Chương 2 CÁc lĩnh vực bảo hộ SỞ HỮu trí tuệ



tải về 1.27 Mb.
trang4/33
Chuyển đổi dữ liệu30.08.2016
Kích1.27 Mb.
#28841
1   2   3   4   5   6   7   8   9   ...   33

Các hành vi vi phạm

Quyền độc quyền của Chủ sở hữu Bằng độc quyền sáng chế


2.83 Nói chung, người được cấp bằng độc quyền sáng chế có quyền, theo quy định của pháp luật, quyết định ai sẽ được và không được phép khai thác sáng chế đã được cấp bằng độc quyền sáng chế của mình. Người đó có thể duy trì quyền này trong thời hạn hiệu lực của bằng độc quyền sáng chế có hiệu lực, với điều kiện anh ta phải nộp đầy đủ các khoản lệ phí duy trì hay gia hạn.

2.84 Các quyền có được theo pháp luật của chủ sở hữu bằng độc quyền sáng chế đối với sáng chế của mình thường bị hạn chế theo nhiều cách khác nhau.

2.85 Thứ nhất, các yêu cầu bảo hộ độc quyền có thể là đối tượng bị toà án sửa đổi hoặc huỷ bỏ hiệu lực đối với những khiếm khuyết không được phát hiện ra trước khi cấp bằng độc quyền sáng chế.

2.86 Thứ hai, khi sáng chế là sự cải tiến hoặc phát triển từ một bằng độc quyền sáng chế có trước, chủ sở hữu bằng độc quyền sáng chế có thể phải được cấp li-xăng và trả thù lao cho chủ sở hữu bằng độc quyền sáng chế trước đó.

2.87 Thứ ba, các quyền của chủ sở hữu bằng độc quyền sáng chế thường bị hạn chế bởi luật về sáng chế, và điều này không liên quan đến vấn đề hiệu lực của bằng độc quyền sáng chế của người đó. Trong hầu hết các hệ thống luật về sáng chế, ví dụ chủ sở hữu bằng độc quyền sáng chế buộc phải đưa sáng chế của mình vào áp dụng thực tiễn, có thể do chính anh ta hoặc bằng cách li-xăng cho những người khác sử dụng, nếu anh ta muốn được độc quyền. Một li-xăng không tự nguyện có thể được cấp cho bên thứ ba nếu có thể chứng minh rằng sáng chế được cấp bằng độc quyền sáng chế không được đưa vào sử dụng hay có sử dụng nhưng ở mức độ bị coi là không đủ tại quốc gia đó.

2.88 Cuối cùng, hạn chế pháp lý thứ tư đối với quyền của chủ sở hữu bằng độc quyền sáng chế trong việc khai thác sáng chế của mình là sáng chế được cấp bằng độc quyền sáng chế đó có thể được Chính phủ sử dụng hoặc bên thứ ba được Chính phủ cho phép sử dụng, vì lợi ích công cộng, theo các điều kiện được quy định bởi một thoả thuận hay quyết định của toà án.

2.89 Ngoài ngoại lệ về những hạn chế như đã đề cập, việc cấp bằng độc quyền sáng chế cho phép chủ sở hữu ngăn cản người khác khai thác sáng chế đã được cấp bằng độc quyền sáng chế. Quyền của chủ sở hữu được gọi là độc quyền bởi nó không cho phép người khác khai thác sáng chế và bởi vì chủ sở hữu là người duy nhất được phép khai thác sáng chế đó miễn là những người khác không được trao quyền ví dụ như thông qua li-xăng để khai thác. Độc quyền này của chủ sở hữu bằng độc quyền sáng chế có hai cách thực hiện chính trong thực tiễn, đó là bảo hộ chống lại hành vi vi phạm và khả năng chuyển nhượng hoặc cấp li-xăng một phần hay toàn bộ quyền. Vấn đề li-xăng sáng chế đã được cấp bằng độc quyền sáng chế sẽ được xem xét tại phần sau.

2.90 Một hành vi vi phạm quyền độc quyền của chủ sở hữu bằng độc quyền sáng chế là việc một bên thứ ba khai thác sáng chế đã được cấp bằng độc quyền sáng chế mà không được cho phép. Việc tạo ra sáng chế, cụ thể là sự triển khai ứng dụng công nghiệp, thường tiêu tốn khá nhiều chi phí của người nộp đơn hay chủ sở hữu tương lai của sáng chế đó. Vì vậy, chủ sở hữu bằng độc quyền sáng chế mong muốn được thu hồi lại những chi phí đó bằng việc khai thác sáng chế đã được cấp bằng độc quyền sáng chế của mình, mà cụ thể là thông qua việc bán các sản phẩm của sáng chế hoặc chứa đựng sáng chế.


