả năng tự tìm tài liệu của sinh viên để trang bị cho họ thói quen chủ động trong học tập.

Phần 2. Khai thác bài học

Khai thác bài học là giai đoạn sau và dựa trên nền tảng kiến thức có được từ giai đoạn chuẩn bị. Quy trình dạy đọc của chúng tôi nhấn mạnh vai trò chuẩn bị nhưng không có nghĩa coi nhẹ giai đoạn khai thác bài học. Tuy nhiên trong giai đoạn chuẩn bị, sinh viên gần như đã tự học toàn bộ nội dung bài học, nên các hoạt động tại lớp trong giai đoạn khai thác có nhiều thay đổi so với các quy trình trước đây. Thay vì thực hiện tất cả các hoạt động và bài tập trong sách giáo khoa, giáo viên phải thiết kế trong giáo án của mình những hoạt động hoặc bài tập khác để bổ sung nâng cao kiến thức cho chủ đề của bài học. Nhưng quan trọng hơn các hoạt động này phải liên kết được các thông tin trong bài theo một cấu trúc hoặc trật tự logic nhất định: theo thời gian (ví dụ như chủ đề về các loại máy tính, máy in và sự ra đời của chúng), theo trật tự nguyên nhân - kết quả/hậu quả - giải pháp (an ninh và bảo mật trong CNTT). Với những thủ thuật này, sinh viên có thể ghi nhớ nội dung chính của bài học lâu hơn đồng thời có được hình dung rất rõ ràng về mối liên hệ giữa những nội dung học theo sơ đồ. Bên cạnh đó các hoạt động của giai đoạn này còn phải giúp sinh viên trao đổi, chia sẻ cách học, cách khai thác tài liệu hay các nguồn tài liệu hữu ích cho chuyên ngành của họ. Chính vì vậy, việc thiết kế các hoạt động học tập trên lớp phải hết sức chú trọng đến tính khái quát, tính liên kết logíc chứ không đơn thuần là trả lời những câu hỏi đọc hiểu, hay làm bài tập sau bài đọc. Hơn thế các hoạt động này phải phát triển kiến thức tiếng Anh cho sinh viên và khuyến khích việc sử dụng tiếng Anh để họ tự mở rộng và nâng cao kiến thức chuyên ngành của họ. Các hoạt động của giai đoạn khai thác có thể được chia thành ba bước chính sau đây.



Bước 1: Khởi động và các hoạt động trước đọc. Mục đích của toàn bộ bước này không còn dừng lại ở việc cung cấp từ vựng cho bài đọc như trước đây mà chủ yếu để tạo không khí giờ học và khởi động tư duy của sinh viên thông qua các hoạt động cụ thể như kiểm tra việc chuẩn bị bài của sinh viên với những câu hỏi gợi mở. Với cách tiếp cận này, giáo viên không chỉ giúp sinh viên định hình lại những kiến thức đã được họ tự chuẩn bị ở nhà, mà còn tìm hiểu được nền tảng kiến thức chuyên ngành của sinh viên để từ đó định hướng tự nhiên vào nội dung khai thác của bài đọc. Động tác này còn giúp cho giáo viên xác định được những vấn đề đặc biệt cần chú trọng trong bước tiếp theo. Các hoạt động cụ thể bao gồm việc dùng những hình ảnh trình chiếu mang tính dẫn dắt, từ đó vào bài một cách sinh động. Tất nhiên đối với từng chủ đề, cách thức triển khai bước này có thể được thực hiện dưới nhiều hình thức, hoạt động cụ thể khác nhau. Các hoạt động ở bước này tương đối đa dạng từ hình thức giáo viên đưa câu hỏi, sinh viên trả lời đến bài tập ghép thông tin, hoặc sinh viên làm việc theo nhóm tìm ra được mối liên hệ nào đó giữa những thông tin trước bài đọc và nội dung của bài đọc. Chính ở bước này, giáo viên có thể tập hợp được rất nhiều mảng kiến thức khác nhau của sinh viên, những thực tế thú vị liên quan đến nội dung bài học mà mỗi sinh viên biết hoặc tìm kiếm được qua internet. Từ đó hình thành ở người học động lực và tinh thần làm việc chia sẻ, trao-nhận, một trong những yếu tố quyết định đến sự thành công trong học tập của sinh viên, đặc biệt là sinh viên chuyên ngành CNTT trong thời đại số này.

Bước 2: Các hoạt động đọc hiểu. Quy trình dạy của chúng tôi nhấn mạnh chữ ‘hiểu’ ở đây. Nếu những quy trình trước đây coi việc đọc hiểu chính là tìm và đưa ra những câu trả lời chấp nhận được đối với những câu hỏi thiết kế sẵn, thường xuất hiện ngay sau bài đọc hiểu, thì dưới quy trình dạy đọc đổi mới này, sinh viên không còn phải đồng loạt trả lời câu hỏi, làm bài tập về từ đồng nghĩa, đối nghĩa, v.v... Vì như đã trình bày ở trên, các bài tập đều được sinh viên thực hiện trong giai đoạn chuẩn bị. Như vậy, ngoài việc kiểm tra đáp án và giải thích cặn kẽ về việc lựa chọn đáp án, giáo viên còn phải thực hiện một loạt các hoạt động nâng cao khác để đảm bảo rằng sinh viên thực sự hiểu bài. Hiểu ở đây cũng không chỉ dựng lại ở việc có thể đưa ra câu trả lời đúng hay ghi nhớ nội dung bài, mà phải nhận định, đánh giá, so sánh được với các nội dung liên quan, hoặc thậm chí phê phán, tranh luận về nội dung bài học. Tùy vào cấp độ của sinh viên mà các hoạt động cụ thể cũng ở các mức phù hợp, chẳng hạn với những lớp trung bình, cần tập trung khai thác cấu trúc bài để sinh viên hiểu được cách tổ chức, sắp xếp thông tin trong một bài đọc, tại sao lại có những trật tự logic khác nhau cho những nội dung khác nhau, mối quan hệ giữa nội dung của các bài học trong toàn học kỳ. Nhưng với những lớp có trình độ tiếng Anh khá hơn, thậm chí giáo viên sau khi khai thác kỹ nội dung như trên, có thể tổ chức các bài tập thực hành phân tích cấu trúc câu và từ vựng được sử dụng trong bài. Đặc thù của TACN so với tiếng Anh phổ thông chủ yếu nằm ở việc lựa chọn sử dụng từ vựng, do đó, sinh viên cần hiểu rõ tại sao trong tình huống này phải dùng một động từ A thay vì B, hay trong tiếng Anh thông thường, một danh từ C có nghĩa này, mà trong CNTT lại có nghĩa khác (ví dụ resolution thông thường có nghĩa là một ước nguyện hay sự quyết tâm, nhưng với CNTT thì chỉ có thể là ‘độ phân giải’).

