Các mẫu thức MẠc khải lm. Lê Công Đức



tải về 1.01 Mb.
trang13/15
Chuyển đổi dữ liệu05.08.2016
Kích1.01 Mb.
#13530
1   ...   7   8   9   10   11   12   13   14   15

Những Tương Phản Rõ Rệt

Những đối chiếu trên đây rõ ràng không trực tiếp cho thấy là các mẫu thức có tính bổ sung cho nhau hay là loại trừ nhau. Trong khi người ta có thể bị cám dỗ để chủ trương rằng những mẫu thức ấy hoàn toàn có thể cùng tồn tại với nhau, ít nhất là trong những khẳng định tích cực của nó, thì đàng khác, có những vấn đề mà những người thuộc các mẫu thức khác nhau thường đưa ra những câu trả lời đối lập nhau. Có thể đưa ra 5 ví dụ sau:

1/ Mạc khải có cho biết những dữ kiện có thực mà không có mạc khải thì người ta không thể biết? Những người theo hai mẫu thức đầu chủ trương rằng mạc khải gắn liền không thể tách rời với tri thức về những tuyên bố hay những hoạt động đặc biệt xuất phát từ cơ sở thần linh. Những người thuộc ba mẫu thức sau thì chung chung khẳng định rằng mạc khải không thông tin sự kiện. Họ cho rằng mạc khải và tri thức thế tục nằm trong những chiều kích khác nhau, và do đó không củng cố cũng chẳng đối kháng nhau.

2/ Mạc khải có trao cho người ta chứng cứ không thể sai lầm không? Câu trả lời dứt khoát rõ ràng của mẫu thức thứ nhất là có. Những mẫu thức khác thì không chuộng cái ý tưởng về những tuyên bố bất khả ngộ, nhưng mỗi mẫu thức theo cách của mình trình bày sự chắc chắn của mạc khải. Mẫu thức thứ hai hiểu rằng những sự can thiệp của Thiên Chúa trong lịch sử rõ ràng là điều có thể nhận hiểu được, mẫu thức thứ ba cho rằng kinh nghiệm về Thiên Chúa tự chứng nghiệm cho nó, mẫu thức thứ tư cho rằng Thánh Thần đem lại sự đảm bảo hoàn toàn cho Lời Thiên Chúa, còn theo mẫu thức thứ năm, Thánh Thần ươm trong người tín hữu một bản năng có tính chắn chắn để biện biệt chiều hướng trong đó những mục đích của Thiên Chúa đang thực hiện.

3/ Chân lý mạc khải có thể hướng dẫn lý trí không? Mẫu thức thứ nhất đưa ra một câu trả lời khẳng định – cụ thể là cho rằng các chứng cứ từ phép lạ và năng lực tiên tri làm chứng một cách ngoại tại về sự đáng tin của các sứ giả thần linh, và do đó gián tiếp xác minh sứ điệp trước lá chắn lý trí. Mẫu thức hai đưa ra hai câu trả lời khác nhau. Trong hình thức “lịch sử ơn cứu độ” của nó, mẫu thức này tránh khỏi khoa minh giáo và cậy dựa vào ân huệ đức tin thuần túy, đức tin vốn được xem là cao vượt trên nhưng không mâu thuẫn với lý trí. Pannenberg và trường phái của ông, đàng khác, chủ trương rằng trong khi có tính thiết yếu gián tiếp, mạc khải có thể hướng dẫn lý trí lịch sử. Mẫu thức ba phủ nhận rằng mạc khải – hiểu như một kinh nghiệm xuất thần – không thể được đạt đến bằng sự xoay xở của lý trí. Theo mẫu thức thứ tư, mạc khải hoàn toàn có tính nghịch lý, gây xì căng đan và bị dị ứng đối với lý trí tự nhiên. Về phần mình, những trạng sư của mẫu thức năm khẳng định một cách cá biệt hẳn rằng mạc khải được nhận hiểu bởi một lý trí đã được biến đổi hay đã “thuộc thần quyền.””

4/ Phải chăng mạc khải đã đạt đến trọn vẹn trong thời đại các Tông Đồ? Mẫu thức thứ nhất và thứ hai chủ trương rằng mạc khải đã đạt đến tột đỉnh với Đức Kitô và các Tông Đồ, và người ta không thể thêm gì vào kho tàng ấy ngoại trừ việc diễn dịch và minh giải nó. Theo mẫu thức ba, mọi thời đại đều ở gần Thiên Chúa mạc khải như nhau, Thiên Chúa thông truyền chính Ngài một cách mới mẻ cho mọi người tiếp nhận. Mẫu thức thứ tư nhìn biến cố mạc khải như đang xảy ra ở đây và bây giờ, nhưng sứ điệp Tin mừng thì được thấy là không thay đổi. Theo mẫu thức năm, mạc khải tiếp tục và thậm chí gia tăng khi thế giới tiến gần hơn đến sự hoàn tất chung cục của nó.