Thực thi các quyền


2.91 Việc thực thi một bằng độc quyền sáng chế hoàn toàn chỉ do chủ sở hữu bằng độc quyền sáng chế đó tiến hành. Chính anh ta là người có trách nhiệm phát hiện mọi hành vi vi phạm và lưu ý người gây ra hành vi vi phạm về việc vi phạm đó. Trong nhiều hệ thống pháp luật, có một nguyên tắc tuyệt đối là chủ sở hữu bằng độc quyền sáng chế không thể đe doạ khởi kiện mà lại không chịu rủi ro bị phản đòn, kể cả các thiệt hại nếu việc đe doạ bị chứng minh là không có cơ sở. Mục đích chính của quy định như vậy trong luật pháp là nhằm ngăn chặn không để chủ sở hữu bằng độc quyền sáng chế đe doạ các khách hàng của những người bị cáo buộc là vi phạm khi không kiện người vi phạm nguyên gốc. Trên thực tế đó thường là một bức thư lịch thiệp thông báo sự hiện hữu của bằng độc quyền sáng chế ngụ ý rằng người được cấp bằng độc quyền sáng chế sẽ thưa kiện nếu hành vi vi phạm vẫn tái diễn. Lá thư như vậy tỏ ra hiệu quả trong việc ngăn chặn hành vi vi phạm.

2.92 Nếu người vi phạm vẫn tỏ ra ngoan cố, chủ sở hữu bằng độc quyền sáng chế có thể cân nhắc xem anh ta có muốn thỏa thuận li-xăng hay không. Rất nhiều vụ tranh chấp vào khi chớm hình thành đã được giải quyết thông qua những thoả thuận li-xăng, điều kiện li-xăng tuỳ thuộc vào năng lực đàm phán, sự thoả thuận của các bên. Nhưng nếu chủ sở hữu bằng độc quyền sáng chế tỏ ra không sẵn lòng cấp li-xăng theo điều kiện mà người nhận li-xăng chấp thuận, anh ta có thể phải tiến hành thủ tục pháp lý bằng cách kiện hành vi vi phạm và để xin lệnh cấm của toà án nhằm ngăn chặn hành vi vi phạm. Đòn phản công bất di bất dịch của người vi phạm, khi muốn theo đuổi tranh tụng là yêu cầu hủy bỏ hiệu lực của bằng độc quyền sáng chế.

2.93 Phần lớn các vụ tranh chấp về vi phạm bằng độc quyền sáng chế không hề được đưa ra toà án mà thường được giải quyết thông qua thương lượng. Nếu trong số đó được giải quyết thông qua các hình thức pháp lý chính thức, thì cũng chỉ có một số ít vụ phải đi xa hơn giai đoạn chuẩn bị xét xử, và kết cục phổ biến là giải quyết thỏa thuận hòa giải giữa các bên, có thể với sự trợ giúp của một trọng tài không chính thức. Quá trình thỏa thuận giải quyết này có thể diễn ra trong vài năm, đặc biệt đối với những vụ phức tạp, nhưng thường chúng không dẫn đến các chi phí pháp lý tốn kém. Những vụ giải quyết theo thỏa thuận như vậy thường dẫn tới một li-xăng và có thể kéo theo một số thiệt hại.

Các hình thức vi phạm


2.94 Có nhiều hình thức nảy sinh vi phạm về quyền sáng chế. Trước hết, đó là tình huống khi bằng độc quyền sáng chế bị một bên thứ ba cố ý vi phạm mà không hề có ý định tránh việc vi phạm đó. Đó là việc sao chép y nguyên sáng chế hoặc sao chép sáng chế đó với những thay đổi hay sửa chữa nhỏ. Hình thức vi phạm này có thể xảy ra do bên thứ ba bất cẩn, hoặc vì anh ta đã được người đại diện sở hữu công nghiệp của mình tư vấn rằng bằng độc quyền sáng chế hay một hoặc nhiều yêu cầu của bằng là không có giá trị hiệu lực.

2.95 Với hình thức vi phạm trên thì không phải tranh cãi về vấn đề liệu đã có hành vi vi phạm hay chưa. Nếu mọi đặc tính của sáng chế đã được cấp bằng độc quyền sáng chế bị sao chép thì chắc chắn đã có hành vi vi phạm, và vấn đề duy nhất cần giải quyết là liệu các yêu cầu của bằng độc quyền sáng chế đó có giá trị hiệu lực hay không.