Một hình thức học rất được sinh viên ủng hộ là thực hiện những bài trình bày nhỏ tại lớp. Bài tập này cho họ một cơ hội được sử dụng tiếng Anh để truyền đạt lại một phần nội dung trọng tâm nào đó của bài với ngôn ngữ của chính họ và như họ mong muốn. Tác dụng của những bài trình bày ngắn gọn này lại rất lớn: giúp giáo viên đánh giá mức độ chuẩn bị bài, hiểu bài, khả năng sử dụng tiếng Anh của sinh viên, đồng thời khuyến khích sinh viên tự tin thể hiện mình, thỏa mãn nhu cầu tự khẳng định của họ, từ đó nâng cao động lực học tiếng Anh cho sinh viên.



Những phân tích sâu sắc và kỹ lưỡng cũng như những cơ hội thể hiện kiến thức như thế sẽ giúp cho sinh viên vững chắc hơn trong việc thể hiện kiến thức chuyên ngành bằng tiếng Anh. Và đó chính là mục tiêu cao nhất của việc dạy TACN Công nghệ thông tin.

Trong quá trình thực hiện bước 2 này, có thể khẳng định sự xuất hiện và hỗ trợ của công nghệ được thể hiện tối đa. Ngoài những bài giảng được số hóa với những phần mềm ứng dụng như WinWord (văn bản), Excel (bảng tính, biểu đồ) và đặc biệt là PowerPoint (trình chiếu), thì các bài tập bổ sung được lấy từ các nguồn số và chuyển trực tiếp sang định dạng của HotPotatoes dưới dạng ngôn ngữ web. Chính những công cụ đắc lực này không chỉ giúp cho bải học hấp dẫn hơn mà còn tiết kiệm tối đa thời gian chuẩn bị cho giáo viên. Với nguồn là internet, các tài liệu đều ở dưới dạng số, do đó dễ dàng đưa thành bài học điện tử mà không cần bất cứ một phương tiện trung chuyển để định dạng lại các tài liệu này. Ví dụ thay vì phải tìm kiếm và có thể phải mua sách báo có nội dung, hình ảnh liên quan đến bài học, thì chỉ với một lần kích chuột với hỗ trợ của rất nhiều công cụ tìm kiếm, giáo viên đã có thể lựa chọn từ vô số các bài báo, hình ảnh, biểu đồ, sơ đồ, thậm chí bài giảng mẫu, những thông tin cần thiết và đặc sắc cho bài giảng của mình. Điều này cũng có nghĩa, quy trình dạy học mới đòi hỏi giáo viên phải có kiến thức căn bản về cách khai thác những ứng dụng công nghệ, đồng thời phải chắt lọc tinh tường những nội dung có giá trị cho bài học, và cho chính sự phát triển kiến thức và kỹ năng tiếng Anh của sinh viên. Từ đó họ hướng dẫn, trao đổi và truyền đạt lại cách thức, thủ thuật tìm kiếm thông tin đáng tin cậy từ nguồn internet cho sinh viên, mà đồng thời cũng kiểm soát được quá trình chuẩn bị và khai thác nội dung bài học của sinh viên. Dạy học tiếng Anh CNTT theo quy trình này có một giá trị lâu dài: sinh viên sẽ có thể áp dụng những kỹ năng học được từ môn học để áp dụng vào thực tế sử dụng nguồn tài liệu khác về chuyên ngành của họ, một chuyên ngành mà trên 90% được viết bằng tiếng Anh.



Bước 3: Các hoạt động sau khi đọc. Trong quy trình mới của chúng tôi, bước này nhấn mạnh hoạt động thảo luận mở rộng nội dung của bài học dựa trên toàn bộ tài liệu bổ sung mà giáo viên cung cấp cho sinh viên và những thông tin liên quan đến bài học mà sinh viên tìm kiếm và sưu tầm được. Ở phần này, hoạt động phổ biến nhất là làm việc theo nhóm nhỏ trao đổi ý kiến và nhận định về các thông tin đó, hoặc liên kết những thông tin bổ sung với nội dung bài học từ nhiều phía. Một hoạt động khác là những bài tập phân vai, tạo dựng các tình huống có thật và cùng giải quyết những vấn đề thường gặp đối với nội dung trong bài học. Hoặc đôi khi có thể thực hiện một bài viết tại lớp rất nhỏ về một nội dung mà sinh viên thực sự thích thú trong bài. Do quy trình yêu cầu khai thác bài học tối đa với rất nhiều hoạt động sâu và kỹ, ở bước này, giáo viên phải rất nỗ lực trong việc tìm ra những hình thức bài tập phù hợp để sao cho không trùng lặp với những bài tập trong suốt hai bước trước đó là các hoạt động trước đọc và các hoạt động đọc hiểu.

Các tài liệu sử dụng trong bước này đều có nguồn từ các trang web uy tín. Các bài đọc đều được trích một phần từ các bài báo của tạp chí về CNTT hàng đầu như Cnet. Phần còn lại của bài báo được giáo viên sử dụng như tài liệu bổ sung vì nội dung có liên quan trực tiếp đến bài học nên dễ dàng khai thác để sinh viên có được cái nhìn tổng thể hơn về vị trí và tầm quan trọng của bài học. Bản thân những tài liệu mà giáo viên yêu cầu sinh viên chuẩn bị cũng đều có nguồn từ các trang web, các bài giảng điện tử trên mạng internet, các chủ đề tranh luận trong các bản tin hay diễn đàn chuyên ngành. Tất cả sẽ được đưa lên bàn học để khai thác tối đa những nhìn nhận đa chiều về một chủ đề.



Phần 3. Củng cố và phát triển

Giống như giai đoạn chuẩn bị, giai đoạn củng cố và phát triển là một thành phần hoàn toàn mới của quy trình này. Điều đó không có nghĩa là các quy trình trước đây không có bước củng cố và phát triển, mà thực chất toàn bộ các hoạt động củng cố bài học thường được thực hiện tại lớp như là một phần nhỏ của giai đoạn khai thác với một lượng nhất định bài tập về nhà. Nhưng sự thay đổi lớn nhất của quy trình dạy đọc là ở chỗ, củng cố bài học tại lớp chỉ có thể tái hiện lại kiến thức trong một thời gian tương đối ngắn, và như vậy người học có thể quên nhanh chóng sau khi giờ học kết thúc, còn việc củng cố và phát triển nếu được thực hiện trong khoảng thời gian sau giờ lên lớp, nó có thể giúp người học không chỉ tái tạo lại kiến thức, mà trên nền đó, có thể sáng tạo ra những cái mới cho riêng mình. Giai đoạn này gồm hai hoạt động: củng cố và phát triển.

