Chương 2 CÁc lĩnh vực bảo hộ SỞ HỮu trí tuệ



tải về 1.27 Mb.
trang5/33
Chuyển đổi dữ liệu30.08.2016
Kích1.27 Mb.
#28841
1   2   3   4   5   6   7   8   9   ...   33

Li-xăng bắt buộc


2.133 Li-xăng do chủ sở hữu bằng độc quyền sáng chế cấp được coi là li-xăng “tự nguyện” nhằm phân biệt với li-xăng “bắt buộc” hoặc “không tự nguyện”. Người thụ hưởng một li-xăng tự nguyện có quyền thực hiện các hành vi thuộc bảo hộ độc quyền theo sự cho phép của chủ sở hữu bằng độc quyền đối với sáng chế. Việc cho phép theo hợp đồng thường được gọi là hợp đồng li-xăng ký kết giữa một bên là chủ sở hữu bằng độc quyền đối với sáng chế và bên kia là người thụ hưởng li-xăng. Ngược lại, người thụ hưởng một li-xăng không tự nguyện có quyền thực hiện các hành vi thuộc bảo hộ độc quyền theo sự cho phép của một cơ quan chính phủ bất chấp ý kiến của chủ sở hữu bằng độc quyền đối với sáng chế.

2. 134 Tại những quốc gia có quy định về li-xăng không tự nguyện, những li-xăng như vậy thường rơi vào hai loại:



Lạm dụng Bằng độc quyền sáng chế: một số quốc gia quy định việc cấp li-xăng bắt buộc nhằm ngăn chặn việc lạm dụng có thể xuất phát từ việc thực hiện các quyền độc quyền của một bằng độc quyền sáng chế. Theo Điều 5A(2) Công ước Paris, việc không thực hiện sáng chế được coi là một ví dụ của việc lạm dụng, và

Vì lợi ích công cộng: một số quốc gia quy định việc cấp li-xăng không tự nguyện khi một li-xăng không tự nguyện được xác định là cần thiết vì lợi ích cộng đồng, bao gồm lý do sức khoẻ, bảo vệ quốc phòng và phát triển nền kinh tế.

Cấp Li-xăng không tự nguyện là chế tài đối với việc lạm dụng thực hiện quyền sáng chế

Không thực hiện sáng chế

2.135 Tuy định nghĩa thế nào là “thực hiện sáng chế” nhìn chung do luật pháp từng quốc gia quyết định, song ít nhất nó có nghĩa là, trong trường hợp bằng độc quyền sáng chế liên quan tới một sản phẩm là việc tạo ra sản phẩm, và trong trường hợp bằng độc quyền sáng chế được cấp cho một quy trình là việc áp dụng quy trình đó. Mặc dù luật pháp một số quốc gia quy định rõ rằng việc nhập khẩu một sản phẩm chứa đựng một sáng chế không được coi là đã thực hiện sáng chế, nhưng xu hướng hiện nay không giữ yêu cầu này. Về nguyên tắc, yêu cầu thực hiện có thể được đáp ứng qua việc thực hiện một sáng chế đã được cấp bằng độc quyền sáng chế hoặc bởi chủ sở hữu bằng độc quyền sáng chế hoặc bởi một bên hoặc thực thể khác theo hợp đồng li-xăng.

2.136 Ngay từ đầu cần phải nhớ rằng một bằng độc quyền sáng chế phải bộc lộ được sáng chế để một người có kỹ thuật trung bình trong lĩnh vực tương ứng cũng có thể thực hiện sáng chế đó. Vì vậy, các bằng độc quyền sáng chế ngoài việc được thực hiện, còn có ích đối với công nghiệp vì một khi đã công bố sẽ có thể gợi mở hướng đường các sáng chế khác. Hơn nữa, các sáng chế được mô tả trong bằng độc quyền sáng chế có thể thuộc về lĩnh vực công cộng sau khi chấm dứt thời hạn bảo hộ. Nghĩa là sau khi chấm dứt hiệu lực, công nghệ được bộc lộ trong bằng độc quyền sáng chế có thể tuỳ ý sử dụng bởi bất kỳ người nào mà không cần sự cho phép của chủ sở hữu bằng độc quyền sáng chế.