2.96 Tình huống thứ hai nảy sinh khi hành vi vi phạm là cố ý, nhưng đã thực hiện một vài nỗ lực nhằm tránh để lộ ra hành vi vi phạm. Điều này thường xảy ra khi một sáng chế bị bộc lộ khi bán sản phẩm liên quan tới sáng chế đó, hoặc bị bộc lộ trong một tài liệu sáng chế đã phát hành, hoặc trong một số ấn phẩm khác khiến bên thứ ba có được những ý tưởng. Những tài liệu trên thường đưa ra những vấn đề và cách giải quyết chúng. Khi đó, bên thứ ba có thể cố gắng tạo ra một cách thức, giải pháp, phương án thay thế nhưng vẫn để thực hiện cùng nhiệm vụ. Trong khi bên thứ ba có thể cố gắng một cách thật sự nhằm tạo ra một giải pháp không bị đụng với sáng chế đã được cấp bằng độc quyền, đồng thời với việc vận dụng ý tưởng cơ bản của tác giả sáng chế, thì kết quả thường không vượt ra khỏi phạm vi yêu cầu bảo hộ của bằng độc quyền sáng chế đó. Đây có lẽ là hình thức vi phạm phổ biến nhất mà chủ sở hữu bằng độc quyền sáng chế thường phải đối mặt và là nguyên nhân của hầu hết các tranh chấp.

2.97 Tình huống cuối cùng là một hành vi vi phạm xảy ra ngẫu nhiên. Khi chủ sở hữu bằng độc quyền sáng chế tình cờ thấy một thứ gì đó thể hiện những ý tưởng của mình, ngay lập tức anh ta sẽ cảm thấy rằng sáng chế của mình đã bị sao chép. Điều này cũng không nhất thiết là đúng, bởi có thể có rất nhiều người cũng có thể cùng đang tìm kiếm cách giải quyết cho một vấn đề cụ thể vào cùng một thời điểm. Chẳng hạn như, phòng nghiên cứu của những tổ chức lớn khác nhau có thể cùng nghiên cứu về cùng một vấn đề. Tương tự như vậy có thể có rất nhiều công ty được đề nghị dự thầu một hợp đồng để giải quyết một vấn đề cụ thể nào đó hoặc nhằm đạt được một kết quả nhất định, và kết cục là để thực hiện điều đó có thể sẽ có rất nhiều ý tưởng giống nhau được nêu ra mà có thể đã được bộc lộ trong một sáng chế đã được cấp bằng độc quyền sáng chế. Vì vậy, mặc dù chủ sở hữu bằng độc quyền sáng chế có thể cảm thấy rằng sáng chế của mình bị sao chép, thì trên thực tế, bên thứ ba có thể đã đạt đến được một giải pháp tương tự hoặc nếu không nói là một giải pháp giống hệt thông qua một con đường khác.


Các yếu tố chứng minh hành vi vi phạm


2.98 Để chứng minh một hành vi vi phạm chủ sở hữu bằng độc quyền sáng chế phải chứng minh tất cả những yếu tố sau:

  • Việc thực hiện một hành vi bị ngăn cấm;

  • Hành vi bị ngăn cấm được thực hiện sau khi công bố đơn yêu cầu cấp bằng độc quyền sáng chế, hoặc sau khi cấp bằng độc quyền sáng chế mà không có việc công bố trước đó;

  • Hành vi bị ngăn cấm được thực hiện tại quốc gia cấp bằng độc quyền sáng chế;

  • Hành vi bị ngăn cấm phải liên quan tới một sản phẩm hoặc một quy trình thuộc phạm vi yêu cầu bảo hộ của bằng độc quyền sáng chế.

Các hành vi bị ngăn cấm

2.99 Một hành vi bị ngăn cấm, yếu tố quan trọng nhất trong việc chứng minh vi phạm là hành vi liên quan tới việc chế tạo, sử dụng, bán hoặc nhập khẩu sản phẩm đã được cấp bằng độc quyền sáng chế, hoặc việc sử dụng quy trình đã được cấp bằng độc quyền sáng chế, hay việc chế tạo, sử dụng, bán hoặc nhập khẩu sản phẩm thu được trực tiếp từ quy trình đã được cấp bằng độc quyền sáng chế.