Củng cố là hoạt động giúp sinh viên ghi nhớ và nắm vững nội dung bài học sau khi giờ học đã kết thúc, để biến những nội dung đó thực sự trở thành kiến thức của họ. Các bài tập củng cố có thể là một bài dịch tài liệu bổ sung, có thể là một bài tóm tắt nội dung đã học, có thể là thiết kế một mạng lưới từ vựng đã học được trong bài, hoặc một bài viết hoàn chỉnh, diễn đạt lại nội dung bài theo ý hiểu của sinh viên. Tất cả các hoạt động này đều nhằm giúp sinh viên lặp lại nội dung học dưới nhiều hình thức khác nhau, với nhiều phạm vi khác nhau, từ đó hình thành ở họ tư duy tích cực và khách quan, chứ không bám theo một quan điểm hay một cách nhìn nhận nào đó. Thông qua đó, sinh viên tự kết nối dữ kiện và thông tin để xây dựng kiến thức cho mình, bổ sung cho chính kiến thức chuyên ngành của họ. Bên cạnh đó, việc lồng ghép các kỹ năng ngôn ngữ khác như viết ở bước này sẽ đa dạng hóa hình thức học tập của sinh viên, khuyến khích họ cải thiện các kỹ năng ngôn ngữ tương đối đồng đều.

Phát triển là hoạt động giúp sinh viên dựa trên nền tảng kiến thức được cung cấp, tự tìm ra những quy luật, tự mở rộng và tự nâng cao kiến thức chuyên ngành với việc sử dụng những kỹ năng ngôn ngữ và kỹ năng học tập đã được trang bị. Các hoạt động phát triển đòi hỏi giáo viên có những bài tập chuẩn bị rất kỹ và thiết kế các hình thức đánh giá lâu dài. Giai đoạn này khó thực hiện nhất trong quy trình nhưng cũng là bước không thể thiếu, bởi những kiến thức đã học của sinh viên nếu không được phát triển lên một tầm cao mới, sẽ ít có tính ứng dụng thực tế trong việc học tập và làm việc của họ sau này. Các hoạt động phát triển bao gồm: tìm kiếm mở rộng thông tin bài học, viết báo cáo hàng tuần để tập hợp các chủ đề CNTT, từ đó thực hiện xêmina, hoặc biểu diễn nội dung học dưới dạng sơ đồ liên kết. Với các hoạt động này sinh viên sẽ không chỉ tập trung vào nội dung đã học, mà đặt nội dung đó vào trung tâm để tìm ra những mỗi liên hệ mới với những nội dung khác, không chỉ tập trung vào kiến thức một bài học cụ thể, mà sắp xếp toàn bộ nội dung học của cả học kỳ theo một sơ đồ cấu trúc nhất định. Bài tập này được thực hiện từng khâu một, với mỗi tuần sinh viên đều phải có bài tập phát triển nội dung bài của tuần trước, đảm bảo đến cuối kỳ học, sinh viên có một tập hợp tài liệu tìm kiếm cũng như tự tái tạo và sáng tạo về những chủ đề quan trọng nhất trong lĩnh vực CNTT. Mức độ khai thác những dạng bài tập phát triển nảy cũng tùy thuộc vào năng lực của sinh viên và thời gian đầu tư của giáo viên. Một lần nữa, cần phải khẳng định rằng, với quy trình dạy đọc mới này, cả giáo viên và sinh viên đều phải tích cực chủ động hơn trong quá trình dạy và học. Có thể đó là một khối lượng công việc nhiều hơn, trách nhiệm cao hơn, nhưng kết quả đạt được cũng cao hơn rất nhiều.



Phần 4. Kiểm tra-đánh giá

Kiểm tra đánh giá là một phần không thể thiếu của bất kỳ quy trình dạy học nào và là hoạt động xuyên suốt thời gian diễn ra hoạt động học tập. Tương ứng với từng giai đoạn của quy trình, chúng tôi thiết kế những hình thức kiểm tra đánh giá khác nhau.

Đối với kiểm tra đánh giá trong giai đoạn chuẩn bị cho bài đọc dưới các hình thức đánh giá thường xuyên gồm có: các bài dịch, các tài liệu sinh viên tìm kiếm thu thập, bài tập trong sách giáo khoa. Giáo viên tư vấn cho sinh viên bằng nhiều hình thức, tạo động lực, hứng thú cho sinh viên trong học tập và nghiên cứu nội dung môn học. Hình thức kiểm tra đánh giá này cũng nhằm mục đích giúp giảng viên có những thông tin phản hồi để điều chỉnh hoạt động giảng dạy của mình. Hình thức kiểm tra đánh giá này không gắn với tên sinh viên cụ thể, chỉ nhằm định hướng cho hoạt động học, nghiên cứu môn học và cũng là để điều chỉnh hoạt động của giảng viên, do đó hình thức kiểm tra đánh giá này không tính điểm.

Việc kiểm tra đánh giá các hoạt động học trên lớp của sinh viên được thực hiện dưới hình thức kiểm tra định kỳ, bao gồm: 1) Tham gia học tập trên lớp (trả lời các câu hỏi trực tiếp), hoạt động này giúp đánh giá thái độ học tập của sinh viên trong các giờ học trên lớp (đi học đầy đủ, chuẩn bị bài tốt, tích cực thảo luận); 2) Bài tập cá nhân giúp giáo viên đánh giá ý thức học tập thường xuyên và kĩ năng làm việc độc lập; 3) Bài kiểm tra tiến độ có mục đích đánh giá mức độ tiến bộ của sinh viên sau một thời gian học nhất định; 4) Bài tập nhóm (giữa kì) đánh giá kĩ năng hợp tác trong công việc, tinh thần trách nhiệm chung với cả nhóm; và 5) Bài kiểm tra cuối kì đánh giá khả năng, mức độ nhớ, hiểu vấn đề và áp dụng trong tình huống cụ thể. Có thể thấy do các hoạt động học trên lớp rất đa dạng nên các hình thức kiểm tra cũng phải phù hợp và giúp giáo viên đánh giá đúng năng lực học tập làm việc của sinh viên cũng như kỹ năng ngôn ngữ của họ. Bản thân quá trình thực hiện kiểm tra cũng có sự hỗ trợ rất lớn của công nghệ, chẳng hạn những bài kiểm tra thường xuyên có thể được trình bày dưới ngôn ngữ web HotPotatoes, hoặc bài trình bày theo nhóm của sinh viên cũng khai thác tối đa những ứng dụng công nghệ.

