Cậu Bé Chăn Châu Trên Cánh Đồng Ước Mơ Cưỡi Máy Bay ! Đoàn Nguyên Đức



tải về 0.83 Mb.
trang13/14
Chuyển đổi dữ liệu11.09.2017
Kích0.83 Mb.
#33100
1   ...   6   7   8   9   10   11   12   13   14

Không tiếc tiền cho quảng cáo

Asa Candler đã vô cùng nhạy cảm khi phát hiện và đăng ký thương hiệu Coca-Cola. Thế nhưng các chuyên gia marketing còn khẳng định ông là một chuyên gia bậc thầy về marketing và xây dựng thương hiệu. Ai cũng biết rằng chất lượng, mùi vị của Coca-Cola không hề thay đổi từ cả hơn 100 năm nay. Cái giỏi của tập đoàn Coca-Cola chính là các hoạt động quảng cáo, marketing để xây dựng nên một thương hiệu hàng hoá nổi tiếng.

Asa Candler không tiếc tiền cho quảng cáo để xây dựng thương hiệu. Ngay từ năm 1895, nước giải khát Coca-Cola đã có mặt ở tất cả các bang của Mỹ. Asa Candler đã thực hiện một chiến dịch giới thiệu sản phẩm lớn chưa từng có vào thời điểm bấy giờ. Đâu đâu Coca-Cola cũng có những đội tiếp thị bán khuyến mại với cái giá 5 cent quá rẻ cho một ly. Đồng thời trên các phương tiện đại chúng và các biển quảng cáo, Coca-Cola xuất hiện với tần suất nhiều chưa từng có.

Bắt đầu từ số không của một thứ nước giải khát đặc biệt chưa bao giờ có trước đó, ông chủ Asa Candler đã như có phép thần khi biến Coca - Cola trở thành thứ nước giải khát “quốc hồn, quốc tuý” của người Mỹ. Nếu như trong năm đầu tiên, Candler chỉ bán được trên 30.000 lít Coca-Cola thì chưa đến 30 năm sau cả tập đoàn đã tiêu thụ được trên 70 triệu lít.

Để bảo vệ và xây dựng thương hiệu, Asa Candler đã nghĩ ngay đến việc phải có một bao bì đặc thù cho sản phẩm. Với ý nghĩ đó năm 1900 Candler đã đặt riêng chai thuỷ tinh màu xanh tên Coca-Cola. Khi nước uống Coca-Cola càng nổi tiếng thì càng là đối tượng bị làm giả. Vì vậy, năm 1916, chỉ một năm trước khi qua đời, Asa Griggs Candler đã đưa tiếp loại chai hình lọ hoa Tiffany không lẫn đi đâu được của Coca- Cola. Mẫu bao bì này được đăng ký bảo hộ độc quyền và còn được sử dụng cho đến ngày nay.

Năm 1919, những người con và cháu được huởng thừa kế của Asa Griggs Candler đã bán cả tập đoàn Coca-Cola cho một tổ hợp tài chính ngân hàng với cái giá 25 triệu USD, có thể tương đương với hơn 1 tỉ USD tính theo sức mua tại thời điểm đó.

(Theo Vneconomy)
Chàng trai từng gõ cửa nhà cựu Thủ tướng Lý Quang Diệu

Trong mục này thấy toàn gương doanh nhân nước ngoài, đọc mãi cũng thấy bùn. Hôm nay tình cờ đọc được bài mình phải post lên ngay. Anh này tuy chưa phải giỏi nhất, nhưng cũng được xem là hạng "đầu gấu" trong thị trường tài chính, mới có 37 tuổi! Xuất thân cũng ko phải từ dòng dõi quys tộc mà làm được bao nhiêu thứ. Phục thật!



Chàng trai từng gõ cửa nhà cựu Thủ tướng Lý Quang Diệu

Đó là người có biệt danh “Nguyên Vina Cap” hay “Nguyên Tài chính” - một chuyên gia về tài chính chứng khoán được đào tạo bài bản, mới 37 tuổi.