5/ Mạc khải có được ban cho bên ngoài các tôn giáo thuộc Thánh Kinh không? Về vấn đề này, mẫu thức thứ nhất và thứ hai chung chung là trả lời “không,” dù nhiều người thuộc hai mẫu thức ấy có đề cập đến một mạc khải “thông thường” hay “tự nhiên” có vai trò sửa soạn cho mạc khải “đặc biệt” hay “siêu nhiên” của Cựu và Tân Ước. Mẫu thức ba chủ trương rằng mọi dân tộc đều có khả năng tiếp cận mạc khải trên cùng một cơ sở như người Do Thái giáo và người Kitô giáo. Mẫu thức thứ tư phi bác cả cái ý niệm về mạc khải thông thờng hay tự nhiên, nhất mực rằng duy chỉ Đức Kitô là Lời mạc khải của Thiên Chúa. Còn mẫu thức năm chủ trương rằng mọi người đều được tác động bởi ơn mạc khải, vì Thiên Chúa làm việc khắp mọi nơi, trong những mức độ khác nhau, trong lịch sử thế giới.

Năm vấn đề nêu trên hẳn đã tạm đủ để minh họa sự khó khăn của việc đồng thời chấp nhận những mẫu thức khác nhau. Sự khó khăn sẽ rõ nét hơn nữa nếu người ta xem xét thêm một số vấn đề như: Phải chăng mạc khải rõ ràng (mẫu thức 1, 2, 3), nghịch lý (mẫu thức 4) hay mập mờ (mẫu thức 5)? Mạc khải trực tiếp (mẫu thức 1 và 3) hay gián tiếp (mẫu thức 2, 4 và 5). Mạc khải được chuyển thẳng (mẫu thức 3) hay được chuyển qua trung gian (các mẫu thức khác – tuy nhiên, các mẫu thức này lại khác nhau về quá trình trung chuyển)?



Giá Trị và Vô Giá Trị

Bảy tiêu chuẩn trình bày ở chương I gợi sự chú ý của người ta đến các giá trị tích cực được tìm thấy trong bất cứ thần học mạc khải nào. Một số giá trị này được tìm thấy nổi bật đặc biệt trong mẫu thức này hoặc mẫu thức khác. Chẳng hạn:

Mẫu thức thứ nhất bảo vệ ý nghĩa và thẩm quyền của mạc khải. Mạc khải được thấy là nơi cung cấp  những giải đáp chắc chắn, rõ ràng cho những vấn đề sâu xa và thường hằng liên hệ đến Thiên Chúa, con người và vũ trụ – và vì thế mạc khải cung ứng sự hướng dẫn chắc chắn cho người ta giữa những rối rắm của cuộc sống.

Mẫu thức hai tỏ ra xuất sắc trong việc bênh vực duy thực tính của mạc khải. Không thỏa mãn với một dạng thức duy chỉ có tính ngôn ngữ hay nội thuộc về mạc khải, mẫu thức này nhìn thấy những bày tỏ của tình yêu và quyền năng Thiên Chúa trong những hành động lịch sử như biến cố xuất hành – và nhất là với các Kitô hữu thì đó là biến cố Đức Giêsu Kitô. Trong những biến cố như vậy, phong phú hơn tất cả những gì trình bày về chúng, Thiên Chúa bằng cách thực hiện những dấu hiệu đã gợi ra cho thấy ý muốn và những dự phóng của Ngài.

Mẫu thức ba có giá trị ở chỗ xác quyết về tính cách trực tiếp của mạc khải và xác quyết sự thực rằng nội dung đích thực của mạc khải là chính Thiên Chúa đúng hơn là bất cứ lời lẽ hay ý niệm nào về Ngài. Mẫu thức này bảo chúng ta rằng mạc khải không bao giờ có thể đơn giản chỉ là một tường thuật về những gì đã được nghe và trông thấy; mạc khải phải chứa đựng yếu tố trực tiếp giữa người tin và Thiên Chúa.

Mẫu thức thứ tư nhắc nhở người ta về khoảng cách vô cùng giữa Thiên Chúa và những thụ tạo tội lỗi như bản thân chúng ta. Mẫu thức này thúc đẩy lòng tôn kính và biết ơn sâu xa đối với Thiên Chúa Đấng tha thứ khi xét xử chúng ta. Trong khi can ngăn chúng ta đừng cố gắng kiểu Prométhé để đoạt lấy từ Thiên Chúa những điều bí nhiệm của Ngài, mẫu thức này khuyến khích chúng ta khiêm tốn trông cậy vào Lời quyền năng và cứu chuộc của Thiên Chúa.