2.137 Mặc dù có những lợi ích trên, tại một số quốc gia, người ta cho rằng để hoàn toàn công bằng, sáng chế đã được cấp bằng độc quyền sáng chế phải được thực hiện tại quốc gia nơi cấp bằng độc quyền sáng chế đó và không thể chỉ sử dụng nó như một độc quyền nhằm ngăn chặn người khác cũng thực hiện sáng chế như mình hoặc để kiểm soát việc nhập khẩu. Mục tiêu chính khi yêu cầu phải thực hiện trong quốc gia nơi một sáng chế được cấp bằng độc quyền sáng chế là để chuyển giao công nghệ, việc thực hiện của một sáng chế đã được cấp bằng độc quyền sáng chế trên thực tế tại một quốc gia được coi như cách thức hữu hiệu nhất để đạt mục tiêu chuyển giao vào quốc gia đó.

2.138 Các ý kiến chống lại việc thực hiện bắt buộc một sáng chế tại một quốc gia bao gồm hai hướng: thứ nhất, việc thực hiện bắt buộc các sáng chế có thể phương hại tới mục tiêu chuyển giao công nghệ và thứ hai, việc thực hiện đó có khả năng sẽ không khả thi về mặt kinh tế.

2.139 Lập luận theo hướng đầu tiên chống lại li-xăng không tự nguyện, coi chúng kém hiệu quả hơn li-xăng tự nguyện trong việc khuyến khích chuyển giao công nghệ, và thậm chí có thể không hữu ích đối với mục tiêu đó. Nói cách khác, li-xăng tự nguyện rõ ràng cung cấp một phương thức mà qua đó việc chuyển giao công nghệ có thể được thực hiện thuận lợi, trong khi li-xăng không tự nguyện được xem như không đóng góp vai trò này mà nên bị hạn chế để làm chế tài đối với những lạm dụng có thể nảy sinh khi thực hiện các quyền về sáng chế.

2.140 Chuyển giao công nghệ được thực hiện tốt nhất trong môi trường có sự hợp tác giữa bên chuyển giao và bên nhận chuyển giao. Trong bối cảnh này, điều này có nghĩa là giữa chủ sở hữu bằng độc quyền sáng chế và người nhận li-xăng tiềm năng. Sự hợp tác đó thường dẫn tới việc bộc lộ một “bí quyết” không được bảo hộ bằng độc quyền sáng chế cần thiết để tạo ra một sản phẩm đứng vững trên thương trường, nhưng không nhất thiết thoả mãn yêu cầu bộc lộ để được bảo hộ bằng độc quyền sáng chế. Trong trường hợp một li-xăng không tự nguyện sẽ không có tinh thần hợp tác và cũng không có việc bộc lộ “bí quyết” không được bảo hộ theo bằng độc quyền sáng chế. Do vậy, việc cấp một li-xăng không tự nguyện đối với một bằng độc quyền sáng chế để thực hiện một sáng chế đã được cấp bằng có lẽ sẽ là một cách không hiệu quả để chuyển giao công nghệ đầy đủ.

2.141 Hơn nữa, có thể sẽ không khả thi về mặt kinh tế khi buộc một chủ sở hữu bằng độc quyền sáng chế phải sản xuất những sản phẩm theo bằng độc quyền sáng chế của anh ta tại tất cả quốc gia mà anh ta đã nhận được sự bảo hộ cho sáng chế đó. Yêu cầu như vậy không cho phép tính đến nhận thức về sự thống nhất các thị trường khu vực hoặc quốc tế hoặc về việc so sánh lợi thế cạnh tranh của các quốc gia hay khu vực. Có nghĩa là, chủ sở hữu bằng độc quyền sáng chế có thể thấy rằng sản phẩm theo sáng chế đã được cấp bằng độc quyền, hoặc sản phẩm thu do thực hiện được một quy trình đã được cấp bằng độc quyền sáng chế có thể sản xuất ra rẻ hơn nếu việc sản xuất thống nhất tại một cơ sở trong một quốc gia, còn nhu cầu của nước khác được thoả mãn thông qua việc nhập khẩu. Thực sự chủ sở hữu bằng độc quyền sáng chế có thể thấy rằng từng bộ phận sản phẩm của mình, được bảo hộ bằng độc quyền sáng chế, có thể được sản xuất tốt nhất tại nhiều quốc gia hoặc khu vực, cuối cùng được lắp ráp tại một cơ sở hay trong một nước hoặc một khu vực.