Năng động, dám nghĩ dám làm và biết hoạch định, đầu tư cho những cơ hội lâu dài, Phạm Uyên Nguyên là gương mặt tiêu biểu của thế hệ trí thức trẻ Việt Nam trong thời đại mới. Nguyên tắc sống và làm việc của anh: Muốn được xã hội thừa nhận, trọng dụng phải biết nghĩ đến lợi ích cộng đồng và tự phấn đấu rèn luyện mình thành người thực sự có năng lực.

Ý thức tự lập từ nhỏ

Từ thuở còn là học sinh, Nguyên đã nổi tiếng là cậu bé tài hoa. Không chỉ học giỏi đều các môn, cậu còn là một nhạc sĩ nhí, sáng tác được các ca khúc như Hành khúc Minh Khai, Ngồi lại bên nhau... đoạt nhiều giải thưởng của Sở GD-ĐT TPHCM và Thành đoàn. Bạn bè và người thân ai cũng nghĩ Nguyên sẽ theo con đường nghệ thuật. Ít ai ngờ rằng, Nguyên lại thi vào Đại học Nông Lâm. Cậu chỉ nghĩ đơn giản: “Việt Nam là nước nông nghiệp, học nông lâm sẽ có điều kiện đưa nền nông nghiệp nước nhà phát triển”. Nguyên từng đoạt giải nhất Eureka với công trình “Cách diệt ốc bươu vàng hại lúa”.

Nhà nghèo, nên Nguyên ý thức tự lập từ nhỏ. Lúc còn trên ghế nhà trường, cậu sống được bằng công việc dạy kèm và viết báo. Thời sinh viên, Nguyên từng thi vào và được làm phóng viên tập sự ở Báo Tuổi Trẻ. Một thời gian sau, Nguyên chấp nhận thử thách và sẵn sàng trả giá trước những cơ hội mới và bỏ nghề làm báo. Trong một cơ duyên, Nguyên được nhận vào công tác ở Viện Kinh tế TPHCM. Và thực tiễn công tác nghiên cứu nơi đây là chiếc nôi đào tạo cho một doanh nhân trẻ sau này.

Người liều nhất thiên hạ

Cứ ngỡ, Nguyên sẽ bằng lòng ở lại với công việc mà cậu yêu thích. Nhưng không, 26 tuổi, không một xu dính túi, Nguyên lên đường du học bằng những điều kiện mà khi nghe đến nhiều người phải lắc đầu: Tiền vé máy bay do một giám đốc người Nhật tặng; tiền ăn ở đủ cho 3 tháng đầu là của một Việt kiều, trưởng đại diện một ngân hàng của Anh tại Việt Nam cho mượn, cùng bức thư giới thiệu của GS Gibert với hiệu trưởng Trường Đại học Nanyang Singapore: “Nếu người thanh niên Việt Nam này không kiếm được học bổng thì đề nghị nhà trường cứ trừ vào lương hằng tháng của tôi”.

Ba tháng đầu tiên nhanh chóng trôi qua, ngoài thử thách về ngoại ngữ, Nguyên phải đối đầu với chuyện cơm áo và học phí. Sau nhiều đêm suy nghĩ, cân nhắc, đắn đo, cuối cùng Nguyên chọn cách liều lĩnh: Gõ cửa nhà của vị nguyên thủ đất nước Singapore, cựu thủ tướng Lý Quang Diệu!

Tiếp cận được vị cựu thủ tướng đã là chuyện không dễ, trình bày được những tâm tư, nguyện vọng của mình càng khó khăn gấp bội. Thế nhưng chàng thanh niên Việt Nam đã làm được điều đó.

“Xin tự giới thiệu, tôi là một sinh viên Việt Nam đang du học. Trước hết tôi xin được bày tỏ lòng khâm phục từ lâu nay của tôi đối với ngài, đối với những thành quả mà ngài đã làm cho đất nước Singapore”. Anh đã bắt đầu câu chuyện như thế.

Nguyên không trực tiếp đề cập đến việc xin học bổng. Anh trình bày với vị cựu thủ tướng một cách thật tình về cuộc sống hiện tại, những hoài bão cống hiến cho đất nước Việt Nam sau khi học xong và xin vị cựu thủ tướng một lời khuyên để anh có thể học và tồn tại được ở Singapore.