2.100 Việc chế tạo một sản phẩm nghĩa là sản phẩm được mô tả và yêu cầu bảo hộ trong Bằng độc quyền sáng chế được thực hiện. Việc chế tạo đó có thể coi là sản xuất, đặc biệt khi sản phẩm được sản xuất nhằm mục đích thương mại. Phương thức sản xuất và số lượng sản phẩm không liên quan tới hành vi vi phạm một sản phẩm được cấp bằng độc quyền sáng chế đã đề cập. Tuy nhiên, có ba ngoại lệ chính mà luật pháp hầu hết các quốc gia đặt ra đối với hành vi vi phạm quyền độc quyền trong việc sản xuất một sản phẩm đã được cấp bằng độc quyền sáng chế, đó là:


  • khi sản phẩm được cấp bằng độc quyền sáng chế được làm ra chỉ vì mục đích nghiên cứu khoa học và thí nghiệm;

  • khi bên thứ ba đã bắt đầu làm ra sản phẩm trước ngày nộp đơn yêu cầu cấp bằng độc quyền sáng chế cho sáng chế có trong sản phẩm đó; và

  • khi sản phẩm được cấp bằng độc quyền sáng chế được thực hiện theo một li-xăng không tự nguyện hoặc theo sự cho phép của Chính phủ vì lợi ích công cộng.

2.101 Đối với các quy trình đã được cấp bằng độc quyền sáng chế, chỉ có việc làm ra những sản phẩm thu được trực tiếp từ quy trình được cấp bằng độc quyền sáng chế mới là hành vi bị ngăn cấm. “Trực tiếp” trong ngữ cảnh này nghĩa là “ngay lập tức” hay “không có sự chuyển đổi hay biến đổi thêm nữa”.

2.102 Một trong những khó khăn khi chứng minh hành vi vi phạm đối với các sản phẩm thu được trực tiếp từ một quy trình được cấp bằng độc quyền sáng chế là việc chứng minh rằng quy trình được cấp bằng độc quyền sáng chế đã được sử dụng để sản xuất ra sản phẩm đó. Luật sáng chế của một số quốc gia giải quyết vấn đề này bằng cách quy định đảo ngược nghĩa vụ chứng minh đối với các bằng độc quyền sáng chế của các quy trình bằng việc đưa ra giả định sau: nếu sản phẩm thu được trực tiếp từ việc sử dụng quy trình được cấp bằng độc quyền sáng chế đó là mới vào ngày nộp đơn hoặc ngày ưu tiên của đơn yêu cầu cấp bằng độc quyền sáng chế, thì một sản phẩm giống hệt như vậy do bên thứ ba sản xuất bị coi theo giả định thu được từ cùng một quy trình. Luật pháp một số nước khác còn tiến xa hơn và loại bỏ khó khăn trên bằng cách không hạn chế sản phẩm thu được phải là mới.

2.103 Việc sử dụng một sản phẩm đã được cấp bằng độc quyền sáng chế không đòi hỏi phải diễn ra liên tục hoặc lặp đi lặp lại. Nguyên tắc là việc sử dụng là một hành vi bị ngăn cấm bất kể người sử dụng sản phẩm được cấp bằng độc quyền sáng chế là ai, và sản phẩm đó được sử dụng vì mục đích gì. Việc sử dụng sản phẩm đã được cấp bằng độc quyền sáng chế là hành vi bị ngăn cấm bất kể sản phẩm thực sự đang được sử dụng có do chủ sở hữu bằng độc quyền sáng chế làm ra, và làm ra với sự cho phép của chủ sở hữu, hay không được chủ sở hữu cho phép.

2.104 Luật pháp hầu hết các quốc gia thường đưa ra 5 ngoại lệ về hành vi vi phạm độc quyền đối với việc sử dụng một sản phẩm đã được cấp bằng độc quyền sáng chế, đó là:



  • sử dụng sản phẩm đã được cấp bằng độc quyền sáng chế chỉ vì mục đích nghiên cứu khoa học hoặc thí nghiệm;

  • sử dụng sản phẩm đã được cấp bằng độc quyền sáng chế do chính chủ sở hữu bằng độc quyền sáng chế đưa ra thị trường tại quốc gia đó hoặc được sự cho phép của chủ sở hữu;

  • sử dụng sản phẩm đã được cấp bằng độc quyền sáng chế trên các phương tiện giao thông quá cảnh qua quốc gia đó;

  • sản phẩm được cấp bằng độc quyền sáng chế do bên thứ ba có đặc quyền được tiếp tục tạo ra sản phẩm; và

  • sản phẩm được cấp bằng độc quyền sáng chế được sử dụng theo một li-xăng không tự nguyện hoặc với sự cho phép của Chính phủ vì lợi ích công cộng.

2.105 Việc bán một sản phẩm đã được cấp bằng độc quyền sáng chế là hành vi bị ngăn cấm bất kể sản phẩm được bán đó do chủ sở hữu bằng độc quyền sáng chế tạo ra, hay được làm ra với sự cho phép hay không có sự cho phép của chủ sở hữu. Bất kỳ sản phẩm nào tương ứng với phần mô tả sáng chế và được yêu cầu bảo hộ trong bằng độc quyền sáng chế, thậm chí được làm ra mà không có sự cho phép của chủ sở hữu, là một sản phẩm được bảo hộ theo bằng độc quyền sáng chế.