Mẫu thức năm nhấn mạnh đến ý nghĩa của mạc khải đối với công cuộc của con người. Mẫu thức này thúc đẩy người ta dấn thân cho hoà bình, công lý và cho tất cả những gì có thể làm cho con người tham dự đầy đủ hơn vào ân sủng Nước Thiên Chúa.

Tương ứng với những ưu điểm này, có những khuyết điểm đặc thù trong mỗi mẫu thức xét riêng. Mẫu thức thứ nhất xét đoán ý nghĩa một cách quá hẹp hòi chỉ như một giáo huấn xác định rõ ràng. Ý nghĩa đó quá độc đoán và ngoại thuộc, vì nó không bảo đảm rằng nội dung của mạc khải hướng đến nhu cầu hay khát vọng của con người – hoặc nó cũng không bảo đảm rằng nó phù hợp với trật tự của thực tại như người ta nghiệm thấy thường tình.

Mẫu thức thứ hai làm bật lên lồ lộ vấn nạn rằng làm thế nào tri thức lịch sử – gắn liền với những hiện tượng ngẫu nhiên – có thể khám phá ra sự hiện diện của thần linh? Nó thường không lưu ý mấy tới những dữ kiện giữ vai trò  kiểm soát sự chọn lọc và chú giải những biến cố quá khứ nơi các tác giả Thánh Kinh hay nơi Giáo Hội.

Mẫu thức thứ ba nêu lên, và có lẽ không giải quyết nổi,vấn đề rằng ý thức con người có thể trực tiếp nắm hiểu Thiên Chúa là Đấng siêu việt và phi khách quan hay không. Nếu như có thể nắm hiểu như thế thì dường như việc nắm hiểu đó không thể truyền đạt được và do đó không thể chấp nhận Giáo Hội hay giáo huấn của Giáo Hội.

Trong mẫu thức thứ tư, sự tập trung gần như độc tôn vào mặt phủ định của biện chứng làm nổi lên một vấn đề nghiêm trọng liên quan đến tính nhất quán. Làm thế nào sự đụng độ của những tuyên bố mâu thuẫn nhau lại có thể xảy ra trong một sứ điệp khả niệm và khả tín?

Mẫu thức năm dường như đặc biệt bị đương đầu với thuyết tương đối. Mẫu thức này không giải thích được làm sao một sự đột biến xảy ra tại một điểm nhất định nào đó trong cuộc tiến hóa của ý thức lại có thể giữ được sự vững chắc của nó cho những thời gian và nơi chốn khác.

Làm thế nào mạc khải trở nên yếu tố thiết định cho một cộng đoàn thường hằng, xuyên văn hóa, gắn chặt với các sách Thánh Kinh và các tín điều xác định?

Tham chiếu đặc biệt hơn tới bảy tiêu chuẩn trên kia; bây giờ chúng ta có thể nhìn thấy rằng các mẫu thức khác nhau có những điểm mạnh và điểm yếu khác nhau. Xét theo sự trung thành với Thánh Kinh (tiêu chuẩn 1a), các mẫu thức 1,2 và 4 được thấy xem ra trội hơn mẫu thức 3 và 5. Xét về tính trung thành với truyền thống (tiêu chuẩn 1b), mẫu thức 1 và 4 khá hơn mẫu thức 3 và 5, hoặc có lẽ cả mẫu thức 2), ba mẫu thức đầu xem ra dễ được chấp nhận hơn mẫu thức 4 và 5. Xét theo tính phù hợp (tiêu chuẩn 3), mẫu thức 2, 3 và 5 có vẻ ưu việt hơn mẫu thức 1 và 4. Xét theo hiệu quả thực tiễn (tiêu chuẩn 5), thì phải phân biệt một số điểm: Mẫu thức thứ nhất đặc biệt phục vụ đắc lực cho Giáo Hội xét như cơ chế, mẫu thức 3 cho đời sống tâm linh cá nhân, và mẫu thức 5 cho sự tiến bộ chung của xã hội loài người. Xét theo kết quả về mặt lý thuyết tức tiêu chuẩn 5 – thì mẫu thức 1,2 và 4 cho thấy có khả năng tiếp nhận những trường phái thần học quan trọng trong khi những mẫu thức khác, như mẫu thức 3, thì tương đối ít gần gũi với lý thuyết hơn. Theo tiêu chuẩn cuối cùng – tiêu chuẩn giá trị đối thoại – mẫu thức 3 và 5 dường như mạnh thế hơn các mẫu thức 1,2 và 4.