Cuối cùng, việc kiểm tra đòi hỏi nỗ lực cao độ của giáo viên là đánh giá các hoạt động sau bài học. Đó có thể là một bài tập lớn theo nhóm, báo cáo cá nhân và những lần tư vấn giáo viên của học sinh. Mục đích của hình thức kiểm tra đánh giá này cũng không nhằm lấy điểm mà chủ yếu để định hướng hoạt động học của sinh viên sau bài học, trang bị cho họ những kỹ năng tự tổ chức hoạt động học của mình để họ có thể tự mình khai thác phát triển trong những nội dung mới, thậm chí là những lĩnh vực mới.

Bản chất của việc giảng dạy tại các môn học nói chung và TACN nói riêng tại bậc đại học chính là chỉ ra con đường và cách thức học tập để người học có thể tự học lâu dài ngay cả khi họ đã rởi trường đại học, vì vậy toàn bộ quy trình dạy học cần phải hướng đến mục đích cuối cùng này. Tất cả các hoạt động học tập và hình thức kiểm tra được thiết kế trong quy trình này nhằm đảm bảo cho người học làm chủ được quá trình học tập của mình, đặc biệt điều này có thể trở nên dễ dàng hơn với sự hỗ trợ đắc lực của những ứng dụng CNTT, một trong những nhân tố tác động và làm thay đổi mạnh mẽ quy trình, nội dung và cả hình thức hoạt động học tập một cách toàn diện trên mọi lĩnh vực của xã hội.



3.3. Quy trình dạy và học kĩ năng đọc hiểu tiếng Anh chuyên ngành ĐTVT

Các bài học dựa trên 3 cuốn giáo trình English for Electronics and Telecommunications Volume 1, 2, 3 do tập thể giáo viên tổ tiếng Anh chuyên ngành ĐTVT biên soạn dành cho sinh viên khoa Điện tử viễn thông, Vật lý kỹ thuật, và Cơ học kỹ thuật của ĐHCN - ĐHQGHN.

Trong việc dạy và học kỹ năng đọc TACN nói chung và TACN Điện tử viễn thông nói riêng, trình độ sinh viên là một yếu tố tiên quyết ảnh hưởng tới việc lựa chọn quy trình và các hoạt động cụ thể trong quy trình dạy và học. Chính bởi vậy khi lựa chọn quy trình dạy học trong, cụ thể ở đây là quy trình dạy học TACN Điện tử viễn thông, giáo viên cần chú trọng quan tâm đến yếu cấp độ học viên để có sự lựa chọn phù hợp.

3.3.1. Phân loại cấp độ kĩ năng của học viên trong dạy học tiếng Anh chuyên ngành ĐTVT và mối liên quan giữa cấp độ kỹ năng của sinh viên với việc lựa chọn quy trình dạy và học TACN ĐTVT

Khi tiếp xúc với TACN Điện tử viễn thông sinh viên đều đã đạt tới trình độ sơ - trung cấp về tiếng Anh cơ sở, nhưng trong quá trình dạy và học TACN, sinh viên lại được phân chia trình độ TACN theo 3 cấp độ cụ thể như sau:

+ Cấp độ kỹ năng 1: Sinh viên bắt đầu tiếp xúc với TACN, các bài học cho sinh viên cấp độ này nói về các khái niệm cơ bản trong điện tử học (định nghĩa về các hạt mang điện, nguồn gốc dòng điện, mạch điện, vật liệu dẫn điện, cách điện, vật liệu bán dẫn), khái niệm, sự ra đời, công dụng và những ứng dụng đơn giản của các linh kiện và thiết bị điện tử đơn giản phổ biến (điện trở, mạch tích hợp, tụ, đèn chân không, transitor, mạch khuyếch đại, điện thoại, thiết bị phát sóng radio). Mục tiêu chính của việc dạy đọc trong giai đoạn này là hình thành kỹ năng đọc tìm thông tin cụ thể, đọc lướt, đọc nắm ý chính của các đoạn văn ngắn đơn giản. ở cấp độ này, sinh viên tự học kỹ năng đọc hiểu thông qua việc chuẩn bị trước bài đọc sắp học ở nhà, tra cứu các từ mới, suy luận, tăng thời lượng tiếp xúc với TACN và củng cố lượng từ mới. Đây là cơ hội cho sinh viên tạo thói quen tự học ngoại ngữ.

+ Cấp độ kỹ năng 2: Sinh viên bước sang giai đoạn nắm được một số khái niệm cơ bản về TACN, vốn tự vựng cơ bản đã được thiết lập tạo điều kiện phát triển kỹ năng đọc các tài liệu có tính phức tạp, đòi hỏi khả năng suy luận và nối kết cao hơn. Học liệu cho học kỹ năng đọc hiểu của sinh viên cấp độ này là các bài đọc nói về các máy móc điện tử phổ biến và tương đối phức tạp như máy thu hình, điện thoại di động, máy tính điện tử, robot, radar, sonar, và giới thiệu sơ lược về công nghệ nano. Kỹ năng đọc hiểu cần chú trọng phát triển chính cho sinh viên cấp độ này là kỹ năng đọc tìm ý chính và suy luận logic, kỹ năng tự tìm khai thác tài liệu qua mạng internet nhằm làm phong phú nội dung bài học. Việc tự học của sinh viên chủ yếu là tận dụng CNTT để tìm kiếm khai thác thông tin có liên quan đến chủ đề bài sắp học từ các học liệu và tài liệu đa dạng từ nhiều nguồn khác nhau, sau đó tập tóm tắt các tài liệu đã đọc và ứng dụng các phần mềm trình chiếu tạo thành các bài trình bày presentation trên máy tính. Các bài chuẩn bị này được trình bày trước lớp như nguồn thông tin bổ trợ cho bài học, nhận được các ý kiến phản hồi từ giáo viên và các sinh viên cùng lớp, qua đó sinh viên kiểm chứng được chất lượng kỹ năng đọc hiểu của mình.

+ Cấp độ kỹ năng 3: Sinh viên cấp độ này đã hình thành kỹ năng đọc hiểu tương đối tốt và có khả năng suy luận liên kết các nội dung đã đọc. Nội dung bài đọc dạy kỹ năng đọc hiểu cho sinh viên cấp độ này là các bài nói về các khái niệm và công nghệ mang tính phức tạp cao như công nghệ số và tương tự, băng thông, công nghệ nén, ghép kênh, mạng nội bộ và mạng diện rộng LANS, MANS, WANS, mạng world wide web, bảo mật trên mạng, công nghệ 3G, công nghệ internet không dây, công nghệ truyền tín hiệu qua vệ tinh. Ngoài ra, sinh viên còn được tham gia các buổi seminar trong quá trình học. Quá trình chuẩn bị cho seminar cũng là cơ hội cho sinh viên luyện tập kỹ năng tự đọc hiểu, phân tích tài liệu và seminar chính là cơ hội để giáo viên va các sinh viên khác trong lớp kiểm chứng chất lượng kỹ năng đọc hiểu của sinh viên tham gia trình bày. Mục đích của việc dạy đọc hiểu cho sinh viên thuộc cấp độ này là phát triển cho sinh viên kỹ năng tự đọc dùng chính ngôn ngữ của mình để tóm tắt, diễn đạt, thảo luận, phê phán trong những hoạt động tư duy mang tính phức tạp cao.