2.142 Để đáp lại những chỉ trích các quy định của li-xăng không tự nguyện, người ta thường nêu ra hai điểm sau. Thứ nhất, ở các quốc gia có những quy định trên hiếm khi có yêu cầu xin được cấp li-xăng không tự nguyện, và thậm chí nếu có, cũng khó có khả năng được cấp các li-xăng không tự nguyện đó, do đó các điều khoản này không có ý nghĩa thực tế. Thứ hai, những quy định này đưa ra khả năng pháp lý khuyến khích chủ sở hữu bằng độc quyền sáng chế sẵn lòng ký kết hợp đồng li-xăng tự nguyện hơn, cho dù các quy định đó ít khi được áp dụng. Tuy nhiên, môi trường hợp tác thường có trong trường hợp li-xăng tự nguyện hiệu quả hơn nhiều so với môi trường bị ép buộc để thúc đẩy việc chuyển giao công nghệ đầy đủ và liên tục.

2.143 Điều 5A(2) Công ước Paris quy định cụ thể rằng các nước thuộc Liên hiệp Paris có thể quy định cấp li-xăng không tự nguyện nhằm ngăn chặn việc lạm dụng trong thực thi các quyền về sáng chế, kể cả việc không thực hiện. Điều 5A(4) quy định không thể yêu cầu li-xăng bắt buộc do không thực hiện hoặc thực hiện không hiệu quả sáng chế trước khi hết một thời hạn nhất định về việc không thực hiện hoặc thực hiện kém hiệu quả. Thời hạn trên có thể là bốn năm kể từ ngày nộp đơn yêu cầu cấp bằng độc quyền sáng chế hoặc ba năm kể từ ngày bằng độc quyền cho sáng chế được cấp. Trong từng trường hợp riêng biệt, thời hạn áp dụng là thời hạn chấm dứt sau trong hai thời hạn kể trên.

2.144 Thời gian ba hoặc bốn năm là thời hạn tối thiểu dành cho chủ sở hữu bằng độc quyền sáng chế do xét thấy cần phải có thời gian chuẩn bị để bắt đầu thực hiện sáng chế đã được cấp bằng độc quyền sáng chế tại mỗi quốc gia khi anh ta được hưởng bảo hộ. Chủ sở hữu bằng độc quyền sáng chế phải được hưởng thời hạn dài hơn, nếu anh ta đưa ra những lý do hợp pháp về việc không thực hiện đó, chẳng hạn như do những trở ngại về mặt pháp luật, kinh tế và kỹ thuật cản trở việc thực hiện hoặc thực hiện một cách mạnh mẽ hơn. Nếu có thể chứng minh được điều này, yêu cầu về một li-xăng bắt buộc phải bị từ chối, ít nhất là trong thời gian đó. Thời hạn ba hoặc bốn năm là thời hạn tối thiểu có nghĩa rằng luật pháp quốc gia có thể quy định một thời hạn dài hơn.

2.145 Điều 5A(4) còn quy định rằng li-xăng bắt buộc do không thực hiện hoặc thực hiện không hiệu quả phải là một li-xăng không độc quyền và chỉ có thể chuyển giao cùng với một phần của doanh nghiệp thụ hưởng li-xăng bắt buộc đó. Chủ sở hữu bằng độc quyền sáng chế được dành quyền trao các li-xăng không độc quyền khác và tự mình thực hiện sáng chế đó. Ngoài ra, vì li-xăng bắt buộc đã được cấp cho một doanh nghiệp cụ thể căn cứ trên khả năng đã biết được về doanh nghiệp đó, nên nó gắn liền với doanh nghiệp này và không thể chuyển giao một cách tách riêng giữa li-xăng và doanh nghiệp đó. Những hạn chế này nhằm không để cho người được cấp li-xăng bắt buộc lại có một vị thế trên thị trường mạnh hơn vị thế được đảm bảo vì mục đích của li-xăng bắt buộc, đó là đảm bảo sự thực hiện một cách hiệu quả sáng chế tại quốc gia đó.