Những Lựa Chọn Thần Học

Nếu chúng ta không thể chối cãi rằng ít nhất có một số điểm khác biệt không hòa hợp được giữa các mẫu thức khác nhau thì rõ ràng không thể chấp nhận tất cả các mẫu thức một cách lôgic được. Vì thế, do những mục đích thực tiễn, nhà thần học phải đứng trước chỉ bốn khả năng chọn lựa: thứ nhất, chấp nhận một lý thuyết, khước từ tất cả những lý thuyết khác; thứ hai, theo những mẫu thức khác nhau trong khi liên hệ đến những vấn đề khác nhau; thứ ba, kết hợp hoặc dung hòa các mẫu thức, điều hợp những khác biệt sao cho các xung khắc được loại bỏ; và thứ tư, xây dựng một mẫu thức mới khác với năm mẫu thức đã nghiên cứu trên.



a) Chọn một mẫu thức

Sự lựa chọn thứ nhất này là một khả năng rõ ràng. Mỗi trong năm mẫu thức tiêu biểu cho các quan điểm riêng biệt của nhiều nhà thần học mà tài năng của họ không còn ai ngờ vực nữa. Nhiều thần học gia thời nay nghiêng hẳn về một trong năm mẫu thức, mặc dù có một số khác kết hợp quan điểm của hai hay nhiều mẫu thức. Chọn một trong năm mẫu thức là chấp nhận một thái độ rõ ràng và không có gì lạ lẫm.

Trong việc quyết định chọn một mẫu thức nào đó, người ta sẽ đương nhiên bị ảnh hưởng bởi một số “yếu tố phi thần học.” Một cá nhân sẽ tiếp cận vấn đề mạc khải với một mớ định kiến vốn sẵn tạo thành bởi tính khí, bởi sự nuôi dưỡng, giáo dục, những tiếp xúc xã hội và những kinh nghiệm. Tất cả những yếu tố ấy có thể làm sắc bén sự nhận hiểu của người ta nhưng cũng có thể làm lung lạc họ. Suy tư thần học sẽ không chủ yếu giúp người ta loại bỏ những định kiến này, nhưng nó sẽ hướng dẫn để họ có được một chọn lựa thích đáng hơn – sự chọn lựa này thường sẽ thay đổi những lập trường trước đây của người ta trong khi phần nào tái khẳng định chúng.

Với những điểm mạnh và điểm yếu như được thấy trong cả năm mẫu thức, việc chọn lựa một mẫu thức và đào thải những mẫu thức còn lại thật chẳng dễ dàng chút nào. Những thế mạnh trong các mẫu thức bị bác bỏ và những điểm yếu trong mẫu thức được chọn để chấp nhận đều cùng gây trở ngại lớn cho giải pháp thứ nhất này.



b) Góp nhặt

Còn khả năng thứ hai – khả năng lựa lọc góp nhặt – thì sao? Dựa trên nguyên tắc rằng tất cả các mẫu thức đều có một số điểm mạnh nào đó, xem ra có vẻ đúng đắn việc dùng mẫu thức này cho vấn đề này, mẫu thức khác cho vấn đề khác. Tuy nhiên, cách làm như thế khó được thần học chấp nhận – bởi thần học cố đạt sự nhất quán và tính khả niệm. Mỗi mẫu thức thần học mạc khải tiêu biểu cho một “Gestalt” mặc nhiên ràng buộc những người theo nó với những câu trả lời chuyên biệt cho một khung toàn thể vấn đề. Ngược lại, bất cứ một lời giải đáp riêng biệt nào cho một vấn nạn đặt ra – chẳng hạn, vấn đề mạc khải được trao ban đầy đủ hay chưa đầy đủ trong biến cố Đức Kitô – cũng ràng buộc người ta vào một mẫu thức thần học mạc khải hậu thuẫn cho câu trả lời ấy. Một cách tiềm ẩn, câu trả lời ấy gắn kết người ta vào những câu trả lời tương ứng cho tất cả những vấn đề khác có thể được đặt ra. Như vậy, vấn đề về các mẫu thức hay tiêu thức không thể bị bỏ qua một cách dễ dãi được. Không có vấn đề thần học nào có thể được tiếp cận xét như một đơn vị riêng lẻ, không dính dáng đến những vấn đề khác. Tính nhất quán đòi buộc thần học gia phải tìm ra những lời giải đáp không chỉ đơn thuần cho từng vấn đề riêng rẽ, lần lượt, nhưng là cho “siêu vấn đề” về một phương thức bao quát đối với thần học mạc khải. Một phương thức thuần túy mang tính lựa lọc góp nhặt sẽ xem chừng hời hợt và không đáng tin cậy.