3.3.2. Dạy và học kĩ năng đọc hiểu cho sinh viên

Quy trình dạy mỗi bài đọc dù cho sinh viên ở cấp độ kỹ năng nào cũng được thiết kế thành 4 bước:

1) Bước 1. Khởi động (Warm-up)

2) Bước 2. Hoạt động trước khi đọc (Pre-reading activities)

3) Bước 3. Hoạt động đọc (While-reading activities)

4) Bước 4. Hoạt động sau khi đọc (Post-reading activities)



3.3.2.1. Quy trình dạy và học đọc hiểu cho sinh viên cấp độ kĩ năng 1

Bước 1: Khởi động (Warm-up)

Hoạt động này được thực hiện từ 2 đến 5 phút. Mục đích chính của bước này là tạo không khí giờ học, ngoài ra tìm ra những gì sinh viên đã biết về vấn đề sắp được đề cập đến trong bài học, và để hướng sinh viên vào nội dung chủ đề bài học một cách tự nhiên, qua đó giáo viên xác định được những vấn đề cần được đặc biệt chú trọng. Cách tiến hành các hoạt động warm-up do đó phụ thuộc chặt chẽ vào nội dung mỗi bài và đối tượng sinh viên.

Do thời lượng hạn chế và mục đích như trên, hoạt động khởi động thông thường là một trò chơi hay bài ôn tập ngắn do giáo viên hay sinh viên chuẩn bị và đựợc trình bày trên máy tính sinh động và tiết kiệm thời gian. Trong bước này, CNTT, hay cụ thể ở đây là việc sử dụng máy tính (xách tay hoặc để bàn) và máy chiếu OHP trong lớp học hay các thiết bị trong phòng lab đóng vai trò tích cực trong việc tạo không khí giờ học. Máy tính (đặc biệt là máy tính nối mạng internet) có khả năng tạo môi trường tương tác cho sinh viên tham gia hoạt động vì nó giúp kết hợp cả kênh hình ảnh và âm thanh. Máy tính vừa tạo ra sự sinh động cho các hoạt động, vừa hiển thị hướng dẫn cho các hoạt động và đáp án nhanh chóng, đẹp mắt, vừa là công cụ hỗ trợ giáo viên luyện phát âm cho sinh viên. Với đối tượng sinh viên cấp độ 1, do kinh nghiệm tiếp xúc với TACN còn ít, các hoạt động chủ yếu do giáo viên chuẩn bị nhằm mục đích giúp sinh viên làm quen, ghi nhớ, hay ôn tập những kiến thức đơn giản đã học về linh kiện điện tử. Các hoạt động có thể có nội dung và phương thức tiến hành như sau:


  • Chơi trò chơi lắp ghép (Matching game): Sinh viên được tham gia một trò chơi ghép tên linh kiện điện tử với hình ảnh của các linh kiện. Tên linh kiện và hình ảnh linh kiện xuất hiện trên màn hình cùng một lúc nhưng không theo trật tự tương đương, cũng có thể xuất hiện theo dạng bài tập multiple choice (một hình ảnh xuất hiện cùng với ba phương án lựa chọn về tên gọi hay một tên gọi xuất hiện cùng với 3 hình ảnh linh kiện). Sinh viên được chia thành 2 nhóm và cùng nhau ghép tên linh kiện chính xác với hình ảnh minh họa trong thời gian ngắn nhất. Hoạt động này kết thúc kèm với việc giáo viên ôn luyện cho sinh viên cách phát âm tên các linh kiện.

  • Chơi trò chơi phán đoán (Guessing game): Sinh viên được đọc các đoạn văn ngắn mô tả về thời gian ra đời của một số linh kiện điện tử, có thể kèm theo minh họa các bộ phận của linh kiện bằng hình ảnh, các đoạn phim ngắn về hoạt động hay ứng dụng của linh kiện đó. Sinh viên nhanh chóng thảo luận theo nhóm để đoán tên của linh kỉện.

  • Sẵp xếp từ hay câu theo đúng trật tự (Jumbled words or sentences): Sinh viên cũng có thể được cung cấp trên màn hình máy tính các từ với các chữ cái xáo trộn hay các câu định nghĩa với các từ đã được xáo trộn vị trí. Nhiệm vụ của sinh viên là theo cặp hay nhóm nhanh chóng sắp xếp các chữ cái thành các từ có nghĩa hay các câu định nghĩa hoàn chỉnh.

Bước 2: Hoạt động trước khi đọc (Pre-reading activity)

Hoạt động này được tiến hành trong vòng 7 đến 10 phút nhằm mục đích chính là hướng sinh viên tiếp cận với nội dụng bài đọc, tạo ra cho sinh viên có sự hình dung tổng thể về nội dung bài đọc, có các phán đoán, thảo luận về những vấn đề sẽ được bàn đến hay trả lời trong bài đọc. Hoạt động trước khi đọc chủ yếu là nhằm hỗ trợ sinh viên về mặt từ vựng và là các hoạt động mở, để cho sinh viên có sự thảo luận, suy đoán, thậm chí thắc mắc về các linh kiện và những vấn đề liên quan trong nội dung sắp đọc. Trong các họat động này không có sự đánh giá đúng sai về các ý kiến sinh viên đưa ra khi thảo luận. Chính vì vậy, trong các hoạt động trước khi đọc, CNTT không chỉ đơn thuần được ứng dụng để tạo không khí hay đưa ra hướng dẫn cho các hoạt động và đáp án của các bài tập đưa ra trong các họat động. Máy tính trong giai đoạn này đóng vai trò là giáo cụ trực quan sinh động, minh họa cấu tạo và nguyên lý hoạt động các linh kiện bằng các hình ảnh động, có thể có sẵn hoặc do sinh viên và giáo viên khai thác về hoặc tự xây dựng nhờ các ứng dụng của CNTT. Máy tính (nhất là máy tính trong phòng lab) có thể đóng vai trò tương tác ngay tại chỗ, giúp sinh viên tìm hiểu kỹ về cấu tạo và nguyên lý hoạt động, thậm chí học tên gọi các bộ phận thông qua phần hình ảnh minh họa. Giáo viên hoặc sinh viên có thể trực tiếp ghi lại trên màn hình máy tính các ý kiến, quan điểm khác nhau khi thảo luận dưới dạng đối chiếu, hay sơ đồ logic để sinh viên có sự hình dung, so sánh với các kết luận thu đựợc trong quá trình đọc. Tùy theo những nội dung ngôn ngữ, chủ đề của bài học, những khó khăn mà giáo viên phán đoán trước về bài học cũng như việc tiến hành bài học mà tổ chức các hoạt động trước khi đọc cho phù hợp. Hoạt động này chủ yếu do giáo viên chuẩn bị hoặc cũng có thể do nhóm sinh viên trình bày chuẩn bị.