2.106 Việc nhập khẩu một sản phẩm đơn giản có nghĩa là đưa một món hàng chứa đựng hay cấu thành sản phẩm đã được bảo hộ theo bằng độc quyền sáng chế được vào quốc gia bảo hộ. Do vậy, việc nhập khẩu là một hoạt động cơ học vận chuyển sản phẩm qua biên giới vào lãnh thổ một quốc gia, bất kể sản phẩm đó được nhập khẩu từ quốc gia nào. Hơn nữa, ở đây cho dù việc nhập khẩu có được tiến hành vì mục đích sử dụng, buôn bán hay phân phối miễn phí đều không phải là vấn đề. Kể cả việc một sản phẩm nhập khẩu được hưởng quyền bảo hộ bằng độc quyền sáng chế tại nước mà sản phẩm được sản xuất hay tại quốc gia xuất sản phẩm đó cũng không có ý nghĩa gì.

2.107 Nguyên tắc đối với việc sử dụng, bán và nhập khẩu sản phẩm đã được cấp bằng độc quyền sáng chế như định nghĩa đề cập, cũng áp dụng đối với việc sử dụng, bán và nhập khẩu sản phẩm trực tiếp thu được từ một quy trình đã được bảo hộ theo bằng độc quyền sáng chế.

Sau khi Công bố đơn hoặc cấp Bằng độc quyền sáng chế

2.108 Yếu tố thứ hai trong việc chứng minh một hành vi vi phạm không cần nhiều bàn luận, đó là hành vi bị ngăn cấm phải được thực hiện sau khi công bố sáng chế, hoặc trong đơn yêu cầu cấp bằng độc quyền sáng chế hoặc trong bằng độc quyền sáng chế đã cấp. Sẽ là vô lý nếu bên thứ ba bị buộc tội có hành vi vi phạm khi các chi tiết về sáng chế còn chưa được công bố cho công chúng để họ có thể tự xem xét cái gì bị ngăn cấm.



Tại quốc gia cấp bằng độc quyền sáng chế

2.109 Yếu tố thứ ba trong việc chứng minh một hành vi vi phạm cũng ít cần phải bình luận. Nói chung, bằng độc quyền sáng chế không vượt ra khỏi biên giới của quốc gia cấp bằng độc quyền sáng chế đó. Luật về sáng chế của một quốc gia này không có hiệu lực tại một quốc gia khác. Tuy nhiên, đối với một số ít các quốc gia, đặc biệt là các nước thuộc Khối Thịnh vượng Anh, có thể mở rộng phạm vi của một bằng độc quyền sáng chế thuộc Vương quốc Anh tới các quốc gia khác bằng việc nộp đơn yêu cầu của chủ sở hữu bằng độc quyền sáng chế đó, thường là trong thời hạn 3 năm kể từ ngày cấp bằng độc quyền sáng chế, để đăng ký bằng độc quyền sáng chế đó tại quốc gia liên quan.



Trong phạm vi yêu cầu bảo hộ của Bằng độc quyền sáng chế

2.110 Yếu tố thứ tư trong việc chứng minh một hành vi vi phạm thường là điểm quyết định trong mọi tranh chấp về bằng độc quyền sáng chế. Tại mọi quốc gia, phạm vi bảo hộ của một bằng độc quyền sáng chế được xác định bởi các yêu cầu bảo hộ. Ý nghĩa của các yêu cầu bảo hộ này chung cuộc sẽ được toà án giải thích. Cách thức để toà án diễn giải yêu cầu ngược lại phụ thuộc vào luật pháp từng quốc gia và trong chừng mực nào đó còn là các nguyên tắc và quy định. Vì vậy, một yêu cầu bảo hộ có ý nghĩa như thế nào sẽ phụ thuộc vào hệ thống tư pháp mà ở đó yêu cầu bảo hộ được giải thích.

2.111 Các toà án, đặc biệt trong hệ thống common law (thông luật), hướng tới việc xác định cấu trúc nào mà ngôn từ của phần yêu cầu định ra, và xem xét liệu cấu trúc bị cáo buộc vi phạm có tương ứng với cấu trúc mà ngôn từ trong yêu cầu bảo hộ định ra hay không.