Ngài cựu thủ tướng đã hỏi thăm anh về gia đình, về những công việc anh đã làm trước kia... Câu chuyện cởi mở, thân tình cứ thế trôi qua. Tiễn anh, ngài Lý Quang Diệu nói: “Cuộc sống ở Singapore rất cạnh tranh. Đất nước này chỉ khuyến khích và chấp nhận hai loại người: một là giàu có, hai là giỏi và thông minh. Anh đã đến được đây, thì Singapore sẽ không đuổi anh đâu. Hãy biết suy nghĩ dài hạn, đừng vì khó khăn trước mắt mà mất tự tin, thui chột ý chí. Là thanh niên phải có một mục tiêu, kế hoạch dài hạn...”.

Không ngờ một tuần sau ngày đi gõ cửa liều lĩnh ấy, Nguyên được Văn phòng Thống đốc Ngân hàng Singapore (MAS) mời đến phỏng vấn chính thức để được cấp học bổng. Vượt qua nhiều vòng sát hạch gay go, cuối cùng Nguyên đã giành được học bổng toàn phần GSIC, bao gồm cả học bổng cao học tại Singapore và tu nghiệp tại Mỹ.

Tuy nhiên, để được học bổng này Nguyên phải chấp nhận điều kiện ngặt nghèo: Sau khi hoàn thành chương trình tu nghiệp tại Mỹ phải ở lại Singapore làm việc 10 năm!

Say mê đọc sách và tìm hiểu về kinh tế, cùng với ngành học tài chính, Nguyên sớm nhận ra rằng: “Việt Nam chúng ta nghèo, không phải vì thiếu tiền mà vì thiếu lưu thông đồng tiền. Tôi tự xác định và cam kết mục tiêu cuộc đời mình gắn liền với việc góp phần làm gia tăng lưu thông dòng tiền giữa công chúng và doanh nghiệp, để tạo ra giá trị gia tăng phát triển kinh tế Việt Nam...”

Và khi cá gặp được nước!

Với tấm bằng tốt nghiệp loại xuất sắc, Nguyên muốn trở về nước ngay nhưng “món nợ” phải ở lại Singapore làm việc 10 năm của GSIC như cái án treo lơ lửng trên đầu!

“Tôi là người gặp may! Trong lúc đang bối rối không biết thế nào thì tình cờ gặp được ông Trương Tấn Sang (lúc ấy là Bí thư Thành ủy TPHCM) ở Singapore. Tôi đã trình bày nguyện vọng của mình muốn về làm việc tại quê hương”- anh bồi hồi nhớ lại. Không bỏ lỡ thiện chí của một “hạt giống quý”, ông Trương Tấn Sang đã tạo điều kiện cho Nguyên về nước để giúp xây dựng một định chế mới là Quỹ Đầu tư và Phát triển đô thị (HIFU). Chính phủ Singapore đã ủng hộ Việt Nam và thế là Nguyên được “giải thoát” 10 năm trả nợ!

Như cá về với nước, Nguyên tha hồ vùng vẫy. Anh trực tiếp soạn chương trình, được mời làm thỉnh giảng về chứng khoán, quản trị doanh nghiệp tại Ủy ban Chứng khoán Nhà nước và nhiều trường đại học trên toàn quốc. Bên cạnh đó, anh còn là người góp phần đắc lực trong việc thành lập Quỹ Đầu tư và Phát triển đô thị TPHCM. Anh được xem là một trong những người đầu tiên được đào tạo bài bản và góp phần đưa kiến thức về khái niệm hoạt động chứng khoán ở Việt Nam.

Từ ngày thị trường chứng khoán manh nha hình thành và phát triển ở Việt Nam đến nay chỉ hơn 5 năm, nhưng nó đã nóng lên qua các cơn sốt cổ phiếu và các sàn giao dịch sôi động. Dòng tiền trực tiếp giữa công chúng và các doanh nghiệp bước đầu đã được khơi thông và phát huy hiệu quả. Đó là phần thưởng ngọt ngào nhất đối với anh. Vì theo anh: “Khi đồng vốn được lưu thông sẽ tạo ra thêm giá trị gia tăng cho nền kinh tế phát triển”.