Về bảo đảm thủ tục và phí đền bù

2.146 Việc cấp một li-xăng không tự nguyện dẫn đến việc sử dụng một quyền tài sản rất có giá trị của chủ sở hữu bằng độc quyền sáng chế. Vì việc cấp một li-xăng như vậy không có sự đồng ý của chủ sở hữu bằng độc quyền sáng chế nên một sự đảm bảo về thủ tục hợp lý, bao gồm cả thủ tục khiếu nại hữu hiệu, cần được thiết lập để đảm bảo rằng li-xăng không tự nguyện được cấp và thi hành một cách hợp lệ. Những đảm bảo đó được quy định tại Điều 31 Hiệp định TRIPS (xem dưới đây, tại mục li-xăng bắt buộc của Hiệp định TRIPS).

2.147 Đặc biệt, cơ quan cấp li-xăng, như cơ quan sáng chế, nên đảm bảo rằng những điều kiện về cấp một li-xăng không tự nguyện đã được đáp ứng, cho phép chủ sở hữu bằng độc quyền sáng chế trình bày ý kiến của mình về vấn đề này. Hơn nữa, cơ quan cấp phải đảm bảo một khoản thanh toán thích đáng do bên nhận li-xăng không tự nguyện trả cho chủ sở hữu bằng độc quyền sáng chế và quy định thủ tục huỷ bỏ li-xăng không tự nguyện nếu các cơ sở để cấp li-xăng không tự nguyện đó không còn tồn tại nữa hoặc nếu các nghĩa vụ của một li-xăng không tự nguyện không được bên nhận đáp ứng.

2.148 Việc cấp một li-xăng không tự nguyện không có nghĩa là người nhận (người được cấp li-xăng) không phải trả phí li-xăng. Ngược lại, luật quốc gia về vấn đề này thường buộc người được cấp li-xăng phải thanh toán một khoản thanh toán xác định trên cơ sở việc thực hiện sáng chế đó.



Tước bỏ hoặc huỷ bỏ bằng độc quyền sáng chế trong trường hợp lạm dụng

2.149 Trong hầu hết mọi trường hợp, trong khi dự liệu việc cấp một li-xăng bắt buộc sẽ tỏ ra hữu hiệu để điều chỉnh việc lạm dụng thì Điều 5A(3) quy định về việc tước hoặc huỷ bỏ hiệu lực một bằng độc quyền sáng chế trong trường hợp nếu việc cấp li-xăng bắt buộc tỏ ra không hiệu quả. Phần này còn quy định rằng “không được tiến hành thủ tục nhằm tước bỏ hoặc huỷ bỏ hiệu lực bằng độc quyền sáng chế trước khi hết thời hạn hai năm kể từ ngày cấp li-xăng bắt buộc đầu tiên.”


Cấp Li-xăng không tự nguyện vì lợi ích công cộng


2.150 Một số quốc gia quy định về cấp li-xăng bắt buộc kể cả khi không có “hành vi lạm dụng” quyền sáng chế nhưng việc cấp một li-xăng không tự nguyện được cho là cần thiết trong việc bảo vệ lợi ích công cộng. Nói chung một li-xăng không tự nguyện được cấp vì lợi ích công cộng có thể chia thành hai loại, một loại nhằm bảo vệ quyền lợi các tổ chức tư nhân và thứ hai vì bản thân chính phủ đó, hoặc vì một cá nhân hoạt động đại diện cho chính phủ.