2.112 Khi cố gắng giải đáp vấn đề liệu một kết cấu cụ thể nào đó có vi phạm một yêu cầu bảo hộ trong bằng độc quyền đối với sáng chế hay không, yêu cầu bảo hộ này phải được tách ra thành các yếu tố riêng lẻ, và những yếu tố này được đem so sánh với các yếu tố của kết cấu bị coi là vi phạm để xem chúng có quan hệ gì với nhau hay không. Trên thực tế, nếu yêu cầu bảo hộ có thể được phân tích để tương ứng với hành vi bị cáo buộc là vi phạm mà ngôn từ của yêu cầu bảo hộ không bị suy diễn quá rộng, khi đó có thể nói là đã có một hành vi vi phạm thực sự. Mặt khác, nếu yêu cầu bảo hộ chứa đựng một đặc điểm giới hạn nào đó mà không thể tìm thấy trong hành vi bị cáo buộc là vi phạm thì có thể nói là không có hành vi vi phạm.

2.113 Khi so sánh từng yếu tố riêng lẻ của một yêu cầu bảo hộ với các yếu tố tương ứng trong một hành vi bị coi là vi phạm, cần phải trả lời các câu hỏi sau:


  • Tất cả các yếu tố trong yêu cầu bảo hộ có hiện hữu trong hành vi bị cáo buộc là vi phạm không?

  • Tất cả những yếu tố này có cùng một dạng không?

  • Tất cả những yếu tố trên có cùng thực hiện một chức năng không?

  • Các yếu tố đó có cùng mối quan hệ với các yếu tố khác không?

2.114 Nếu câu trả lời là “có” thì hành vi vi phạm đã được chứng minh, tất nhiên là tuỳ thuộc vào việc liệu yêu cầu bảo hộ đề cập đến có giá trị hiệu lực hay không. Một sản phẩm hay một quy trình vi phạm phải bao hàm đủ từng và tất cả các yếu tố của sáng chế nêu ra trong phần yêu cầu bảo hộ.

2.115 Tất nhiên việc chứng minh một hành vi vi phạm không phải luôn luôn rõ ràng. Ví dụ, sự thay đổi về mặt hình dạng sẽ không tránh khỏi vi phạm nếu không có thay đổi nào trong kết quả thu được. Những thay đổi về trật tự các bước tiến hành trong một quy trình sẽ không tránh khỏi vi phạm nếu vẫn thu được kết quả như vậy. Hơn nữa, sự hiện diện của những yếu tố bổ sung khác trong một hành vi bị cáo buộc là vi phạm không giúp tránh khỏi hành vi vi phạm nếu tất cả các yếu tố được nêu ra trong phần yêu cầu bảo hộ của bằng độc quyền sáng chế cùng đều có mặt.

2.116 Một trong những lĩnh vực khó khăn nhất của việc giải thích yêu cầu bảo hộ là việc xác định liệu đã có sự thay thế các yếu tố tương đương trong một hành vi bị cáo buộc là vi phạm. Đây còn được gọi là “học thuyết về các yếu tố tương đương” khá nổi tiếng trong thực tiễn tranh chấp về bằng độc quyền sáng chế tại nhiều quốc gia. Nói một cách vắn tắt, học thuyết này đề xướng rằng một người vi phạm không được phép tiếp tục hành vi của mình khi anh ta về căn bản đã vận dụng sáng chế đã được cấp bằng độc quyền sáng chế khi chỉ đơn giản thay một yếu tố của sáng chế bằng một yếu tố thay thế có chức năng và kỹ thuật tương đương với yếu tố được nêu ra trong yêu cầu bảo hộ bằng độc quyền sáng chế, bất kể việc thay đổi đó được người vi phạm sử dụng thực ra có là một cải tiến hay không. Học thuyết tương đương bị hạn chế áp dụng chỉ trong các trường hợp khi yếu tố thay thế hay các yếu tố thay thế do người vi phạm sử dụng thực hiện chức năng cơ bản giống như và tạo ra một kết quả về cơ bản là giống với yếu tố hoặc các yếu tố nêu trong phần yêu cầu bảo hộ hoặc các yêu cầu bảo hộ.

Các biện pháp Chủ sở hữu Bằng độc quyền sáng chế có thể áp dụng

2.117 Các biện pháp mà chủ sở hữu bằng độc quyền sáng chế có thể áp dụng khi có hành vi vi phạm xảy ra thường được quy định trong luật pháp quốc gia về sáng chế và thường ở hai hình thức, đó là biện pháp hình sự và dân sự.

2.118 Nói một cách khái quát, biện pháp dân sự được áp dụng đối với mọi trường hợp vi phạm, còn các biện pháp hình sự chỉ được áp dụng trong một số hoàn cảnh cụ thể, đó là, khi hành vi vi phạm được thực hiện một cách cố ý.