Dù đã kinh qua nhiều cương vị nhưng anh vẫn thủy chung với lý tưởng mà mình đã chọn: “Làm gia tăng lưu thông đồng vốn giữa Nhà nước, công chúng và doanh nghiệp”. Tuổi đời vừa tròn 37, nhưng Nguyên thực sự đang ngồi trên “núi việc” với những trọng trách nặng nề: giám đốc điều hành nguồn vốn hàng trăm triệu USD của VOF, vừa là chủ tịch hội đồng quản trị Công ty Dệt Thắng Lợi, lại còn là thành viên hội đồng quản trị của những công ty hàng đầu như Kinh Đô, Dược Hậu Giang...

Với biệt danh khá lẫy lừng “Nguyên Vina Cap!”, ai cũng bảo anh tham công tiếc việc nhưng đó là sự chọn lựa tự nguyện của một trí thức trẻ say mê công việc như anh. Phạm Uyên Nguyên đang nuôi dưỡng một hoài bão lớn và cũng thực tế: “Tôi sẽ nỗ lực hết mình để Việt Nam sớm có được những tập đoàn đa quốc gia!”.

Source: http://www8.dantri.com.vn/nhipsongtre/2006/5/114482.vip


Chuyện về chủ nhân tòa nhà chọc trời đầu tiên.






Chỉ có trong vòng chưa đầy 30 năm, từ một nông dân nghèo khó, Frank Winfield Woolworth đã trở thành một trong những người giàu nhất nước Mỹ vào đầu thế kỷ 20. Bằng một ý chí, nghị lực phi thường, Frank Winfield Woolworth từ tay trắng đã lập nên cả một cơ đồ khổng lồ. Hệ thống bán lẻ của ông bao gồm hàng nghìn cửa hàng không những có mặt ở khắp nước Mỹ mà còn sang rất nhiều nước châu Âu.

Tòa nhà thương mại khổng lồ mang tên Woolworth tại thành phố New York, ngôi nhà chọc trời cao nhất nước Mỹ trong hàng chục năm đầu thế kỷ 20, hiện vẫn còn là một trong những biểu tượng về sức mạnh kinh tế của nước Mỹ.

Tập đoàn thương mại Woolworth đã tồn tại phát triển hơn 100 năm với cả chục nghìn cửa hàng bán lẻ ở rất nhiều nước trên thế giới. Lúc Winfield Woolworth còn sống, một mình ông đã xây dựng và chứng kiến sự ra đời của hơn 2.100 cửa hàng bán lẻ tại 5 nước khác nhau.

Khi đó phần nhiều các cửa hàng là những siêu thị nhỏ chuyên bán lẻ các mặt hàng gia dụng, hàng dệt may. Ngày nay mỗi một siêu thị đó đã là một trung tâm thương mại lớn và vừa. Hàng hóa của Woolworth tập trung vào nhu cầu của các gia đình trẻ, thu nhập trung bình.

Vì vậy các trung tâm thương mại Woolworth đều có đủ các đồ gia dụng thiết yếu hàng ngày như đồ điện, đồ nhựa, hàng dệt may, đồ dùng, quần áo trẻ em. Đặc trưng lớn nhất của các trung tâm thương mại Woolworth là khách hàng được tự do lựa chọn hàng và rất nhiều sản phẩm, hàng hoá được bán chung một giá cho một đơn vị nhất định.

Việc xây dựng thành công cả một hệ thống phân phối bán lẻ bao gồm hàng nghìn trung tâm thương mại là cả một kỳ tích trong một sự nghiệp kinh doanh huyền thoại của Frank Winfield Woolworth. Chính bản thân Frank Winfield Woolworth cũng vô cùng tự hào và kiêu hãnh bởi sự nghiệp kinh doanh vĩ đại có một không hai đó của mình.



Chủ nhân của toà nhà chọc trời đầu tiên

Vào năm 1910, Frank Winfield Woolworth đã cho xây dựng toà nhà thương mại cao nhất thế giới. Ba năm sau, toà nhà mang tên Woolworth đã được khánh thành trong niềm hân hoan và kiêu hãnh của tất cả người dân thành phố New York. Đây chính là toà nhà được gọi là chọc trời, cao nhất thế giới lúc đó.