Với trình độ kỹ năng của sinh viên ở cấp độ 1, các hoạt động trước khi đọc có thể như sau:


  • Dạy trước phần từ vựng (Pre-teaching vocabulary): Hoạt động dạy từ mới kèm theo minh họa bằng hình ảnh trên máy tính. Cách minh họa trên máy tính trong quá trình dạy từ mới tạo hiệu quả tiếp thu cao, giúp sinh viên có sự liên hệ trực tiếp dễ dàng giữa các tên gọi trong ngoại ngữ với các kiến thức chuyên ngành mà thực chất sinh viên đã nắm được.

  • Động não (Brainstorming): Hoạt động ôn lại những kiến thức đã biết về linh kiện trong bài đọc sắp tiếp xúc đòi hỏi sinh viên liệt kê những kiến thức đã biết về linh kiện và cố gắng diễn đạt những hiểu biết đó bằng tiếng Anh.

  • Thảo luận (Discussion): Sinh viên được giáo viên cung cấp qua việc hiển thị trên máy tính một loạt các câu nhận định về linh kiện sắp tiếp xúc qua bài đọc. Sinh viên thảo luận theo nhóm hay cặp để nhận định xem các câu nhận định đó là đúng hay sai. Giáo viên thu thập và ghi lại các phương án trả lời kèm theo giải thích của các nhóm trên màn hình máy tính, nhưng không đưa ra đáp án. Đáp án sẽ được tìm thấy khi sinh viên đọc bài đọc.

Bước 3: Hoạt động đọc

Hoạt động đọc là trung tâm của quá trình đạy đọc một bài (tiến hành trong vòng 20-25 phút). Được tiến hành sau các họat động khởi động và hoạt động trước khi đọc, hoạt động đọc sinh viên không còn bỡ ngỡ với nội dung chủ đề của bài đọc và đã biết được một số từ mới chủ yếu trong bài. Đây là thời gian cho sinh viên làm việc theo nhóm, theo cặp, hay cá nhân tập trung đọc hiểu bài khóa, tự so sánh, đối chiếu, giải đáp những băn khoăn hình thành trong các hoạt động thảo luận mở trước khi đọc, củng cố thêm những kiến thức đã biết và kết hợp tiếp thu một số thông tin mới. Các hình thức câu hỏi hỗ trợ, củng cố và định hướng sinh viên khai thác bài đọc được lựa chọn một cách kỹ càng, đa dạng, giúp cho sinh viên tiếp thu bài đọc một cách có hệ thống, nhớ lâu, ứng dụng trong các bài học sau này và tạo hứng thú với việc học kỹ năng đọc. Do quá trình đọc là quá trình tập trung nghiên cứu của sinh viên, ít có sự tương tác với giáo viên và giữa các cá nhân, các cặp, các nhóm nên CNTT chủ yếu được ứng dụng làm giáo cụ trực quan hiển thị những từ ngữ, ý kiến thảo luận hỗ trợ sinh viên khi đọc, hiển thị đáp án cho các bài tập và minh họa cho các lập luận cần thiết để đi đến đáp án và một số giải thích của giáo viên về các kiến thức, cấu trúc khó trong bài. Các hoạt động trong khi đọc có thể như sau:



  • Xác định phương án Đúng/Sai (True/False): Sinh viên đọc và nhận diện xem các câu nhận định đã thảo luận từ hoạt động trước khi đọc là đúng hay sai so với nội dung bài đọc. Giáo viên thu thập câu phương án lựa chọn đúng sai kèm theo giải thích cụ thể từ sinh viên, sau đó hiển thị đáp án trên màn hình, có thể kèm theo thảo luận để tiến tới thống nhất hoặc giáo viên giải thích nếu cần.

  • Liên hệ với ngữ cảnh (Contextual reference): Sinh viên đọc và dựa trên ngữ cảnh ghép các từ mới được gạch chân trong bài với các từ đồng nghĩa hay trái nghĩa, hay các đoạn giải thích nghĩa cho sẵn. Giáo viên cho hiển thị đáp án trên màn hình vi tính, có kèm theo ví dụ gắn với kiến thức chuyên ngành cho sinh viên dễ ghi nhớ. Tiếp đó giáo viên yên cầu sinh viên đặt các ví dụ tương tự để tăng khả năng ứng dụng từ trong giao tiếp ngôn ngữ của sinh viên.

  • Trả lời câu hỏi đọc hiểu (Comprehension questions): Sinh viên đọc và trả lời các câu hỏi đọc hiểu dựa trên nội dung bài đọc, giáo viên thu thập câu trả lời từ sinh viên và hiển thị đáp án đúng trên màn hình vi tính, cho sinh viên trao đổi thống nhất hoặc giáo viên giải thích nếu cần. Trong hoạt động này, máy tính còn được dùng để minh họa, dẫn dắt các lập luận đi tới đáp án.

  • Điền thông tin thiếu vào chỗ trống (Gap-filling): Trong hoạt động này giáo viên cho hiển thị một đoạn văn có từ 5 đến 10 chỗ bỏ trống. Các từ cần điền được gợi ý trong khoảng từ 10 đến 15 từ, đều là các từ quen thuộc, chủ yếu là các từ xuất hiện trong bài đọc. Sinh viên lựa chọn trong số các từ gợi ý để điền vào các chỗ trống. Giáo viên cho hiển thị đáp án trên màn hình máy tính.

Bước 4: Hoạt động sau khi đọc

Hoạt động này được tiến hành trong vòng 10 đến 15 phút. Mục đích của hoạt động sau khi đọc thường là để kiểm tra và ôn luyện những nội dung mà sinh viên đã được học trong bài thông qua các hoạt động như kiểm tra việc hiểu khái niệm mới, từ mới, cách dùng từ trong ngữ cảnh, tóm tắt bài đọc, đóng vai, trò chơi ngôn ngữ v.v… CNTT ứng dụng trong giai đoạn này chủ yếu hỗ trợ giáo viên giao bài tập và hướng dẫn cách thực hiện bài tập cho sinh viên. Các hoạt động có thể như sau:



  • Chơi trò chơi ô chữ (Cosswords): Giáo viên tổng kết các từ mới học trong bài và thiết kế dạng ô chữ kèm theo các gợi ý hiển thị trên màn hình vi tính. Sinh viên được chia thành 2 nhóm, được yêu cầu không sử dụng tới sách học và vở ghi mà hoàn toàn dựa vào trí nhơ, mỗi nhóm sinh viên đều nhanh chóng điền các chữ trong ô chữ dựa trên gợi ý. Giáo viên theo dõi nhóm nào hoàn thành chính xác ô chữ trước là nhóm thắng cuộc. Giáo viên công bố đáp án trên màn hình máy tính.

