CHƯƠng trình dự kiến tham dự HỘi thảo quốc tế TẠi tp hcm thời gian: từ ngày 8 đến ngày 10 tháng 12 năm 2011 Thành phần: 24 cán bộ, giảng viên của trường Đại học Thương mại



tải về 1.63 Mb.
trang12/12
Chuyển đổi dữ liệu08.04.2018
Kích1.63 Mb.
#36868
1   ...   4   5   6   7   8   9   10   11   12

Đường biên hiệu quả: Fama đã xác nhận rằng không có một mô hình nào khác để dự đoán hành vi thị trường tốt hơn là đường biên hiệu quả. Ông giải thích điều này dựa trên hành vi bất hợp lý không mang tính hệ thống, tức nhà đầu tư có thể đưa ra bất kì các quyết định bất hợp lý nào họ thích – sẽ có một quyết định khác với một quan điểm trái ngược. Điều này đưa ra những câu hỏi liên quan tới ai sẽ làm những điều chỉnh này; làm sao họ có thể chắc chắn rằng họ lý trí tuyệt đối.

  • Và chính “hàm giá trị” sẽ mô tả quyết định của nhà đầu tư cá nhân thông qua “giá trị”, qua đó đem lại cho họ quyết định hợp lý hơn, tránh tình trạng nhận ra mình sai lầm dẫn đến bán túng bán tháo. Mỗi nhà đầu tư định ra một “giá trị” khác nhau cho các danh mục đầu tư tối ưu theo những nhận định chủ quan của mình. Trong đó, nhà đầu tư phản ứng không cân xứng với rủi ro mà họ phải gánh chịu cũng như phần thu nhập mà họ nhận được. Vì thế mà mặc dù danh mục tối ưu nằm trên đường biên hiệu quả nhưng sự phân tán kết quả với một độ lệch chuẩn sẽ có ảnh hưởng rất khác biệt lên “giá trị”. Vì vậy mỗi danh mục hiệu quả nằm trên đường biên hiệu quả sẽ có mức “giá trị” khác nhau đối với mỗi nhà đầu tư và nhà đầu tư sẽ chọn danh mục tối ưu nào đem lại giá trị lớn nhất cho họ, vì vậy tập hợp giá trị của danh mục đầu tư tối ưu được viết là:

    Công thức trên là tích của hiệu số giữa giá trị của “khoản lời” và “khoản lỗ” cho từng giai đoạn trong khoảng thời gian đầu tư của mình. Với giá trị của khoản lời là Vg và giá trị của khoản lỗ là Vl.



    Về mặt thực hành, chúng ta có thể xác định các danh mục đầu tư nằm trên đường biên hiệu quả với một mức độ ngại rủi ro mà ta lựa chọn. Điều này hoàn toàn có thể xác định được với sự trợ giúp đắc lực từ phần mềm Excel thông thường. Sau khi tìm ra được các danh mục đầu tư hiệu quả rồi thì chúng ta có thể sử dụng phần mềm chuyên dụng chạy “mô hình lựa chọn” để tìm ra giá trị lớn nhất của danh mục đầu tư hiệu quả. Và đương nhiên đó chính là danh mục đầu tư tối ưu mà ta sẽ chọn lựa. Trong quá trình chạy mô hình, tự động phần mềm sẽ thiết kế các câu hỏi lựa chọn chuyên biệt, sau khi thực hiện các lựa chọn này thì mô hình sẽ xuất kết quả. Điển hình, tôi đã sử dụng phần mềm JMP để tìm ra giá trị của các danh mục đầu tư hiệu quả. Tuy nhiên như đã đề cập trong bài nghiên cứu, giá trị mà tôi xuất ra là của tập hợp 100 người khảo sát. Do điều kiện khách quan nên tôi không thể sử dụng phiên bản mới nhất của phần mềm này. Bởi phiên bản mới có thể giúp chúng ta xác định giá trị đối với mỗi cá nhân lựa chọn. Vì thế việc triển khai phần mềm này trong việc tìm kiếm danh mục đầu tư tối ưu sẽ là một thuận lợi lớn cho mỗi nhà đầu tư cá nhân vì nó nhanh chóng tiện lợi, ít tốn kém và kết quả chính xác.

    1. Một số đóng góp mới trong quá trình xây dựng danh mục đầu tư trên thị trường chứng khoán Việt Nam

    • Nên bảo hiểm danh mục đầu tư vì:

    Qua lý thuyết triển vọng của Kahneman và Tversky, chúng ta biết được rằng tác động của những “khoản lỗ” lên tâm lý của nhà đầu tư thì nặng nề hơn là hạnh phúc khi nhận được một “khoản lời”. Những chứng minh thực nghiệm của lý thuyết này đã từng chỉ ra rằng nhà đầu tư có khuynh hướng định giá những khoản lỗ này cao hơn gấp đôi các khoản lời. Ứng dụng điều này vào trong xây dựng danh mục thì chính bảo hiểm danh mục sẽ làm giảm đi sự phân tán của các “khoản lỗ”. Điều này có nghĩa nó có thể làm giảm bớt tâm lý nặng nề của nhà đầu tư khi dự báo các viễn cảnh tương lai của danh mục mà mình sắp nắm giữ. Từ đó làm tăng “giá trị” mà danh mục đó đem lại cho họ. Mức tăng này có thể lớn hơn là chúng ta kỳ vọng.