Với 59 tầng và tổng chiều cao 241 mét, toà nhà thương mại Woolworth đã giữ kỷ lục cao nhất thế giới trong hơn hai chục năm liền. Hàng chục năm đầu, và cho cả đến bây giờ toà nhà thương mại mang tên ông chủ thương mại tài giỏi Woolworth vẫn luôn là một điểm đến bắt buộc, một kỳ quan đối với khách du lịch đến thành phố New York.

Frank Winfield Woolworth đã thuê kiến trúc sư nổi tiếng Cass Gilbert thiết kế toà nhà. Đây không chỉ là một toà nhà thương mại sang trọng mà còn là một ngọn tháp hoành tráng cao vút, một công trình kiến trúc mang đậm tính nghệ thuật của New York. Bản thân việc xây dựng toà nhà Woolworth cũng là một sự kiện đáng ghi nhớ đối với các chuyên gia ngành xây dựng. Lần đầu tiên công nghệ xây dựng nhà cao tầng bằng các cột trụ bê tông được áp dụng một cách hoàn hảo.

Còn đối với giới tài chính và những đại gia giàu có khác thì điều đáng nói là khi xây dựng toà nhà cao ốc thương mại lớn nhất thế giới lúc đó, Frank Winfield Woolworth không hề phải vay vốn ngân hàng. Ông cũng chẳng phải kêu gọi ai đầu tư, góp vốn. Một mình nhà đại triệu phú lúc đó bỏ tiền riêng ra xây.

Tất cả đều phải giật mình khi Frank Winfield Woolworth thanh toán 13,5 triệu USD cho toà nhà hoàn toàn bằng tiền mặt. Một con số khủng khiếp vào thời điểm cách đây gần 100 năm. Khi đó, để mua những gói sản phẩm hàng hoá một giá của Frank Winfield Woolworth, người ta chỉ cần 5 cent hay 10 cent.

Ngày khai trương, 13/4/1913, là một ngày đặc biệt đối với toàn thể nhân viên của tập đoàn Woolworth và rất ấn tượng với người dân New York lúc đó. Ông chủ Frank Winfield Woolworth giàu có đã cho thắp 80.000 chiếc bóng đèn để chiếu sáng cho toà tháp Woolworth cao nhất thế giới lúc đó.

Không chỉ cao nhất, toà tháp Woolworth còn sang trọng và tráng lệ bậc nhất. Tường trong toà nhà được ốp bằng đá cẩm thạch. Ba tầng đầu tiên được trang trí vô cùng lộng lẫy và tốn kém với những bức tranh quý trên tường cùng nhiều đồ trang trí đắt giá. Phòng làm việc của ông chủ Frank Winfield Woolworth được đặt tại tầng 24. Nơi đây, Frank Winfield Woolworth đã thiết kế và trang trí theo đúng kiểu phòng mà vua Napoléon đã từng có.



Chấp nhận làm không lương để học nghề

Frank Winfield Woolworth lớn lên trong một gia đình rất cơ cực, vất vả. Ông sinh năm 1852, là con trai lớn của một người nông dân nghèo tại Rodman, một làng quê thuộc bang New York.

Năm 1858, gia đình Woolworth chuyển về Great Bend, nơi có nhiều ruộng đất hơn Rodman. Tại đây, hàng ngày Frank Winfield Woolworth chỉ biết giúp cha làm đồng áng với mọi công việc làm đất, gieo trồng, chăm bón rồi thu hoạch ngũ cốc, rau quả.

So với trẻ em thành thị, anh em nhà Woolworth khá thiệt thòi khi nghĩ đến sự học hành. Cả vùng chỉ có một lớp học duy nhất chung cho nhiều lứa tuổi. Hai anh em Frank Winfield Woolworth được học viết, học đọc tại đây.

Xuất thân từ con nhà lao động nông thôn, Frank Winfield Woolworth rất chăm chỉ, cần cù chịu khó. Ông luôn tìm việc để làm. Do vậy, lúc 14-15 tuổi, ông dành những thời gian nhàn rỗi đến bán hàng giúp cho một cửa hàng tạp hoá nhỏ gần nhà ga Great Bend. Và Frank Winfield Woolworth đã tỏ ra đặc biệt thích thú công việc này.