  • Điền thông tin vào biểu đồ/sơ đồ: Sinh viên làm việc theo cặp đôi hay nhóm nhỏ. Giáo viên cho hiển thị trên màn hình sơ đồ mô tả cấu trúc của bài đọc, có những phần đã điền trong sơ đồ. Sinh viên trong nhóm hoàn thành nốt sơ đồ dựa trên nội dung của bài đọc. Giáo viên công bố đáp án đúng trên màn hình máy tính.

  • Sẵp xếp câu theo trật tự đúng (Jumbled sentences): Giáo viên cho hiển thị trên màn hình các câu văn tóm tắt nội dung bài đọc nhưng các câu văn này có trật tự lộn xộn. Sinh viên làm việc theo cặp hoặc nhóm sắp xếp lại các câu văn theo trật tự đúng để có được đoạn tóm tắt hoàn chỉnh về bài đọc.

  • Trả lời câu hỏi (Questions and answers): Sinh viên làm việc theo cặp, lần lượt hỏi và đáp về nội dung bài đọc theo các gợi ý mà giáo viên cho hiển thị trên màn hình. Giáo viên theo dõi các hội thoại giữa sinh viên và sửa các lỗi sai nếu có.

3.3.2.2. Quy trình dạy và học kĩ năng đọc cho sinh viên cấp độ kĩ năng 2

Bước 1: Khởi động (Warm-up)

Vẫn với thời lượng 2-5 phút và mục đích như đối với sinh viên ở cấp độ kỹ năng 1, hoạt động khởi động đối với sinh viên cấp độ kỹ năng 2 chủ yếu do sinh viên chuẩn bị để trình chiếu trên máy tính với ứng dụng các phần mềm hiện đại và hấp dẫn, thu hút sự chú ý của sinh viên. Máy tính của giáo viên kết hợp với OHP hay các máy tính trong phòng lab được ứng dụng để tạo không khí hứng thú, sinh động cho buổi học, tiết kiệm thời gian và tăng hiệu quả hoạt động. Các hoạt động được lựa chọn trong bước khởi động có thể như sau:



  • Thông báo tin tức (News report): Một nhóm sinh viên thu thập từ

các nguồn thông tin cập nhật những tin tức về các máy móc, thiết bị điện tử mới ra đời. Một nhóm sinh viên theo phân công của giáo viên hay giữa các sinh viên trong lớp thu thập thông tin và tóm tắt thành một bản tin nhanh trình bày trước lớp với các hình ảnh sống động hay các đoạn phim minh họa cho các thiết bị, máy móc được nhắc tới trong bản tin. Các sinh viên khác trong lớp ghi chép lại những thông tin hữu ích, có thể đặt thêm câu hỏi về các thông số và các ứng dụng được quan tâm.

  • Trả lời Đố vui về các thiết bị (Device quiz): Hoạt động trò chơi do sinh viên chuẩn bị cũng chủ yếu hướng vào việc ôn lại các kiến thức đã học từ các bài trước. Câu đố liên quan đến chức năng, ứng dụng, các sự kiện kèm theo đáng quan tâm, hay các thông số nổi bật về các máy móc thiết bị đã học, có thể mở rộng tới các thiết bị không có trong chương trình học để tăng cường hiểu biết rộng về lĩnh vực điện tử viễn thông.

Bước 2: Hoạt động trước khi đọc

Do nội dung học kỹ năng đọc hiểu sinh viên ở cấp độ này chủ yếu là các bài đọc có chủ đề về máy móc, thiết bị điện tử phổ biến và phức tạp, CNTT đóng vai trò hỗ trợ rất đắc lực trong việc minh họa sinh động và logic cấu tạo phức tạp và nguyên lý hoạt động của các thiểt bị. Trong bước này cả giáo viên và sinh viên cùng tham gia vào quá trình chuẩn bị và dẫn dắt các hoạt động với sự hỗ trợ của máy tính. Ở cấp độ này do có sự kết hợp với hoạt động trình chiếu của các nhóm sinh viên trình bày nên thời lượng cho các hoạt động trước khi đọc kéo dài hơn so với cấp độ 1, khoảng 20-25 phút. Các hoạt động trước khi đọc dành cho sinh viên với cấp độ kỹ năng 2 như sau:



  • Dạy trước phần từ vựng (Pre-teaching vocabulary): Hoạt động dạy từ vựng và cấu trúc đối với sinh viên ở cấp độ kỹ năng này không giống như với sinh viên cấp độ kỹ năng 1 do vốn từ vựng của sinh viên và khả năng đọc hiểu được nâng cao hơn. Các hình ảnh minh họa để gợi ý nghĩa của từ mới ít dần đi thay thế bằng các gợi ý giải nghĩa từ bằng tiếng Anh hiển thị trên màn hình hoặc dưới dạng âm thanh. Việc khai thác máy tính để dạy từ vựng theo cách này giúp kết hợp cả kỹ năng nghe và tăng cường thêm kỹ năng suy luận. Số lượng từ và cấu trúc được dạy cũng thu hẹp hạn chế hơn nhiều so với trước, chỉ là các từ đặc biệt mà giáo viên nhìn nhận là sinh viên khó có thể hoặc không thể dựa vào ngữ cảnh trong bài đọc để đoán nghĩa.

  • Phân tích mẫu vật (Analysing realia or visual representation): Nhóm sinh viên trình bày hoặc giáo viên đưa ra một mẫu vật minh họa cho máy móc thiết bị sắp học (điện thoại di động, máy tính ...) hay cho hiển thị trên màn hình máy tính sơ đồ tĩnh hoặc động của một thiết bị, máy móc (sơ đồ này do sinh viên tìm kiếm từ các nguồn trên internet hoặc tự xây dựng với ứng dụng của CNTT). Sinh viên thảo luận theo nhóm phân tích cấu tạo sơ đồ, phán đoán các bộ phận, linh kiện cấu thành và nguyên lý hoạt động của thiết bị, máy móc đó. Giáo viên đóng vai trò hỗ trợ về ngôn ngữ diễn đạt hoặc hỗ trợ dẫn dắt các giải thích nếu sinh viên gặp khúc mắc trong phân tích hình ảnh hay không thống nhất về cách phân tích. Máy tính trong hoạt động này có khả năng tạo hiệu ứng tích cực, hiển thị hình ảnh sinh động, dễ hiểu đặc biệt với các hình ảnh động miêu tả các bộ phận được lắp ráp và hoạt động.