    Từ những khám phá này đem lại cho các quỹ đầu tư tại Việt Nam những hiểu biết bổ ích giúp họ có những ứng dụng trong việc giao tiếp với nhà đầu tư và giúp họ cải thiện cách thiết kế danh mục đầu tư cho các khách hàng của mình. Thực tiễn gần đây, trong xây dựng danh mục, nhà đầu tư đã phát triển những phương pháp phòng tránh rủi cho riêng mình. Qua đây chúng ta cũng nhận biết được danh mục tối ưu sẽ được làm tăng mức “giá trị” tiềm năng khi bảo hiểm danh mục đầu tư có tác dụng cắt giảm khoản lỗ. Qua những phân tích các ích lợi từ việc bảo hiểm danh mục đầu tư thì việc phát triển một thị trường bảo hiểm danh mục đầu tư cho nhà đầu tư Việt Nam là điều tất yếu. Và việc có triển khai được thị trường này hay không thì vẫn cần sự quan tâm về nhiều mặt trong xây dựng chính sách quản lý vi mô và vĩ mô của nhà nước.



    • Làm thế nào để xác định “mức chịu đựng rủi ro” trong quá trình tìm kiếm danh mục hiệu quả?

    Trước đây để tìm “mức chịu đựng rủi ro” của mỗi nhà đầu tư ta sử dụng kỹ thuật tối ưu giá trị trung bình-phương sai với nhiệm vụ là tối đa hóa tỉ suất sinh lợi vượt trội () của các loại tài sản và tối thiểu hóa phương sai danh mục  của tỉ suất sinh lợi vượt trội. Ta có phương trình sau: EU =  ­  / rt. Suy ra rt = ( ­)/EU. Một khi chúng ta đã xác định được ma trận hiệp phương sai và tỷ suất sinh lợi vượt trội của các tài sản trong danh mục thì việc tìm ra mức chịu đựng rủi to là điều dễ dàng.  Tuy nhiên chúng ta đã từng khám phá trong những phần trên, mức chịu đựng rủi ro của NĐT là không cân xứng. Vì thế ta nên thay đổi một chút về khía cạnh tỷ suất sinh lợi. Thay vì trước đây ta tìm ra mức chịu đựng rủi ro qua tỷ suất sinh lợi vượt trội thì mức chịu đựng này sẽ tương ứng với tỷ suất sinh lợi dương. Bây giờ, ta sẽ tìm kiếm mức chịu đựng rủi ro tương ứng với mức sinh lợi âm xác định, lúc này mức chịu đựng rủi ro sẽ tương ứng với tỷ suất sinh lợi âm. Với cách làm này sẽ phản ánh chính xác hơn tiến trình thực hiện tìm ra danh mục hiệu quả.

    • Lựa chọn thời gian đầu tư thế nào là tối ưu?

    Qua phần kiểm định trên ta khám phá được rằng hữu dụng của nhà đầu tư đối với thời gian nắm giữ danh mục không có sự khác biệt nhiều trong phạm vi từ 1 đến 10 năm. Trong thực tế, những nhà đầu tư sẽ đầu tư khi họ có nguồn vốn thặng dư và sẽ rút tiền ra tại thời điểm mà họ cần sử dụng đến nguồn vốn đó. Vì thế, nếu họ quan tâm đến những giá trị ngắn hạn, và trong bất kì trường hợp nào, họ có thể rút số tiền đó, điều này tạo ra khoảng thời gian nắm giữ

    Xảy ra hai điều phức tạp khi thiết kế danh mục gồm nhiều nhà đầu tư góp vốn chung.



    • Thời gian nắm giữ của mỗi nhà đầu tư cá nhân sẽ khác.

    • Khả năng NĐT, chọn thời điểm đầu tư, và những yêu cầu phải chi trả.

    • Việc đầu tư vào các danh mục có vốn góp chung thường có nhiều thời gian đầu tư khác nhau.

    Do đó, bất kì một thiết kế danh mục là một sự thỏa hiệp, và để nói tối ưu về khoảng thời gian nắm giữ cho những NĐT chung vốn góp là không thể.

    Kĩ thuật đưa ra quyết định khoảng thời gian thích hợp cho một danh mục có vốn góp chung có thể được mượn từ lý thuyết trái phiếu, và có thể sử dụng tính toán macaulay duration để đưa ra khoản thời gian nắm giữ cho danh mục



    Sử dụng tính toán macaulay duration, khấu trừ dòng tiền với lãi suất phi rủi ro, khoản thời gian mong đợi của danh mục có thể được mô hình hóa dưới đây:



    Trong đó  là thời gian nắm giữ trung bình mong đợi của dòng tiền thuần kỳ vọng trong DMĐT,  là thời gian của luồng vốn vào và ra tại thời điểm t, trong suốt giai đoạn N, và  là tỷ suất sinh lợi phi rủi ro.