Tại cửa hàng tạp hoá nhỏ này, Frank Winfield Woolworth đã làm quen và phải làm tất cả mọi công việc. Không chỉ là chân chạy của ông chủ cửa hàng nhỏ mà từ sáng sớm đã phải lo sắp xếp hàng hoá ra bày. Tối đến lại phải thu dọn hàng. Mỗi khi có hàng mới về thì ông còn phải lo kiểm đếm, dọn nhà kho để nhập hàng.

Công việc bề bộn khiến Frank Winfield Woolworth làm quần quật từ 5 giờ sáng cho đến 10 giờ đêm nhưng ông không hề kêu ca, chán nản. Về sau ông kể lại, ông đến làm việc chỉ vì sở thích chứ không phải vì tiền. Lúc đó Frank Winfield Woolworth gần như không nhận được đồng thù lao nào từ ông chủ cửa hàng.

Frank Winfield Woolworth coi đó là quá trình học nghề. Và trên thực tế, ông đã học được rất nhiều, bởi trước đó một cậu bé nông dân thật thà và chất phác như Frank Winfield Woolworth đâu có biết đến công việc bán hàng thương mại.

Thay vì tiền công hàng tháng, Frank Winfield Woolworth chỉ nhận từ ông chủ cửa hàng tạp hoá một lời hứa sẽ giới thiệu cho ông vào làm ở cửa hàng thương mại lớn hơn tại thành phố của ông chủ có tên William More.

Từ năm 1873, mơ ước thoát ly khỏi cuộc sống nông thôn nghèo đã thành hiện thực. Như đã hứa, Frank Winfield Woolworth đã được nhận vào làm nhân viên của hãng thương mại Ausbury & Moore khá nổi tiếng lúc đó tại quận Watertown, New York.

Chính tại hãng thương mại này, Frank Winfield Woolworth đã học được tất cả những kinh nghiệm, từ nhỏ nhất, của nghề kinh doanh bán lẻ. Với một đam mê bán hàng hiếm có và một sự cần cù nhẫn nại phi thường, Frank Winfield Woolworth lại tiếp tục nhận làm mọi việc mà ông chủ giao. Chính ông là người từ 6 giờ sáng có mặt đầu tiên ở cửa hàng để lau chùi nền nhà, quét bụi hàng mẫu, lau cửa kính...

Ba tháng đầu, Frank Winfield Woolworth làm việc không hề có lương. Và sau đó, mặc dù chỉ thu nhập có 3,5 USD mỗi tháng cho công việc nặng nề với 15 giờ làm việc mỗi ngày nhưng Frank Winfield Woolworth không hề kêu ca phàn nàn. Ông vẫn coi đây là một nơi học hỏi cần thiết cho nghề bán lẻ mà ông đam mê.

Năm 1876, Frank Winfield Woolworth lấy vợ đồng thời chuyển sang làm phụ trách bán hàng tại trung tâm thương mại Bushnall’s. Thu nhập của ông đã được tăng lên đáng kể với mức lương 10 USD mỗi tuần.

Chính tại đây, Frank Winfield Woolworth lại được tích luỹ kiến thức quản lý thương mại và kinh nghiệm tổ chức bán hàng để làm nên sự nghiệp kinh doanh vĩ đại về sau.



Thành công với mô hình kinh doanh một giá

Frank Winfield Woolworth được coi là một trong những người đầu tiên áp dụng mô hình một giá trong kinh doanh bán lẻ. Trong một lần đi mua hàng ở một tỉnh lẻ ở phía Tây nước Mỹ, tình cờ Frank Winfield Woolworth thấy cửa hàng thanh lý hàng hoá với giá bán đồng loạt 5 cent cho mọi sản phẩm. Frank Winfield Woolworth quan sát thấy người mua đến rất đông. Một phần vì giá rẻ, một phần vì họ được trực tiếp sờ vào hàng hoá để chọn lựa. Và thế là một ý tưởng kinh doanh bán lẻ mới mẻ và bất ngờ đã ập đến với Frank Winfield Woolworth.