  • Trình bày (Presentation): Nhóm chuẩn bị thực hiện bài trình bày ngắn (15-20 phút) có nội dung được giáo viên định hướng xoay quanh chủ đề bài đọc sắp học với thông tin được trình bày đa dạng và minh họa sinh động cung cấp cho sinh viên trong lớp một lượng kiến thức nền đa dạng và dễ hiểu về máy móc, thiết bị mà sinh viên sắp sửa tiếp xúc qua bài đọc. Sau bài trình bày, các sinh viên khác trong lớp đặt câu hỏi để tìm hiểu sâu hơn về những kiến thức mà các em cần. Giáo viên đóng vai trò hỗ trợ cho nhóm trình bày về ngôn ngữ diễn đạt và khống chế về thời gian trình bày và tránh tình trạng các câu hỏi và trả lời đi quá xa chủ đề bài học.

  • Thảo luận (Discussion): Giáo viên đưa ra các câu hỏi gợi ý có liên quan đến nội dung bài đọc để sinh viên thảo luận theo nhóm, giáo viên hoặc các trưởng nhóm ghi lại ý kiến thảo luận trên màn hình vi tính để có sự so sánh đối chiếu khi đọc. Hoạt động thảo luận về các câu hỏi đơn giản liên quan đến cá linh kiện, bộ phận cấu tạo, nguyên lý, ứng dụng của các máy móc thiết bị dựa trên hình vẽ, hoặc thảo luận phân tích hình ảnh động minh họa, giúp sinh viên có những hình dung cụ thể về nội dung đọc hiểu sắp tiếp xúc.

Bước 3: Hoạt động đọc

Cũng như đối với sinh viên ở cấp độ kỹ năng 1, với sinh viên ở cấp độ kỹ năng 2, hoạt động đọc là trung tâm của quá trình đạy đọc một bài, là thời gian cho sinh viên làm việc theo nhóm, theo cặp, hay cá nhân tập trung đọc hiểu bài khóa, tự so sánh, đối chiếu, giải đáp những băn khoăn hình thành trong các hoạt động thảo luận mở trước khi đọc, củng cố thêm những kiến thức đã biết và kết hợp tiếp thu một số thông tin mới. Quá trình đọc là quá trình tập trung nghiên cứu của sinh viên, ít có sự tương tác với giáo viên và giữa các cá nhân, các cặp, các nhóm nên CNTT chủ yếu được ứng dụng làm giáo cụ trực quan hiển thị những từ ngữ, ý kiến thảo luận hỗ trợ sinh viên khi đọc, các hình ảnh minh họa cho các nội dung khó trong bài, hiển thị đáp án cho các bài tập và minh họa cho các lập luận cần thiết để đi đến đáp án và một số giải thích của giáo viên về các kiến thức, cấu trúc phức tạp. Do kỹ năng và tốc độ đọc hiểu của sinh viên cấp độ lỹ năng này đã được nâng cao, hoạt động đọc chỉ được tiến hành trong vòng 15 đến 20 phút. Các hoạt động trong khi đọc có thể như sau:



  • Đặt tiêu đề cho đoạn (Paragraph headings): Sinh viên được cung cấp các câu là ý chính của các đoạn văn trong bài. Sinh viên được yêu cầu đọc lướt nhanh trong khỏang thời gian do giáo viên quy định để nhanh chóng tìm ra chủ đề chính xác cho mỗi đoạn. Giáo viên sử dụng máy tính không chỉ để đưa ra đáp án đúng mà còn dùng để minh họa, highlight (gạch chân, in đậm, in nghiêng, tô màu) các từ ngữ, câu văn quan trọng (key words và key sentences) hướng dẫn sinh viên hình thành dần kỹ năng nhận diện nhanh chủ đề chính của đoạn văn khi đọc.

  • Định nghĩa từ (Word definition): Hoạt động tìm nghĩa từ qua bài đọc của sinh viêc ở cấp độ kỹ năng 2 phức tạp hơn so với hoạt động suy luận nghĩa trong ngữ cảnh dành cho sinh viên cấp độ kỹ năng 1. Sinh viên không được cung cấp sẵn các từ đồng nghĩa hay trái nghĩa để lựa chọn mà phải tự vẫn dụng vốn ngôn ngữ sẵn có cùng các từ, cấu trúc đã học hoặc có sẵn trong bài để đưa ra nghĩa cho từ. Máy tính được dùng để hiển thị các từ ngữ, cấu trúc cần thiết cho việc giải thích nghĩa, để sinh viên đưa ra câu trả lời (nếu là trong phòng lab) hoặc để giáo viên hiển thị nghĩa chính xác của từ được tập hợp từ các câu trả lời của sinh viên.

  • Trả lời câu hỏi đọc hiểu (Comprehension questions): Các câu hỏi đọc hiểu được dùng cho sinh viên cấp độ này cũng phức tạp và bao quát hơn các câu hỏi dùng cho sinh viên cấp độ kỹ năng 1. Các câu hỏi không chỉ đơn thuần đòi hỏi sinh viên đọc và trích dẫn thông tin trong bài đọc mà phải có sự suy luận, kết nối các thông tin mới đưa ra được câu trả lời. Giáo viên và sinh viên dùng ngôn ngữ và máy tính để minh họa cho các lập luận đưa đến câu trả lời của mình. Giáo viên có thể cho sinh viên thảo luận nếu có sự không thống nhất về câu trả lời hay cách lập luận sau đó tổng kết đưa ra câu trả lời cuối cùng.

  • Điền từ vào chỗ trống (Gap-filling): Ở dạng bài tập điền từ với sinh viên ở trình độ kỹ năng 2, sinh viên được yêu cầu điền số lượng từ hoặc cụm từ nhiều hơn, khoảng 10 đến 15 từ, được lựa chọn từ 15 đến 20 từ cho trước, không chỉ là các từ mới vừa học mà cả những từ đã học ở các bài trước thậm chí là những từ mới có cấu trúc từ loại hay cấu tạo có thể giúp suy luận về nghĩa hay chức năng của từ. Như vậy sinh viên không chỉ cần hiểu về nội dung dựa trên các từ ngữ trong bài để chọn từ điền hợp lý mà còn phải biết phân tích xem chức năng, từ loại của từ cần điền để có thể chọn được từ chính xác. Đáp án cũng được giáo viên hiển thị trên màn hình, kèm theo những giải thích lý do lựa chọn từ này mà không lựa chọn từ khác để điền vào những chỗ khó.


tải về 2.34 Mb.

Chia sẻ với bạn bè của bạn:
1   ...   4   5   6   7   8   9   10   11   ...   19




Cơ sở dữ liệu được bảo vệ bởi bản quyền ©hocday.com 2024
được sử dụng cho việc quản lý

    Quê hương