c) Dung hòa

Khả năng lựa chọn thứ ba là dung hòa 2, 3, 4 hoặc cả 5 mẫu thức. Có vẻ như một lý thuyết tương đối thích đáng hơn về mạc khải có thể được xây dựng bằng cách góp nhặt những cái tốt nhất trong mỗi mẫu thức. Tại sao chúng ta không thể kết hợp tính-cách-được-ban-cho của mạc khải, như mẫu thức 1 chủ trương, với tính thời sự của nó – như được nhấn mạnh trong mẫu thức 5? Tại sao không thể điều hợp tính trực tiếp của mạc khải như mẫu thức 3 trình bày – với khoảng cách vô cùng giữa Thiên Chúa và chúng ta – như được nêu bật trong mẫu thức 4? Bằng việc điều hợp những điểm dị biệt hẳn người ta có thể nhận ra rằng những giá trị của cả năm mẫu thức có thể được hỗn hợp lại.

Tuy nhiên, chúng ta đã thấy rằng những mẫu thức khác nhau đưa ra những câu trả lời rõ ràng tương phản nhau trước nhiều vấn đề căn bản. Vì người ta không thể đồng thời lại chủ trương những điều đối chọi nhau nên bất cứ sự dung hòa nào của các mẫu thức sẽ đòi phải vượt qua được những điểm yếu trong các mẫu thức như thường được hiểu, và do đó đòi hỏi phải sáng tạo một cái gì mới mẻ. Việc đúc kết nên một mối thống nhất có tính khả niệm từ hai hay nhiều mẫu thức đòi hỏi các mẫu thức phải được mẫu thức hóa bằng cách hỗn hợp chúng thành một phức hợp rộng lớn hơn. Như vậy chúng ta đã bước đến khả năng chọn lựa thứ tư.

d) Giới thiệu mẫu thức mới

Nếu việc giới thiệu cái mới là một điều không thể, thì thần học hệ thống sẽ không còn là một qui phạm có sức sống hoạt nữa. Tất cả những lý thuyết xưa nay về mạc khải, kể cả năm mẫu thức mà chúng ta vừa xem xét trên, đều nhờ người ta “tạo ra cái mới” mà có. Một vài lý thuyết cũng chỉ xuất hiện mới đây thôi. Những mẫu thức thứ 4 và 5, chẳng hạn, thực sự đã không tồn tại cho tới thế kỷ XX – ngoại trừ trong mầm mống. Lại nữa, việc giới thiệu mẫu thức mới còn cần thiết nếu chúng ta phải vượt qua những xung khắc giữa các mẫu thức đang tồn tại. Nhưng, một lần nữa, chúng ta phải lưu ý đến nguyên tắc làm việc rằng các quan điểm thần học của một số đông các Kitô hữu có năng lực tư duy không thể bị hời hợt bỏ qua. Lịch sử thần học dường như cho thấy rằng những điểm mới mẻ có tính sáng tạo thường nổi lên ở chỗ nào người ta đi sâu vào truyền thống. Những thần học gia xuất sắc bao giờ cũng ngưỡng mộ các bậc tiền bối của mình và tìm cách bảo quản những tri thức mà mình được thừa kế từ các vị ấy. Những bước nhảy cấp tiến và ly khai trong thần học thường không đem lại kết quả lâu bền. Thay đổi thì thay đổi, nhưng những mẫu thức mới xuất hiện nhẩn nha, và thường xuất hiện một cách gần như không hiểu được. Nếu không nại đến sự thúc đẩy của Thánh Thần hay tài năng của tâm trí con người, chúng ta có thể nhìn nhận rằng những mẫu thức mới về thần học mạc khải, nếu chúng khẳng định được, đều là những sự mẫu thức hóa các lý thuyết đang có sẵn.

Về vấn đề này người ta có thể trích dẫn công trình của H. Richard Niebuhr. Trong tác phẩm “Ý nghĩa của mạc khải” của ông, ông đã cố ý suy tư giữa một bên là chủ trương tự do của Ritschl và Troeltsch và một bên là thần học biện chứng của Barth. Bằng cách ấy ông đã nhào nặn ra một lý thuyết độc đáo về “confessional history” xét như là mạc khải. Trong khi tách biệt “lịch sử bên trong” (liên quan tới các giá trị) ra khỏi “lịch sử bên ngoài” (liên quan tới các sự  kiện), ông chủ trương rằng mạc khải xảy ra nơi lịch sử trước, vì những ký ức mà người ta chia sẻ cho nhau sẽ cung cấp cho họ những hình ảnh “nhờ đó tất cả những trạng huống của đời sống cá nhân cũng như cộng đồng đều trở thành khả niệm.”Đối với Niebuhr, mạc khải là một tiến trình bỏ ngỏ trong đó các tư tưởng của con người “được nắm bắt trong sự xào xáo của một sự chuyển đổi giá trị.” Kết quả cuối cùng của luận đề Niebuhr, bằng nhiều cách, đã mở đường cho cái mà chúng ta mô tả là mẫu thức “ý thức mới.””

