Chương 2 CÁc lĩnh vực bảo hộ SỞ HỮu trí tuệ


Xét nghiệm đơn yêu cầu cấp Bằng độc quyền sáng chế



tải về 1.27 Mb.
trang3/33
Chuyển đổi dữ liệu30.08.2016
Kích1.27 Mb.
#28841
1   2   3   4   5   6   7   8   9   ...   33

Xét nghiệm đơn yêu cầu cấp Bằng độc quyền sáng chế

Xét nghiệm hình thức, ngày nộp đơn và ngày ưu tiên


2.57 Tới đây, cần xem xét quá trình xét nghiệm đơn yêu cầu cấp bằng độc quyền sáng chế tại Cơ quan Sáng chế. Có ba quá trình hoạt động chính cần được đề cập tới, đó là:

  • xét nghiệm hình thức ;

  • tra cứu; và

  • xét nghiệm nội dung.

2.58 Trong mỗi lĩnh vực hoạt động trên, thủ tục thông thường là tiến hành trao đổi, chủ yếu là dưới dạng văn bản, giữa một xét nghiệm viên của Cơ quan Sáng chế và người nộp đơn. Người đại diện sở hữu công nghiệp đóng vai trò người trung gian nhận thông tin từ Cơ quan Sáng chế, tư vấn cho người nộp đơn thủ tục thích hợp cho từng giai đoạn, nhận các chỉ dẫn của người nộp đơn, và phúc đáp các thông báo của Cơ quan Sáng chế.

2.59 Trước khi xét nghiệm hình thức, đơn yêu cầu được kiểm tra để đảm bảo đáp ứng mọi yêu cầu cần thiết đối với ngày nộp đơn. Đây là bước kiểm tra cơ bản vì nếu ngày nộp đơn không được thiết lập, đơn yêu cầu sẽ bị coi như chưa được nộp, và sẽ không được xử lý tiếp nữa. Ngày nộp đơn là quan trọng trong toàn bộ quy trình thủ tục vì đó là ngày để căn cứ làm mốc từ ngày đó mà xác định các bước thủ tục khác, như thời hạn bảo hộ của bằng độc quyền sáng chế, và khi cần, xác định ngày ưu tiên của đơn yêu cầu bảo hộ kế tiếp tại quốc gia khác theo quy định của Công ước Paris về Bảo hộ Sở hữu công nghiệp. Ngày nộp đơn (hay ngày ưu tiên) cũng được dùng làm căn cứ để đánh giá tính mới và trình độ sáng tạo.

2.60 Quyền ưu tiên có thể dựa trên đơn yêu cầu c ấp bằng độc quyền sáng chế đã nộp tại quốc gia, khu vực hay quốc tế trong vòng 12 tháng trước đó. Hiệu lực của quyền này là để thay thế ngày nộp đơn từ trước cho ngày nộp đơn sau đó tại một quốc gia nhất định và điều này đặc biệt quan trọng khi dùng nó để xác định tình trạng kỹ thuật dùng để đánh giá tính mới và trình độ sáng tạo so với tình trạng kỹ thuật đã biết.

2.61 Quyền ưu tiên có thể có được tại tất cả các nước là thành viên của Công ước Paris hoặc là thành viên của Hiệp định TRIPS. Tất nhiên cần lưu ý rằng, theo luật pháp quốc gia của một số nước, quyền ưu tiên được cấp trên cơ sở có đi có lại giữa các quốc gia không phải là thành viên của Công ước Paris.

2.62 Quyền ưu tiên đem lại rất nhiều thuận lợi về mặt thực tiễn đối với người nộp đơn muốn hưởng bảo hộ tại một hay nhiều nước. Người nộp đơn không buộc phải nộp đơn tại quốc gia mình và tại các nước khác vào cùng một thời điểm, vì người nộp đơn có tới 12 tháng để quyết định xem mình muốn hưởng sự bảo hộ tại quốc gia nào. Người nộp đơn có thể sử dụng thời hạn đó để sắp xếp, một cách thích đáng, các bước cần tiến hành để đảm bảo sự bảo hộ tại các quốc gia khác nhau vì quyền lợi của bản thân.