Cấp li-xăng không tự nguyện vì lợi ích của các tổ chức tư nhân

2.151 Một ví dụ về li-xăng không tự nguyện được cấp vì lợi ích công cộng song nghiêng về các tổ chức tư nhân, trong trường hợp này được gọi là “bằng độc quyền sáng chế phụ thuộc”. Những li-xăng không tự nguyện như vậy được cấp để giải quyết tình trạng nảy sinh khi điều đó là không thể mà không thực hiện các hành động được quy định trong một bằng độc quyền sáng chế (“ bằng độc quyền sáng chế chi phối”), nhằm thực hiện một sáng chế được yêu cầu bảo hộ ở một bằng độc quyền sáng chế khác (bằng độc quyền sáng chế phụ thuộc”). Trong tình hình như vậy, và nếu chủ sở hữu bằng độc quyền sáng chế phụ thuộc không thể ký kết một hợp đồng li-xăng với chủ sở hữu bằng độc quyền sáng chế chi phối với các điều khoản hợp lý, chủ sở hữu của bằng độc quyền sáng chế phụ thuộc có thể đạt được một li-xăng không tự nguyện theo bằng độc quyền sáng chế chi phối. Không có khả năng này, chủ sở hữu bằng độc quyền sáng chế chi phối có thể ngăn cản việc hoạt động của sáng chế được yêu cầu bảo hộ trong bằng độc quyền sáng chế phụ thuộc bằng cách từ chối cấp li-xăng. Việc mất khả năng hoạt động một bằng độc quyền sáng chế phụ thuộc được thấy là, tại một số quốc gia, đi ngược lại với lợi ích công cộng khi không gây trở ngại đối với việc hoạt động tất cả các sáng chế đã được cấp bằng độc quyền sáng chế.

2.152 Luật pháp một số quốc gia cấp những li-xăng không tự nguyện như vậy khi có tình huống phụ thuộc nảy sinh. Các quốc gia khác quy định rằng bằng độc quyền sáng chế phụ thuộc phải phục vụ một mục đích khác với mục đích của bằng độc quyền sáng chế chi phối hoặc đóng góp vào một tiến bộ kỹ thuật thực tế liên quan tới sáng chế yêu cầu bảo hộ trong bằng độc quyền sáng chế chi phối. Điều kiện thứ hai nhằm giúp tránh các mục đích lạm dụng có thể bắt nguồn từ việc nộp đơn yêu cầu cấp bằng độc quyền sáng chế cho những sáng chế không quan trọng chỉ vì mục đích có thể hoạt động một sáng chế quan trọng, thông qua một li-xăng bắt buộc.

2.153 Để đưa ra sự cân bằng nhất định giữa vị trí của các chủ sở hữu đối với hai bằng độc quyền sáng chế, luật pháp quốc gia thường quy định rằng chủ sở hữu của bằng độc quyền sáng chế chi phối có thể nhận được một li-xăng bắt buộc theo bằng độc quyền sáng chế phụ thuộc, nếu chủ sở hữu bằng độc quyền sáng chế phụ thuộc đã nhận được một li-xăng bắt buộc theo bằng độc quyền sáng chế chi phối.

2.154 Ngoài việc không hoạt động, một số quốc gia còn quy định rằng việc sử dụng một bằng độc quyền sáng chế vi phạm luật cạnh tranh (chống độc quyền) là đi ngược với lợi ích công cộng, việc trao li-xăng bắt buộc của bằng độc quyền sáng chế đó, đi ngược lại với việc không thực thi hoặc vô hiệu sáng chế, là kết quả của vi phạm chống độc quyền.

Cấp li-xăng không tự nguyện vì lợi ích chung của chính phủ hoặc các cơ quan đại diện cho chính phủ

2.155 Một số quốc gia khác cho phép chính phủ khai thác các sáng chế mà không cần sự đồng ý của chủ hữu bằng độc quyền sáng chế, hoặc cho phép bên thứ ba đại diện cho chính phủ để khai thác sáng chế đó. Có ba lĩnh vực điển hình có thể áp dụng quy định này, đó là: phòng thủ quốc gia, kinh tế quốc gia và sức khỏe cộng đồng.

2.156 Trong hầu hết các trường hợp vì lợi ích công cộng, Quốc gia được cho phép hành động ngược lại với ý chí của chủ sở hữu bằng độc quyền sáng chế, khi đó bất kỳ pháp nhân hay thể nhân do Chính phủ chỉ định có thể thực hiện bất kỳ hành động nào được quy định trong bằng độc quyền sáng chế. Đối với mỗi trường hợp cụ thể, Chính phủ sẽ quyết định cần phải thực hiện những hành động nào.