Sự Tìm Kiếm Có Tính Biện Chứng

Điều xem ra cần yếu ở đây là loại tiến trình mà Bernard Lonergan đã diễn tả dưới tiêu đề “biện chứng.” Trong giai đoạn đầu tiên của nó, tương ứng gần gũi với nội dung của chương này, biện chứng pháp cố tìm cách nhận ra những xung khắc căn bản giữa các lối chú giải khác nhau, trong quá khứ và trong hiện tại. Sau đó, bằng cách tham chiếu một số tiêu chuẩn phê bình, nhà biện chứng cố đưa ra ánh sáng những giá trị tích cực (mà Lonergan gọi là positions) và những điểm vô giá trị (mà ông gọi là counterposstions) trong những lý thuyết đối lập nhau. Như vậy, biện chứng pháp vạch đường cho một đề nghị mới có thể “sublate” những lý thuyết trước đó. Tham chiếu đến tác phẩm “Những người nghe Lời Chúa” của Rahner, Lonergan bổ sung:



Tôi sẽ dùng ý niệm này (sublation) theo ý nghĩa của Rahner hơn là theo ý nghĩa của Hegel để chỉ rằng cái sublate vượt quá cái được sublate, giới thiệu một cái gì đó mới mẻ và khắc hẳn, đặt mọi sự trên một căn bản mới, tuy nhiên vẫn không gây trở ngại cho cái được sublate hay triệt phá nó, ngược lại cần nó, bao gồm nó, bảo quản tất cả những nét đúng đắn và những đặc sắc của nó, và đưa nó tiến tới một sự nhận thức đầy đủ hơn trong phạm vi một bối cảnh phong phú hơn.

Trong một sublation theo loại này, thật là không đủ nếu chỉ làm công việc so sánh tĩnh giữa những lý thuyết đang tồn tại. Một thần học gia thiếu sự am tường riêng của mình về mạc khải hẳn phải nhờ đến toàn bộ tư liệu của người khác và sẽ không đủ sức vượt quá chúng. Để ủng hộ, công kích hay vượt qua những lý thuyết đang có mặt, người ta cần có sự am hiểu độc lập của mình về những gì mà các lý thuyết ấy có ý khảo cứu. Bảy tiêu chuẩn mà chúng ta đã áp dụng chỉ là những dấu cho thấy trước sự thích nghi giữa một lý thuyết và chính mạc khải. Tiêu chuẩn cao vượt hơn cả, ở trên và ở đàng sau tất cả bảy tiêu chuẩn ấy là sự tương ứng với (cái gọi là) mạc khải ấy. Một lý thuyết về mạc khải sẽ khẳng định được và khả dĩ chấp nhận được là tùy theo mức độ nó đo lường được và phản ảnh được thực tại mạc khải.

Như đã đề cập đến ở những trang đầu chương này, thần học mạc khải không thể nào thành hình được trừ phi có một ý thức cố hữu nào đó về thực tại mạc khải được ban cho mọi người trong đức tin. Thần học, vì thế, sẽ đem lại kết quả khi nó trở về với nguồn gốc nguyên thủy của nó và -với sự giúp đỡ của các công trình mà những tư tưởng gia khác đã thực hiện – tìm cách vạch lại tiến trình theo đó mạc khải đi vào ý thức con người và tự bạch về chính nó. Một sublation của những mẫu thức đang có sẵn chỉ có thể có được từ một vị thế độc lập giúp người ta tiếp cận một cách cá nhân với chính thực tại mà các mẫu thức kia có ý nhắm đến.

Dù người ta có mong muốn gì đi nữa thì một vị thế độc lập như vậy sẽ chẳng có được nếu người ta dửng dưng với những trình bày của truyền thống Kitô giáo về mạc khải. Trái lại, mạc khải như đã được các Kitô hữu nhận hiểu không thể được người ta nắm hiểu nếu họ không tín nhiệm những chìa khóa chỉ dẫn về mạc khải Kitô giáo. Đối với Thánh Kinh, hay những tuyên bố truyền thống về đức tin, hay sự hiện hữu sống động hiện tại của Giáo Hội – để trở thành những kim chỉ nam cho người ta, người ta phải dấn mình trọn vẹn vào chúng và để cho chúng cung ứng những lăng kính giúp họ có thể nhận hiểu mạc khải của Thiên Chúa. Ở điểm này trong cuộc khảo sát của chúng ta, sẽ là hữu ích việc khảo cứu sâu hơn cái tiến trình mà những trung gian được lập ra như thế có thể vén mở sự thật về vị Thiên Chúa mạc khải.