2.63 Xét nghiệm hình thức thường được tiến hành ngay khi đơn đã được công nhận ngày nộp đơn. Về cơ bản, việc này bao gồm xem xét các điểm sau: việc đại diện của một đại diện sở hữu công nghiệp, nếu có, nội dung đơn yêu cầu, thông tin trình bày về tác giả sáng chế, các yêu cầu có tính hình thức đối với bản mô tả, các yêu cầu bảo hộ và bản vẽ, và kèm theo một bản tóm tắt. Người nộp đơn có một cơ hội để sửa chữa bất kỳ sai sót bảo hộ nào trong giai đoạn xét nghiệm hình thức, và nếu những sai sót đó không được sửa chữa trong một thời hạn nhất định, Cơ quan Sáng chế sẽ từ chối đơn yêu cầu bảo hộ.


Tra cứu


2.64 Tuỳ thuộc vào thủ tục xét nghiệm quy định trong từng hệ thống luật pháp, việc tra cứu có thể tiến hành theo thủ tục riêng và từ trước, hoặc đồng thời với xét nghiệm nội dung. Trong mỗi trường hợp, mục tiêu của việc tra cứu là nhằm xác định tình trạng kỹ thuật đã biết thuộc lĩnh vực cụ thể liên quan đến sáng chế. Khi tiến hành việc tra cứu Cơ quan Sáng chế tìm trong bộ sưu tập tài liệu của mình để xác định xem có tài liệu nào mô tả về giải pháp giống hoặc tương tự như giải pháp đã được mô tả trong đơn yêu cầu.

2.65 Nếu việc tra cứu được tiến hành theo thủ tục riêng so với xét nghiệm nội dung, một báo cáo kết quả tra cứu sẽ được gửi cho người nộp đơn, trong đó nêu:



  • danh mục tài liệu tìm thấy trong khi tra cứu, mà bộc lộ đối tượng giống hoặc tương tự với sáng chế; và

  • những yêu cầu bảo hộ trong đơn cần phải so sánh với tài liệu đối chiếu cụ thể nào.

2.66 Bản báo cáo kết quả tra cứu cũng có thể đưa ra thông tin về phạm vi tra cứu, đó là các loại tài liệu có thể đã được tra cứu, đối với tài liệu thuộc giai đoạn nào, và các lĩnh vực công nghệ cụ thể đã tra cứu.

2.67 Tra cứu về bản chất chính là tra cứu tài liệu trong bộ sưu tập các tài liệu sáng chế đã được sắp xếp trước đó vì mục đích tra cứu theo từng lĩnh vực công nghệ cụ thể. Những tài liệu sáng chế có thể được bổ sung bằng các bài báo trong các tạp chí kỹ thuật và các tài liệu khác được gọi là tài liệu phi sáng chế (non-patent). Tập hợp các tài liệu này thường được gọi là “hồ sơ tra cứu”.

2.68 Cơ quan Sáng chế chỉ có thể tiến hành tra cứu các tài liệu trong hồ sơ tra cứu. Ngoài ra cũng có thể thực hiện tra cứu những dữ liệu thương mại qua máy tính có nối mạng, cũng như trên Internet. Việc tra cứu không mở rộng ra ngoài các xuất bản phẩm, ấn phẩm đã được công bố và, kể cả, cũng không xác định xem liệu có việc bộc lộ qua sử dụng công khai hay không. Dạng bộc lộ này, nếu có, sẽ chỉ được xem xét trong giai đoạn xét nghiệm nội dung nếu việc sử dụng đó do bất kỳ một bên thứ ba nào thông báo với Cơ quan Sáng chế.

2.69 Việc tra cứu trước tiên bao hàm tất cả các lĩnh vực công nghệ trực tiếp liên quan, sau đó có thể mở rộng sang các lĩnh vực tương tự, nhưng việc cần phải tra cứu mở rộng như vậy phải do xét nghiệm viên đánh giá xác định cho từng trường hợp riêng, có tính đến kết quả của việc tra cứu trong lĩnh vực công nghệ liên quan trực tiếp. Cần phải nhận thức rõ rằng mặc dù tính đầy đủ là điều lý tưởng cho việc tra cứu, song điều đó có thể không nhất thiết đạt được bởi vì những lý do bất khả kháng như sự thiếu hoàn hảo của bất kỳ hệ thống phân loại và tìm kiếm thông tin nào, và sẽ bất hợp lý về mặt kinh tế khi chi phí bị hạn chế trong những phạm vi bó buộc.