    Nó sẽ là một ứng dụng thiết thực nhằm giúp giám đốc của các quỹ đầu tư giải tỏa nỗi lo trong lòng là làm sao có thể làm hài lòng các cổ đông của mình khi hoàn cảnh và nhu cầu của mỗi nhà đầu tư khác nhau.



    8. Kết luận

    Nghiên cứu này đã đưa ra những ứng dụng mới mẻ của lĩnh vực tài chính hành vi trong việc xác định danh mục đầu tư tối ưu. Ý tưởng mới mẻ này được xem là một sự phát triển tiến bộ trong lý thuyết xây dựng danh mục đầu tư. Bằng việc xác định danh mục đầu tư tối ưu thông qua “giá trị” đã góp phần tạo nên một danh mục chính xác hơn đem đến độ tin cậy cao và giúp nhà đầu tư đưa ra quyết định lựa chọn hợp lí hơn, từ đó góp phần làm thị trường thực hiện chức năng “hiệu quả” của mình tốt hơn.



    Tài liệu tham khảo

    1. Fama, E., (1997), “Market Efficiency, Long-Term Returns and Behavioural Finance”, Journal of Financial Economics, 49, pp. 283-306.

    2. Kahneman, D., Tversky, A., (1979), “Prospect Theory: An Analysis of Decision under Risk”, Econometrica, Volume 47, Issue 2, pp.263-292.

    3. Livanas, J., 2006A, “How can the market be efficient if investors are not rational?”, JASSA (Journal of the Securities Institute of Australia), No. 2, (2006), pp. 20-24.

    4. Livanas, J., 2006B, “Are investors rational and does it matter?”, Paper presented to the 14th Colloquium of Superannuation Researchers “Choice in Retirement Funding”, Sydney, ( 20–21st July 2006).

    5. Livanas, J., 2006C, “It’s a utility. But not as we know it!”, Paper presented at the 19th Banking and Finance Conference, Sydney,( December 2006).

    6. Livanas, 2008, “Empirical analysis of investor utilities in investment choice”, Paper presented to the Institute of Actuaries of Australia, Sydney.(2008).

    7. Markowitz, H, 1952, “Portfolio Selection”, The Journal of Finance, Vol VIII, No 1, March 1952, pp77-91.

    8. McCulloch, B. and D. Leonova, 2005 “The Market Equity Risk Premium’, New Zealand Treasury, May 2005.

    9. Simon, H.A. 1955, “A Behavioral Model of Rational Choice”, Cowles Foundation Paper 98, The Quarterly Journal of Economics, Vol LXIX, pp. 99-118.

    10. Sharpe, W. F., 2006B, ‘Expected Utility Asset Allocation’, unpublished paper www.wsharpe.com.



    1 Center Discussion Paper No. 874, Paths to success:The relationship between human development and economic growth, Michael Boozer - Yale University, Gustav Ranis - Yale University, Frances Stewart - University of Oxford, Tavneet Suri - Yale University, December 2003;


    2 Working Paper Number 18, Economic Growth and Human Development, Alejandro Ramirez - UNDP, Gustav Ranis - Yale University, and Frances Stewart - Queen Elizabeth House, October 1998;


    3 UNDP Report, , Human Development Report 1996, New York, NY: Oxford University Press., 2010;


    4 World Bank Report, “Economic development is social development”, Press, 1998

    5 Prof. Dr. Pham Tat Dong, Building human and developing high quality human resources, March 2011

    1. 6 Skilled worker, From Wikipedia, the free encyclopedia


    7 Alan Greenspan The Age of Turbulence: Adventures in a New World, p. 405, The Penguin Press, 2007 ISBN 978-1-59420-131-8.


    8 http://www.wisegeek.com/what-are-skilled-workers.htm, wiseGEEK, What Are Skilled Workers?


    9 Do Van Dao - Pham Dinh Trieu, Political Academy - Department of Defense, High-quality human resources is a department education and high technical expertise, 2010.

    10 Professor. Dr. Nguyen Thi Canh, Economic Development Magazine, No. 219, Vietnam's economy through the development indicators and the impacts of the integration process, October 1, 2009

    11 Yujie Zhang, Phd/Prof, Tsinghua University College of Economics and Management, Beijing, 100084, China ; College of Economics CCPS, Beijing, China.100091. E-mail. zyj123@vip.sina.com.cn Tel. 86-10-62882228.




    tải về 1.63 Mb.

    Chia sẻ với bạn bè của bạn:
  • 1   ...   4   5   6   7   8   9   10   11   12




    Cơ sở dữ liệu được bảo vệ bởi bản quyền ©hocday.com 2024
    được sử dụng cho việc quản lý

        Quê hương