Trong chương kế tiếp tôi sẽ trình bày rằng mạc khải được trao ban và được thông truyền bằng sự truyền đạt có tính biểu tượng. Tôi sẽ nêu quan điểm rằng biểu tượng là một phạm trù mênh mông bằng bạc trong mỗi mẫu thức thuộc năm mẫu thức nói trên – đôi khi sắc nét, đôi khi mờ nhạt. Tôi tin rằng ý niệm về sự truyền đạt có tính biểu tượng có thể rất có giá trị xét như là một công cụ biện chứng để đưa ra những điểm mạnh và vượt qua những điểu yếu trong các lý thuyết có tính tiêu thức mà chúng ta khảo sát từ đầu tới nay. Vì thế chương IX sẽ là một bản lề cho tất cả những gì sẽ nói sau đó trong tác phẩm này.

Một điều cần lưu ý trước ở đây. Tôi không có ý đề ra một mẫu thức thứ sáu, mẫu thức “biểu tượng,” để đương đầu với năm mẫu thức kia. Sự đa dạng của các mẫu thức có những lợi điểm mà người ta không thể có được nếu chỉ vận dụng một mẫu thức đơn độc nào đó. Năm mẫu thức mà ta đã phân tích đem lại một cái nhìn rộng thoáng đủ về những yếu tố bao gồm trong một thần học tương đối có giá trị về mạc khải. Tôi rin rằng bằng cách dựa vào ký hiệu biểu tượng xét như một công cụ biện chứng người ta có thể làm phong phú và điều chỉnh những mẫu thức đang có sẵn, và có thể đạt được một sự lai tạo đầy triển vọng.


Phần Hai

CHƯƠNG IX

THÔNG TRUYỀN BẰNG BIỂU HIỆU

Ý Nghĩa Của Biểu Hiệu

Các thi sĩ  đã từ lâu quen thuộc với việc nối kết giữa biểu hiệu và mạc khải. Samuel Taylor Coleridge đã khẳng định một cách rất đơn giản: “Chính bởi nhờ các biểu hiệu mà thôi mà chúng ta có thể đạt được tri thức về Thượng Đế.” William Butler Yeats thì dùng ý niệm mạc khải theo một ý nghĩa rộng rãi và tuyên bố: “Biểu hiệu quả là sự diễn tả duy nhất có khả năng diễn tả một yếu tính vô hình nào đó, một bóng đèn trong suốt cho thấy rõ ngọn lửa thiêng liêng; trong khi ngụ ngôn là một trong nhiều khả năng biểu hiện khác nhau về một điều được chất chứa hay một qui tắc thường tình, và thuộc về liên tưởng tự nhiên chứ không phải thuộc về sự tưởng tượng chủ động: một đàng là mạc khải, cái kia là trào lộng.””

Trong thần học thế kỷ XX ý niệm mạc khải hiểu như sự vén mở bằng biểu hiệu đã trở thành rất phổ biến. Cách hiểu này được thể hiện, với những sắc thái và sự đa dạng đáng chú ý, bởi những nhà tư tưởng kiệt xuất như Paul Tillich, H.R. Niebuhr, Karl Rahner, Paul Ricoeur, Langdon Gilkey, Ray Hart, John Macquarrie, Louis Dupré và Gregory Baum. Tôi sẽ cố gắng trình bày lý thuyết này theo cách của riêng mình chứ không bám víu vào nhận thức luận hay từ ngữ học đặc trưng của các tác giả khác.

Theo cách hiểu này, mạc khải không bao giờ xảy ra trong một kinh nghiệm nội tâm thuần túy hay trong một cuộc hội ngộ trực tiếp với Thiên Chúa. Mạc khải bao giờ cũng được thông truyền qua biểu hiệu – nghĩa là, qua một dấu hiệu được nắm bắt bên ngoài, nó làm việc một cách nhiệm mầu trên ý thức người ta để sao cho nó khơi gợi nhiều hơn những gì nó có thể mô tả hoặc định nghĩa một cách rõ ràng. Các biểu hiệu có tính mạc khải là những biểu hiệu trình bày và chuyển thông việc tự truyền đạt của Thiên Chúa.

