CHƯƠng trình dự kiến tham dự HỘi thảo quốc tế TẠi tp hcm thời gian: từ ngày 8 đến ngày 10 tháng 12 năm 2011 Thành phần: 24 cán bộ, giảng viên của trường Đại học Thương mại



tải về 1.63 Mb.
trang10/12
Chuyển đổi dữ liệu08.04.2018
Kích1.63 Mb.
#36868
1   ...   4   5   6   7   8   9   10   11   12

Thứ nhất, hàm giá trị được xác định dưới dạng lời và lỗ liên quan đến điểm tham chiếu, chứ không phải dưới dạng sự giàu có tuyệt đối cuối cùng.

  • Thứ hai, đường cong giá trị có hình chữ S, nó lồi tại vị trí thấp hơn điểm tham chiếu và lõm khi nó nằm phía trên phù hợp với lý thuyết truyền thống.

  • Thứ ba, hàm giá trị thể hiện tính không cân xứng rõ ràng giữa những giá trị mà con người đặt vào được và mất (dốc trong phần thua lỗ hơn là phần có lời)

    1. Xây dựng mô hình định lượng để kiểm định hình dáng đường hữu dụng của nhà đầu tư Việt Nam

    Để kiểm định hình dáng của đường hữu dụng chúng ta sử dụng “Mô hình lựa chọn”. Ở đây, chúng ta đề ra mô hình thử nghiệm tại điểm cân bằng (điểm mà tại đó các quyết định mua bán chứng khoán được thực hiện). Riêng đối với vấn đề hữu dụng thay đổi trong khoảng thời gian nắm giữ đó gây sự mất cân đối sẽ không được đề cập bởi nó đòi hỏi phải thiết kế một mô hình thử nghiệm khác. Mô hình này được sử dụng trong tài chính để đánh giá xem nhà đầu tư trên thị trường chứng khoán sẽ xem xét thuộc tính nào quan trọng nhất khi chọn một danh mục đầu tư. Ba thuộc tính đó gồm: tỷ suất sinh lợi E(r), rủi ro thua lỗ f(σ) và thời gian nắm giữ danh mục f(τ).

    “Mô hình lựa chọn” cố gắng mô hình hóa quá trình ra quyết định của con người thông qua bảng khảo sát được thiết kế một cách chuyên biệt. Nó có thể dự đoán con người sẽ phản ứng như thế nào trong một tình huống nào đó với độ chính xác tuyệt vời. Nó không giống như một cuộc thăm dò hoặc khảo sát thông thường. Đối với những cuộc khảo sát thông thường, để có thể dự đoán được hành vi của con người như thế nào cần phải khảo sát thái độ của họ thông qua một số lượng lớn các kịch bản trong bối cảnh nào đó, thậm chí có thể là hàng tỷ kịch bản. Giải Nobel kinh tế đã được trao cho người tiên phong trong lĩnh vựa này; Daniel McFadden. Trong bài nghiên cứu này chúng ta sử dụng JMP là một phần mềm thống kê được xây dựng và phát triển bởi SAS, một trong những hãng phát triển phần mềm nổi tiếng trên thế giới. Hàm hữu dụng của nhà đầu tư dưới các ràng buộc của thử nghiệm được thể hiện như sau:



    [E(U) | Φ, Ω] = pU [aE(r)] + pU [bf ()] + pU [cf ()] (2)

    Trong đó: Φ là thông tin về những lựa chọn có sẵn và các thuộc tính của chúng; là một tập hợp các yếu tố đặc trưng về tính cách, tuổi và học vấn của các nhóm NĐT. Đối với NĐT cá nhân, không phải là điều kiện.

    pU biểu thị cho hữu dụng từng phần đối với E( r ), f(σ) và f().

    a, b, c là các tỷ trọng.