2.157 Biện pháp vì lợi ích chung này phù hợp với tình hình khi có những trường hợp khẩn cấp quốc gia. Chẳng hạn như thiết bị y tế, có thể cần phải nhập khẩu thiết bị đó ngay khi có dịch bệnh bất ngờ. Nếu chủ sở hữu bằng độc quyền sáng chế không tự nguyện nhập khẩu hoặc ký kết một hợp đồng li-xăng với các điều khoản hợp lý, chính phủ có thể quyết định yêu cầu một pháp nhân khác nhập khẩu dụng cụ đó hoặc có thể quyết định tự nhập khẩu. Tuy nhiên, ngay sau khi kiểm soát được dịch bệnh thì không còn lý do nào để duy trì biện pháp đó nữa, và chủ sở hữu bằng độc quyền đối với sáng chế sẽ khôi phục lại quyền kiểm soát hoàn toàn đối với các quyền kèm theo bằng độc quyền sáng chế.



Thủ tục đảm bảo và Chi phí bồi thường

2.158 Bởi việc cấp các li-xăng không tự nguyện trao quyền sử dụng một quyền sở hữu giá trị của chủ sở hữu bằng độc quyền sáng chế, mà không có sự đồng ý của anh ta, nên thủ tục đảm bảo cần được tiến hành để đảm bảo rằng việc cấp các li-xăng đó chỉ được thực hiện khi và với các điều kiện đảm bảo chúng. Ngoài ra, còn có những quy định về chi phí bồi thường cho chủ sở hữu bằng độc quyền sáng chế đối với việc sử dụng các quyền sở hữu của anh ta. Thủ tục đảm bảo này cũng được quy định theo Điều 31 của Hiệp định TRIPS (xem dưới đây).



Li-xăng bắt buộc theo Hiệp định TRIPS

2.159 Tham khảo nội dung Chương 5 giải thích cho Hiệp định TRIPS. Điều 31 của Hiệp định TRIPS cho phép các Thành viên có quyền cho bên thứ ba khai thác một sáng chế đã được cấp bằng độc quyền sáng chế, thậm chí bên thứ ba được hành động ngược lại ý chí của chủ sở hữu bằng độc quyền sáng chế, trừ khi những điều kiện nào đó cần được tôn trọng. Hiệp định này không bắt buộc hay giới hạn những lý do để cấp phép những quyền như vậy.



2.160 Tại một nước thành viên mà luật pháp nước đó cho phép li-xăng bắt buộc như vậy, bao gồm cả li-xăng do Chính phủ bắt buộc hay thay mặt Chính phủ hoặc li-xăng vì mục đích sử dụng khác đối với sáng chế đã được cấp Bằng độc quyền sáng chế mà không được sự cho phép của chủ sở hữu bằng độc quyền sáng chế, thì những điều kiện sau phải được tuân theo:

  1. Việc cho phép cấp li-xăng bắt buộc cần phải được xem xét dựa trên những lợi ích cá nhân. Điều này có nghĩa là đơn xin cấp li-xăng bắt buộc phải được xem xét dựa trên từng trường hợp cụ thể.

  2. Một li-xăng bắt buộc chỉ có thể được cấp nếu người nhận li-xăng theo đề xuất đã cố gắng để nhận được sự cho phép từ người nắm quyền với những điều kiện điều khoản thương mại hợp lý và những cố gắng đó không có kết quả trong một khoảng thời gian nhất định. Một nước thành viên có thể bỏ qua yêu cầu này trong trường hợp khẩn cấp của quốc gia hay trong những trường hợp cấp bách khác, hoặc trong trường hợp sử dụng vì lợi ích công cộng phi thương mại.

  3. Phạm vi và thời hạn của một li-xăng bắt buộc được giới hạn theo mục đích mà nó được cho phép sử dụng. Tuy nhiên, trong trường hợp công nghệ bán dẫn, một li-xăng bắt buộc chỉ có thể được cấp cho việc sử dụng vì lợi ích công cộng phi thương mại, hoặc để thực hiện một thủ tục được xác định là chống lại việc cạnh tranh.