Xét nghiệm nội dung


2.70 Mục đích của thủ tục xét nghiệm nội dung là để đảm bảo rằng đơn yêu cầu bảo hộ đáp ứng những điều kiện nhất định để được cấp bằng độc quyền sáng chế. Về thực chất, việc này nhằm ngăn chặn không cấp bằng độc quyền sáng chế khi:

  • sáng chế không thuộc đối tượng bảo hộ sáng chế theo một số quy định pháp luật cụ thể;

  • sáng chế đó không mới, không mang tính sáng tạo và/hoặc không có khả năng áp dụng công nghiệp; hoặc

  • sáng chế đó không được bộc lộ đầy đủ trong hồ sơ đơn đã nộp một cách rõ ràng và đầy đủ.

2.71 Cũng như xét nghiệm hình thức, người nộp đơn có cơ hội bác bỏ bất kỳ ý kiến phản đối nào được đưa ra trong giai đoạn xét nghiệm nội dung, và nếu người nộp đơn không thực hiện việc đó trong thời hạn quy định, Cơ quan Sáng chế sẽ từ chối cấp bằng độc quyền sáng chế.

2.72 Vì lợi ích của cả người nộp đơn và công chúng, có quy định về cơ hội sửa đổi đơn. Không chỉ những thiếu sót được khắc phục để đảm bảo cấp một bằng độc quyền sáng chế chất lượng hơn mà kể cả những sửa đổi nhằm làm sáng tỏ việc bộc lộ sẽ đưa ra một bản mô tả sáng chế tốt hơn và một định nghĩa chính xác hơn về phạm vi bảo hộ.

2.73 Tuy nhiên không phải mọi sửa đổi đều được phép. Theo nguyên tắc chung, một sửa đổi không hợp lệ nếu nó nằm ngoài phần bộc lộ gốc trong đơn.

2.74 Cần lưu ý rằng vì mục đích của bất cứ luật sáng chế nào đều nhằm bảo hộ các sáng chế, do vậy Cơ quan Sáng chế chỉ từ chối cấp bằng độc quyền sáng chế nếu kết quả xét nghiệm rõ ràng loại bỏ khả năng cấp bằng. Nhìn chung, mọi thắc mắc được giải quyết theo hướng đảm bảo quyền lợi cho người nộp đơn, bởi sự phán xử cuối cùng về có giá trị hiệu lực hoặc các vấn đề khác của một bằng độc quyền sáng chế thường do toà án quyết định.


Cấp và công bố


2.75 Nếu và khi quá trình xét nghiệm đã đi tới một kết luận có lợi cho người nộp đơn, nghĩa là mọi yêu cầu đòi hỏi về hình thức và nội dung đã được đáp ứng, và giả định rằng không có sự phản đối nào hoặc đã có phản đối song không thành, Cơ quan Sáng chế sẽ cấp bằng độc quyền sáng chế cho đơn yêu cầu bảo hộ. Cơ quan Sáng chế sẽ tiến hành một số thủ tục nhất định.

2.76 Thứ nhất, khi cấp một bằng độc quyền sáng chế, các chi tiết của bằng độc quyền sáng chế đó được ghi vào Sổ Đăng bạ Bằng độc quyền sáng chế. Sổ Đăng bạ Bằng độc quyền sáng chế thường lưu giữ các dữ liệu thư mục như số bằng độc quyền sáng chế, tên và địa chỉ của người nộp đơn/người được cấp bằng độc quyền sáng chế, tên tác giả sáng chế, số đơn gốc, ngày nộp đơn, chi tiết về đơn ưu tiên và tên của sáng chế. Tuy nhiên, trong đó không có thông tin kỹ thuật.

2.77 Ngoài ra, tại một số nước có quy định việc nộp lệ phí hàng năm để duy trì hiệu lực của bằng độc quyền sáng chế, sổ Đăng bạ sẽ lưu giữ các chi tiết về thời điểm thanh toán lệ phí, và cũng có thể liệt kê chi tiết về các hợp đồng li-xăng hay chuyển nhượng có thể đã được ghi nhận.