2.119 Các biện pháp dân sự thường được áp dụng bao gồm quy định đền bù thiệt hại, lệnh cấm của toà án, hay bất kỳ biện pháp nào khác được quy định trong pháp luật chung như biện pháp tịch thu và tiêu huỷ sản phẩm vi phạm hoặc các phương tiện được sử dụng để sản xuất các sản phẩm đó.

2.120 Nếu chủ sở hữu bằng độc quyền sáng chế chứng minh được trước toà án rằng có một hành vi vi phạm đã xảy ra, hoặc đang xảy ra thì anh ta có quyền đòi bồi thường thiệt hại, mức bồi thường thiệt hại sẽ do toà án đánh giá. Người gây ra hành vi vi phạm sẽ chỉ đền bù thiệt hại đối với hành vi vi phạm xảy ra kể từ ngày Cơ quan Sáng chế công bố sáng chế trong đơn xin cấp bằng độc quyền sáng chế hoặc từ ngày cấp bằng độc quyền sáng chế. Mức bồi thường thiệt hại có thể được tính ít nhất là theo hai cách. Một cách đó là đánh giá mức độ thiệt hại dựa trên thiệt hại về mặt tài chính do hành vi vi phạm gây ra cho chủ sở hữu bằng độc quyền sáng chế. Theo cách tính thứ hai thì mức bồi thường thiệt hại được tính dựa trên sự đánh giá lợi nhuận. Điều này không có nghĩa là chủ sở hữu phải nhận được tất cả mọi khoản lợi nhuận mà người vi phạm thu được từ sản phẩm vi phạm, tuy nhiên việc đánh giá các khoản lợi có thể rất sát với khoản lợi nhuận thực tế đã thu được. Ngoài ra, mức bồi thường thiệt hại có thể được đánh giá bằng việc xem xét khoản thù lao do các bên nhận li-xăng trả. Trong trường hợp này, toà án có thể quyết định rằng thiệt hại không thể ít hơn mức thù lao thu được tính theo đầu sản phẩm và, vì đó là thiệt hại mà không phải là thù lao thì chắc chắn mức bồi thường thiệt hại sẽ phải được ấn định ở mức cao hơn.

2.121 Theo luật pháp một số quốc gia, người vi phạm không có nghĩa vụ bồi thường thiệt hại nếu anh ta chứng minh được rằng vào ngày xảy ra hành vi đó anh ta đã không biết được và cũng không có cơ sở hợp lý nào để cho rằng có tồn tại bằng độc quyền sáng chế đó.

2.122 Lệnh của toà án là một quyết định cấm hành vi vi phạm. Trong trường hợp như vậy toà án sẽ ban hành một lệnh cấm yêu cầu người vi phạm chấm dứt các vi phạm đối với sáng chế đã được cấp bằng độc quyền sáng chế. Khi bản thân hành vi vi phạm có thể chưa xảy ra nhưng việc chuẩn bị đã được một bên thứ ba tiến hành nhằm thực hiện hành vi vi phạm (“hành vi vi phạm đang sắp xảy ra”) thì lệnh cấm đó của toà án nghĩa là việc vi phạm có thể chưa bắt đầu.

2.123 Các biện pháp hình sự tuỳ thuộc vào cơ cấu của luật hình sự và thủ tục tố tụng hiện hành tại từng quốc gia. Những chế tài hình sự thông thường là phạt tù hoặc phạt tiền, hoặc cả hai.



Khai thác Sáng chế đã được cấp bằng độc quyền sáng chế

Bán sáng chế

2.124 Ngoài việc đánh giá chính bản thân sản phẩm, tác giả sáng chế còn phải tìm hiểu liệu có một thị trường thích hợp với sản phẩm thu được từ sáng chế của mình không.

2.125 Ai sẽ mua sản phẩm? Cần bao nhiêu người để tạo ra thị trường tiềm năng? Đây là một con số khó đánh giá nhưng lại là một trong những chìa khóa cho sự sống còn của sản phẩm. Các thống kê về dân cư địa phương và phân chia thị trường tiềm năng do các cơ quan có liên quan thuộc chính phủ công bố, cũng như số liệu điều tra của các công ty tư nhân, có thể cung cấp cơ sở cho việc nghiên cứu khu vực thị trường mục tiêu theo nhóm tuổi, tình trạng hôn nhân…

2.126 Đối với một số công nghệ phức tạp hơn, các trung tâm nghiên cứu, các tập đoàn đa quốc gia, v.v... đang tỏ ra quan tâm ngày càng nhiều tới việc theo đuổi công nghệ chưa triển khai hoặc triển khai một phần để hoàn tất nó và do vậy hưởng lợi được từ hoạt động nghiên cứu và đảm bảo việc dẫn trước các đối thủ cạnh tranh.