  4. Một li-xăng bắt buộc phải là li-xăng không độc quyền.

  5. Một li-xăng bắt buộc không được chuyển nhượng nếu không kèm theo một phần của cơ sở kinh doanh hoặc đặc quyền sản xuất hàng hóa theo li-xăng đó.

  6. Một li-xăng bắt buộc chủ yếu được cho phép đối với việc cung cấp cho thị trường trong nước của nước thành viên đã cấp li-xăng.

  7. Một li-xăng bắt buộc phải được chấm dứt, tùy thuộc vào sự bảo hộ thích đáng các lợi ích hợp pháp của li-xăng bắt buộc, nếu trong trường hợp chứng minh được là việc cấp li-xăng đã dừng lại và không chắc sẽ tiếp diễn.

  8. Tùy theo từng trường hợp, chủ sở hữu bằng độc quyền sáng chế được trả một khoản tiền tương ứng với giá trị kinh tế của quyền sử dụng đã cho phép.

  9. Hiệu lực pháp lý của bất kỳ quyết định nào liên quan tới việc cấp một li-xăng bắt buộc tùy thuộc vào việc xem xét lại theo pháp luật hay những cân nhắc độc lập khác của một cơ quan có thẩm quyền đặc biệt cao hơn ở nước thành viên đã cấp li-xăng.

  10. Bất kỳ quyết định nào liên quan tới việc đền bù một li-xăng bắt buộc cũng phải tùy thuộc vào việc xem xét lại theo pháp luật hay những cân nhắc độc lập khác của một cơ quan có thẩm quyền đặc biệt cao hơn ở nước thành viên đã cấp li-xăng.

  11. Một nước thành viên không bắt buộc phải áp dụng những điều kiện ở các điểm (b) và (f) nói trên khi li-xăng bắt buộc được cấp để cứu vãn một tình thế được xác định là chống lại việc cạnh tranh. Sự cần thiết phải làm đúng theo thực tiễn chống cạnh tranh có thể được tính đến trong khi xác định khoản đền bù đối với những trường hợp như vậy. Cơ quan có thẩm quyền của nước thành viên có quyền từ chối việc chấm dứt một li-xăng bắt buộc nếu chứng minh được là việc cấp li-xăng như vậy chắc chắn tái diễn.

  12. Trong trường hợp phần phụ thuộc giữa hai bằng độc quyền sáng chế thuộc về hai chủ sở hữu khác nhau, để bằng độc quyền sáng chế sau không bị khai thác mà không vi phạm bằng độc quyền sáng chế trước, những điều kiện được thêm sau đây phải được áp dụng:

  • sáng chế được yêu cầu bảo hộ trong bằng độc quyền sáng chế thứ hai phải gắn với một tiến bộ kỹ thuật quan trọng có ý nghĩa về mặt kinh tế liên quan tới sáng chế thuộc bằng độc quyền sáng chế thứ nhất ;

  • chủ sở hữu bằng độc quyền sáng chế thứ nhất có quyền đối với một li-xăng chéo (cross-license) dựa trên những điều khoản hợp lý để sử dụng sáng chế thuộc bằng độc quyền sáng chế thứ hai; và

  • việc sử dụng bằng độc quyền sáng chế thứ nhất đã được cho phép không thể chuyển giao trừ khi chuyển giao cùng với bằng độc quyền sáng chế thứ hai.

Mẫu hữu ích

2.161 Tại một số quốc gia, có thể nhận được sự bảo hộ đối với “mẫu hữu ích”. Bản chất của “mẫu hữu ích” chỉ là tên gọi dành cho một số sáng chế, đó là - theo luật pháp của hầu hết các nước có quy định về mẫu hữu ích - các sáng chế trong lĩnh vực kỹ thuật. Điều này lý giải tại sao đối tượng của mẫu hữu ích thường được mô tả như những thiết bị hoặc các vật dụng hữu ích. Mẫu hữu ích khác với sáng chế được cấp bằng độc quyền sáng chế chủ yếu ở hai khía cạnh. Thứ nhất, tiến bộ về mặt công nghệ yêu cầu thấp hơn so với tiến bộ kỹ thuật (“trình độ sáng tạo”) trong trường hợp sáng chế được cấp bằng độc quyền sáng chế. Thứ hai, thời hạn bảo hộ tối đa quy định trong luật đối với một mẫu hữu ích thường ngắn hơn thời hạn bảo hộ tối đa quy định trong luật đối với sáng chế được cấp bằng độc quyền sáng chế. Văn bằng mà tác giả sáng chế nhận được trong trường hợp mẫu hữu ích, và tại một số quốc gia, có thể gọi là một bằng độc quyền sáng chế. Nếu nó được gọi là một bằng độc quyền sáng chế, cần phải phân biệt nó với các bằng độc quyền sáng chế dành cho sáng chế và phải luôn chỉ rõ đó là một “bằng độc quyền sáng chế cho mẫu hữu ích”.