Tháng 2/1879, Frank Winfield Woolworth bắt đầu mở cửa hàng kinh doanh đầu tiên riêng cho mình tại thị trấn Uttica, bang New York. Ông nhập hàng rẻ với tổng giá trị 321 USD, trong đó phần lớn là những chiếc xẻng và dụng cụ gia đình khác. Tất cả các sản phẩm đều có cùng một giá thống nhất là 5 cent.

Tuy nhiên, lần thử nghiệm đầu tiên này Frank Winfield Woolworth đã thất bại. Không hề nản chí, tự tin vào mô hình kinh doanh một giá, ông tiếp tục thử nghiệm lần hai và tỏ ra còn bạo tay hơn.

Chỉ vài tháng sau, cùng trong năm 1879, Frank Winfield Woolworth đã cho khai trương đồng thời hai cửa hàng tại Pennsylvania và Lancaster. Mô hình kinh doanh một giá được hoàn thiện với 2 nhóm hàng hoá loại 5 cent và loại 10 cent.

Hàng hoá của Frank Winfield Woolworth cũng phong phú hơn nhiều. Ông chủ trương lựa chọn hàng có chất lượng cao. Để đảm bảo áp dụng được mô hình 1 giá thống nhất 5 cent hoặc 10 cent thì rất nhiều gói hàng hoá bán ra sẽ có từ 2 đến 3 đơn vị sản phẩm khác nhau.

Chẳng hạn một cái hót rác kèm theo một cái chổi con, hai mũ người lớn kèm theo 1 mũ trẻ em, áo sơ mi có kèm theo cà vạt, 2 đôi găng tay hay 10 đôi tất cho cả nhà...

Lần này Frank Winfield Woolworth đã thành công vượt ngoài mong đợi. Ngày đầu tiên khai trương, hai cửa hàng ông đã bán được 127,65 USD, hết sạch số hàng nhập về. Với mô hình giá thống nhất và hợp lí cho một gói hàng cùng với sự tự do lựa chọn xem hàng đã thu hút rất nhiều khách hàng đến mua. Doanh số bán hàng tăng rất nhanh.

Ngay từ thành công đầu tiên đó, với một cảm nhận kinh doanh đặc biệt, Frank Winfield Woolworth đã rất tự tin và nghĩ rằng mình phải phát triển thật nhanh mô hình này, trước khi người khác làm theo.

Chẳng cần phải quảng bá, giới thiệu nhiều, rất nhiều họ hàng, bạn bè thân của Frank Winfield Woolworth đã xin được mở một cửa hàng hay trung tâm thương mại như vậy. Và từ đó Frank Winfield Woolworth bắt đầu chiến lược xây dựng cả một hệ thống các cửa hàng và trung tâm thương mại mang tên Woolworth.

Năm 1895, ông đã có 28 cửa hàng, trung tâm như vậy, trong đó bao gồm cả cửa hàng của Moore trước kia đã được ông mua lại. Nếu như năm 1908 Frank Winfield Woolworth có gần 200 cửa hàng, trung tâm thương mại thì chỉ chưa đầy 3 năm sau con số này đã lên tới hơn gấp 3 với 600 cửa hàng.

Tại thời điểm này, cả tập đoàn thương mại Frank Winfield Woolworth với mô hình kinh doanh một giá nổi tiếng đã thu hút được gần 700 triệu lượt khách hàng mỗi năm với hơn 80 triệu USD doanh số bán hàng.

Ông chủ Frank Winfield Woolworth đã đặt ra một tiêu chí là tại bất kỳ khu dân cư hay thị trấn nào có từ trên 8.000 dân đều cần phải mở một trung tâm thương mại hay một cửa hàng của Woolworth.

Vài năm sau nữa, Frank Winfield Woolworth đã kỷ niệm khai trương trung tâm thương mại thứ 1.000 của mình được đặt tại vị trí đẹp nhất giữa đại lộ số 5 của thành phố New York.

Một trong những bí quyết quản lý của Frank Winfield Woolworth lúc đó là ông đã rất sớm chuyển nhượng một phần khá lớn cổ phiếu cho các quản lý cấp cao, trưởng các trung tâm và cửa hiệu để đảm bảo sự gắn bó trách nhiệm và quyền lợi của họ.