2.78 Do vậy, sổ Đăng bạ có thể rất hữu ích đối với các bên thứ ba, đặc biệt là các đối thủ cạnh tranh với người được cấp bằng độc quyền sáng chế, bởi nó bộc lộ tình trạng thực tế của bằng độc quyền sáng chế đó. Tại một số quốc gia, toà án còn chấp nhận bản sao có xác nhận của một trích lục từ sổ Đăng bạ như bằng chứng xác thực về tình trạng của bằng độc quyền sáng chế.

2.79 Thứ hai, Cơ quan Sáng chế còn công bố trên Công báo việc cấp bằng độc quyền sáng chế với các thông tin thư mục theo luật định. Thông tin do Công báo đưa ra có thể gồm bản tóm tắt hay yêu cầu bảo hộ chính, hoặc nếu có hình vẽ thì thường là hình minh hoạ.

2.80 Thứ ba, một Văn bằng bảo hộ được cấp cho người nộp đơn, đây là một tài liệu pháp lý xác lập quyền sở hữu của người đó đối với bằng độc quyền sáng chế. Cơ quan Sáng chế có thể cấp bản sao của một bằng độc quyền sáng chế vào cùng thời điểm đó.

2.81 Cuối cùng, Cơ quan Sáng chế còn tự công bố các tài liệu sáng chế dưới dạng bản in. Bản sao của mỗi tài liệu sáng chế được Cơ quan Sáng chế đưa ra sử dụng tại thư viện về sáng chế, v.v... như một nguồn thông tin kỹ thuật, và cung cấp cho bên thứ ba với điều kiện thanh toán một khoản phí. Phần lớn Cơ quan Sáng chế cũng công bố đơn sau 18 tháng tính từ ngày ưu tiên hoặc ngày nộp đơn.

2.82 Như đã đề cập ở trên, để duy trì hiệu lực của bằng độc quyền sáng chế, hàng năm, theo thời hạn quy định trong bằng độc quyền sáng chế, phải thanh toán cho Cơ quan Sáng chế một khoản lệ phí gia hạn hay phí duy trì. Tại một số quốc gia, có tồn tại hệ thống xét nghiệm hoãn theo yêu cầu, khoản phí duy trì vẫn phải nộp trước khi được cấp bằng độc quyền sáng chế. Tại các quốc gia khác, lệ phí duy trì hiệu lực không buộc phải nộp hàng năm, nhưng có thể được thanh toán theo giai đoạn hiệu lực ví dụ như từ 3 tới 5 năm một lần. Chỉ có một số ít quốc gia không yêu cầu nộp khoản lệ phí duy trì hiệu lực.



Каталог: images -> 2007
2007 -> Hồ sơ ngành hàng rau quả
2007 -> Căn cứ Pháp lệnh Cán bộ, công chức ngày 26 tháng 02 năm 1998
2007 -> Viện Chính sách và Chiến lược Phát triển Nông nghiệp Nông thôn Trung tâm Tư vấn Chính sách Nông nghiệp
2007 -> QuyếT ĐỊnh số 46/2007/QĐ-bnn, ngày 28 tháng 5 năm 2007 Ban hành Quy định về việc xác định rừng trồng, rừng khoanh nuôi thành rừng
2007 -> Trung tâm phát triển nông thôN
2007 -> Viện Chính sách và Chiến lược Phát triển Nông nghiệp Nông thôn Trung tâm Tư vấn Chính sách Nông nghiệp
2007 -> §å hép rau qu¶ Ph­¬ng ph¸p x¸c ®Þnh hµm l­îng vitamin c (axit ascobic) tcvn 4715 89
2007 -> Tiªu chuÈn ViÖt nam §å hép rau qu¶ Ph­¬ng ph¸p thö tcvn 4712-89
2007 -> Iso 9000: 2000 Thuật ngữ và định nghĩa hệ thống quản lý chất lượng Thuật ngữ liên quan đến chất lượng

tải về 1.27 Mb.

Chia sẻ với bạn bè của bạn:
1   2   3   4   5   6   7   8   9   ...   33




Cơ sở dữ liệu được bảo vệ bởi bản quyền ©hocday.com 2024
được sử dụng cho việc quản lý

    Quê hương