Bản quyền và các quyền liên quan

Giới thiệu

2.162 Luật bản quyền là một nhánh của pháp luật đề cập đến quyền của người sáng tạo trí tuệ. Luật bản quyền đề cập đến các hình thức sáng tạo đặc biệt, chủ yếu liên quan tới truyền thông đại chúng. Luật bản quyền cũng liên quan đến hầu hết các hình thức và phương pháp truyền đạt tới công chúng, không chỉ đối với việc xuất bản mà còn cả với các lĩnh vực như phát thanh và truyền hình, chiếu phim tại rạp... và thậm chí cả hệ thống sử dụng máy tính để lưu trữ và truy cập thông tin.

2.163 Luật bản quyền quản lý các quyền của những người sáng tạo trí tuệ đối với các sản phẩm sáng tạo của họ. Hầu hết các tác phẩm như sách, bức tranh, bản vẽ chỉ tồn tại một khi các tác phẩm này được thể hiện dưới một dạng vật chất nhất định. Nhưng tuy vậy cũng có những tác phẩm lại tồn tại mà không thể hiện dưới dạng vật chất nào. Chẳng hạn thơ hoặc nhạc là những tác phẩm ngay cả khi nó chưa được viết ra hoặc trước khi được ghi lại bằng các nốt nhạc hoặc từ ngữ.

2.164 Tuy nhiên, luật bản quyền chỉ bảo hộ hình thức thể hiện ý tưởng chứ không bảo hộ chính các ý tưởng đó. Sáng tạo được bảo hộ theo luật bản quyền là sự sáng tạo trong việc lựa chọn và sắp xếp các từ ngữ, nốt nhạc, mầu sắc và hình khối... Luật bản quyền bảo hộ chủ sở hữu các quyền đối với những tác phẩm nghệ thuật nhằm chống lại những người “sao chép”, đó là những người lấy và sử dụng hình thức của các tác phẩm nguyên gốc đã được tác giả thể hiện.



Каталог: images -> 2007
2007 -> Hồ sơ ngành hàng rau quả
2007 -> Căn cứ Pháp lệnh Cán bộ, công chức ngày 26 tháng 02 năm 1998
2007 -> Viện Chính sách và Chiến lược Phát triển Nông nghiệp Nông thôn Trung tâm Tư vấn Chính sách Nông nghiệp
2007 -> QuyếT ĐỊnh số 46/2007/QĐ-bnn, ngày 28 tháng 5 năm 2007 Ban hành Quy định về việc xác định rừng trồng, rừng khoanh nuôi thành rừng
2007 -> Trung tâm phát triển nông thôN
2007 -> Viện Chính sách và Chiến lược Phát triển Nông nghiệp Nông thôn Trung tâm Tư vấn Chính sách Nông nghiệp
2007 -> §å hép rau qu¶ Ph­¬ng ph¸p x¸c ®Þnh hµm l­îng vitamin c (axit ascobic) tcvn 4715 89
2007 -> Tiªu chuÈn ViÖt nam §å hép rau qu¶ Ph­¬ng ph¸p thö tcvn 4712-89
2007 -> Iso 9000: 2000 Thuật ngữ và định nghĩa hệ thống quản lý chất lượng Thuật ngữ liên quan đến chất lượng

tải về 1.27 Mb.

Chia sẻ với bạn bè của bạn:
1   2   3   4   5   6   7   8   9   ...   33




Cơ sở dữ liệu được bảo vệ bởi bản quyền ©hocday.com 2024
được sử dụng cho việc quản lý

    Quê hương