    1. Phương pháp thu thập số liệu:

    Dữ liệu được lấy từ cuộc khảo sát dưới hình thức các câu hỏi điều tra trực tiếp đến nhà đầu tư cá nhân. Câu hỏi điều tra liên quan đến những yếu tố cơ bản ảnh hưởng đến quyết định đầu tư và những câu hỏi được thiết kế đặc thù cho phương pháp “mô hình lựa chọn” để xuất ra được đồ thị. Một mẫu gồm 100 nhà đầu tư cá nhân, họ được yêu cầu phải chọn lựa 5 danh mục đầu tư cho sẵn với rủi ro và tỷ suất sinh lợi đã được chuẩn hóa. Đối tượng điều tra là sinh viên đại học, cao học và các nhà đầu tư riêng lẻ tại các sàn giao dịch chứng khoán lớn như Bảo Việt, Đông Á, FPT… trên thành phố Hồ Chí Minh. Có 5 loại danh mục đầu tư cơ bản được đề xuất đến các nhà đầu tư: “tăng trưởng cao”, “đa dạng hóa”, “cân bằng”, “phòng thủ”, và “tiền mặt”. Chính những lựa chọn này của họ sẽ cung cấp cho chúng ta manh mối về những suy nghĩ khi ra quyết định của nhà đầu tư Việt Nam liên quan đến hữu dụng của họ.

    Sử dụng kĩ thuật phân tích liên kết dựa trên sự lựa chọn để chạy mô hình lựa chọn tìm ra hữu dụng từng phần của nhà đầu tư Việt Nam và hữu dụng của một lựa chọn sẽ là tổng của các pU[.] từng phần.



    1. Kết quả chạy mô hình:

    Dựa trên hữu dụng của mỗi thành phần cấu tạo nên danh mục đầu tư (được xuất ra từ phần mềm JMP), chúng ta có thể tính toán được mức độ thỏa mãn của nhà đầu tư cho cả danh mục đó bằng cách tính tổng đơn giản các hữu dụng thành phần.


     

    pU của rủi ro

    1.273

    0.356

    -0.272

    -0.393

    -0.964

    pU của TSSL




    0

    13% – 14.5%

    20%

    25%

    33%

    -1.021

    10.3% –10.5%

    0.25

    -0.67

    -1.29

    -1.41

    -1.99

    -0.045

    12.5 %–12.8%

    1.23

    0.31

    -0.32

    -0.44

    -1.01

    0.056

    13% –13.7%

    1.33

    0.41

    -0.22

    -0.34

    -0.91

    0.159

    13.7% – 14.%

    1.43

    0.52

    -0.11

    -0.23

    -0.81

    0.851

    14.5% – 15.5%

    2.12

    1.21

    0.58

    0.46

    -0.11

    Từ các số liệu trên ta vẽ được đường hữu dụng của các nhà đầu tư trên đồ thị ba chiều như sau:



    Vì thái độ thờ ơ của nhà đầu tư đến thời gian đầu tư trong tương lai nên chúng ta có thể giảm những hàm hữu dụng này xuống hai chiều và cho phép biến đổi thành đồ thị rủi ro và tỷ suất sinh lợi. Kết quả đẳng dụng được cho ở hình phía dưới, nó gần như tương xứng với đường bàng quang nhà đầu tư trong lý thuyết và có lẽ gần giống hơn so với đường cong giá trị của Kahneman và Tversky, đặc biệt những đường đẳng dụng này dường như ở dạng bậc hai, phản ánh sự khác biệt giá trị của thu nhập và thua lỗ. Tác động của các kết quả lên quyết định của họ đó chính là giá trị mà họ nhận thấy được gắn với những kì vọng của họ về kết quả danh mục.






    tải về 1.63 Mb.

    Chia sẻ với bạn bè của bạn:
  • 1   ...   4   5   6   7   8   9   10   11   12




    Cơ sở dữ liệu được bảo vệ bởi bản quyền ©hocday.com 2024
    được sử dụng cho việc quản lý

        Quê hương