Theo Thời báo kinh tế VN

__________________

Ingvar Kamprad- ông chủ của đế chế IKEA






Đầu năm 2004, cái tên Ingvar Kamprad, người sáng lập hãng IKEA, được nhắc đến không ngớt trên các phương tiện truyền thông, sau khi tờ tạp chí chuyên về kinh doanh của Thụy Điển, Veckans Affarer, đăng bài nói rằng ông đã “qua mặt” Bill Gates và được coi là người giàu nhất thế giới. Dù cơ cấu sở hữu “khác người” của IKEA biến bài báo trên thành chủ đề của những cuộc tranh luận, với lý do khi đó Kamprad đã không còn là chủ của IKEA, thì vẫn không ai nghi ngờ rằng IKEA là một trong những công ty tư nhân lớn nhất và thành công nhất thế giới, với hơn 200 cửa hàng ở 31 quốc gia, hơn 75 ngàn nhân viên và tạo ra lợi nhuận hơn 12 tỷ EUR hàng năm từ việc bán hàng

Sự ra đời của một doanh nhân

Kamprad sinh năm 1926 ở miền Nam Thụy Điển và lớn lên ở một trang trại có tên là Elmtaryd cạnh ngôi làng nhỏ ở Agunnaryd. Từ khi còn ít tuổi, ông đã học được cách mua sỉ diêm ở Stockholm rồi bán lại với giá cao hơn chút ít. Khoản chênh lệch không nhiều, nhưng đây quả là món tiền lời đáng mơ ước của một người dân nông thôn. Ông dùng khoản tiền này để tái đầu tư và mở rộng kinh doanh sang mặt hàng cá biển, lúa mạch, đồ trang trí cây thông Noel, bút chì…Năm 17 tuổi, cha Kamprad tặng ông một số tiền khá lớn để thưởng cho thành tích học tập ở trường phổ thông. Bạn có biết ông dùng khoản tiền đó vào việc gì không? Ông lập công ty IKEA.



Sự ra đời của IKEA

Cái tên IKEA được hình thành từ những chữ viết tắt của Ingvar Kamprad (I.K.) cộng với chữ cái đầu tiên của Elmtaryd và Agunnaryd, trang trại và làng quê nơi ông lớn lên. Ông tiếp tục mở rộng hoạt động kinh doanh sang một loạt các mặt hàng khác, kể cả ví da, đồng hồ, đồ kim hoàn và tất chân. Khi phát triển năng lực kinh doanh để đáp ứng những đòi hỏi khác nhau của khách hàng, ông tạm thời ngưng sử dụng thư đặt hàng mà thuê luôn những chiếc xe chuyên dùng chở sữa ở địa phương vận chuyển hàng cho mình.



Hướng đến đồ gỗ nội thất

Năm 1947, lần đầu tiên Kamprad đưa đồ gỗ và nhóm sản phẩm chính của hệ thống cửa hàng của IKEA. Việc khai thác nguồn hàng từ các nhà sản xuất địa phương cho phép ông giữ được mức giá bán thấp so với các đối thủ cạnh tranh trong lĩnh vực này. Đồ gỗ nội thất dần dần trở nên “hút khách”, và vào năm 1951, Kamprad quyết định không theo đuổi những mặt hàng khác mà chỉ dồn hết sự tập trung vào đồ gỗ. Năm 1953, IKEA mở phòng trưng bày đồ gỗ đầu tiên dưới áp lực rất lớn của đối thủ cạnh tranh. Lúc này, công ty đang ở trong cuộc chiến về giá với đối thủ chính, vì thế, phòng trưng bày này giúp cho người tiêu dùng tiếp xúc gần hơn với sản phẩm đồ gỗ của công ty, bởi họ nhìn thấy được, chạm vào được, cảm thấy và tin tưởng được vào chất lượng trước khi quyết định mua hàng.




tải về 0.83 Mb.

Chia sẻ với bạn bè của bạn:
1   ...   6   7   8   9   10   11   12   13   14




Cơ sở dữ liệu được bảo vệ bởi bản quyền ©hocday.com 2024
được sử dụng cho việc quản lý

    Quê hương