2.127 “Thử nghiệm thị trường” là một giai đoạn mà rất nhiều công ty lớn thực hiện trước khi bắt đầu việc sản xuất hàng loạt. Họ giới thiệu sản phẩm với số lượng hạn chế người được coi là tiêu biểu trong phân khúc thị trường tiềm năng của họ. Các doanh nghiệp nhỏ cũng nên xem xét cân nhắc sử dụng kỹ thuật này trước khi tiêu tốn thời gian và tiền bạc tung ra một sản phẩm để rồi cuối cùng không bán được.

2.128 Về cơ bản, có hai phương pháp mà tác giả sáng chế có thể sử dụng để đưa ý tưởng của mình vào sản xuất. Anh ta có thể bán hoặc cấp li-xăng ý tưởng về sản phẩm của mình cho một công ty có thiết bị để sản xuất sản phẩm đó. Hoặc thay vào đó, chính anh ta cũng có thể trở thành nhà sản xuất, có thể lập một nhà máy hoặc ký hợp đồng giao thầu khoán việc sản xuất sản phẩm cho một phân xưởng nếu có thể.

2.129 Một số công ty có khi thờ ơ với các ý tưởng sản phẩm mới. Các công ty này thường bị tràn ngập bởi những ý tưởng không mời từ công chúng, rất ít ý tưởng trong số đó tỏ ra đáng được lưu tâm. Các công ty lớn hơn thông thường có những phòng nghiên cứu và triển khai được đầu tư những khoản tiền lớn. Tất nhiên, các nhà quản lý sẽ thiên vị nghiên cứu những phát triển nội bộ. Các công ty khác lại e ngại tác giả sáng chế có thể thưa kiện rằng các ý tưởng của họ đã bị đánh cắp, khi trên thực tế có thể công ty đó cũng đã đang nghiên cứu cùng một ý tưởng.

2.130 Các tập đoàn lớn thường công bố các chính sách và thủ tục của họ đối với những ý tưởng sản phẩm mới có nguồn gốc bên ngoài. Một số công ty có cả “bộ phận tiếp nhận ý tưởng”. Hầu hết các công ty đều muốn tác giả sáng chế chỉ gửi cho họ bản sao bằng độc quyền sáng chế của anh ta về ý tưởng mới. Hoặc, tác giả sáng chế có thể nộp bản sao đơn yêu cầu cấp bằng độc quyền sáng chế ngay sau khi nộp đơn.

2.131 Khi một ý tưởng đề xuất không có khả năng được cấp bằng độc quyền sáng chế được chấp nhận, tác giả sáng chế phải hiểu rõ về chính sách của công ty đối với các ý tưởng không mời trước khi gửi. Một số công ty dành quyền được tùy ý thanh toán cho các ý tưởng khi thấy chúng phù hợp.

2.132 Nếu việc đề xuất một ý tưởng đã được cấp bằng độc quyền sáng chế được chấp thuận, tác giả sáng chế có thể lựa chọn hoặc bán bằng độc quyền sáng chế của mình để có được một khoản tiền thanh toán gọn một lần, hoặc ký kết hợp đồng li-xăng với công ty.



Каталог: images -> 2007
2007 -> Hồ sơ ngành hàng rau quả
2007 -> Căn cứ Pháp lệnh Cán bộ, công chức ngày 26 tháng 02 năm 1998
2007 -> Viện Chính sách và Chiến lược Phát triển Nông nghiệp Nông thôn Trung tâm Tư vấn Chính sách Nông nghiệp
2007 -> QuyếT ĐỊnh số 46/2007/QĐ-bnn, ngày 28 tháng 5 năm 2007 Ban hành Quy định về việc xác định rừng trồng, rừng khoanh nuôi thành rừng
2007 -> Trung tâm phát triển nông thôN
2007 -> Viện Chính sách và Chiến lược Phát triển Nông nghiệp Nông thôn Trung tâm Tư vấn Chính sách Nông nghiệp
2007 -> §å hép rau qu¶ Ph­¬ng ph¸p x¸c ®Þnh hµm l­îng vitamin c (axit ascobic) tcvn 4715 89
2007 -> Tiªu chuÈn ViÖt nam §å hép rau qu¶ Ph­¬ng ph¸p thö tcvn 4712-89
2007 -> Iso 9000: 2000 Thuật ngữ và định nghĩa hệ thống quản lý chất lượng Thuật ngữ liên quan đến chất lượng

tải về 1.27 Mb.

Chia sẻ với bạn bè của bạn:
1   2   3   4   5   6   7   8   9   ...   33




Cơ sở dữ liệu được bảo vệ bởi bản quyền ©hocday.com 2024
được sử dụng cho việc quản lý

    Quê hương