Ý niệm về biểu hiệu ứng dụng trong lý thuyết này cần có một số giải thích rõ. Tôi sẽ nhất trí với nhiều tác giả hiện đại để chủ trương rằng biểu hiệu là một loại dấu hiệu đặc biệt phân biệt hẳn với một kim chỉ nam thuần túy (như cái bóng trên một mặt đồng hồ mặt trời) hay một mã hiệu qui ước (như một chữ hay một biểu đồ). Một biểu hiệu là một dấu hiệu cưu mang đầy đủ ý nghĩa, một dấu hiệu được gợi ra đúng hơn là được phát biểu một cách rõ ràng. Ricoeur sử dụng những ví dụ về sự ô uế, trong văn chương tôn giáo đó là một biểu hiệu cho những hậu quả của tội lỗi. Nhà phê bình văn chương Philip Wheelwright cũng trong sự nối kết này đã đề cập đến “những biểu hiệu tensive” – nghĩa là, những biểu hiệu “rút sự sống ra từ rất nhiều những liên kết có liên hệ hỗ tương với nhau một cách mật thiết và thường là một cách tiềm ẩn,” và qua đó có khả năng chắt lọc một tiềm năng sâu xa của năng lực ngữ nghĩa. Wheelwright đối lập những “biểu hiệu tensive” này với cái mà ông gọi là những biểu hiệu steno – tức cái mà thực tế các tác giả khác gọi là những dấu hiệu thuần túy. Đối với Wheelwright, những biểu hiệu steno có một sự đồng nhất chính xác trong qui chiếu, nhờ tính trừu tượng của chúng hay đơn giản chỉ là một sự đòi hỏi của con người. Khi đề cập đến các biểu hiệu trong những trang sau đây, tôi sẽ theo nghĩa từ ngữ thông thường hơn và căn cứ vào cái mà Wheelwright gọi là những biểu hiệu tensive.

Với cách hiểu nghĩa từ ngữ khác với Wheelwright, Michael Polanyi phân biệt giữa những chỉ nam và những biểu hiệu. Những dấu hiệu chỉ nam, theo quan điểm của ông, là những cái đóng vai trò thuần túy thứ yếu, chúng hướng dẫn chúng ta chú ý đến những đối tượng khác là mục tiêu để nhận hiểu mà chúng không được thâu nhận vào những đối tượng ấy. Chẳng hạn, khi chúng ta đọc một lá thư hiếm khi chúng ta lưu tâm đến chữ in hay thậm chí đến ngôn ngữ, bởi vì sự chú ý của chúng ta tập trung vào ý nghĩa. Những dấu hiệu chỉ nam thiếu sức lôi cuốn nội tại. Chúng ta diễn dịch chúng như những nhà quan sát thuần túy chứ không bị tác động sâu xa bởi chính các dấu hiệu đó.

Trong việc thông truyền bằng biểu hiệu, những chỉ dẫn thu hút sự chú ý về chính chúng. Chúng ta đi vào với chúng, và nếu chúng ta dấn mình cho năng lực của chúng thì chúng sẽ cuốn hút chúng ta, làm cho chúng ta có thể liên hội được các ấn tượng, ký ức và cảm xúc rộng rãi hơn là những dấu hiệu thuần túy chỉ nam có thể giúp chúng ta liên hội. Nhờ các biểu hiệu, chúng ta có thể đưa một số rất lớn những ký ức và kinh nghiệm rời rạc tản mác vào trong một loại tiêu điểm. Để làm ví dụ về sự truyền đạt bằng biểu hiệu, Polonyi đề cập đến những phản ứng của một người yêu nước khi đứng trước một lá quốc kỳ hay một bia mộ của một chiến sĩ trận vong.

Không có sự nhị phân rõ rệt nào có thể được rút ra giữa cái biểu hiệu và cái không biểu hiệu. Tất cả mọi việc nhận hiểu đều đòi hỏi chúng ta đi ra khỏi chính mình và dấn mình vào những cái tiểu tiết phụ thuộc để nắm được ý nghĩa hỗn hợp của chúng. Nhưng trong tri thức bằng biểu hiệu thì việc dấn mình đó được yêu cầu ở mức độ sâu xa hơn. Để đi vào trong thế giới ý nghĩa do biểu hiệu mở ra, chúng ta phải trao cả chính mình, chúng ta phải là những người trong cuộc gắn bó chứ không được là những kẻ quan sát bàng quan.

Về tất cả những gì được nói sau đây, cũng cần lưu ý để đừng đóng khung ý niệm về biểu hiệu trong chỉ lãnh vực văn chương. Những vật thể thiên nhiên, những con người lịch sử, những sản vật nhân tạo và những giấc mơ đều có thể là những biểu hiệu. Trong lãnh vực tôn giáo, thật là hữu ích việc phân biệt giữa những biểu hiệu thuộc về vũ trụ và tự nhiên (như mặt trời), những biểu hiệu con người và lịch sử (như Đavit và vương triều Đavit), và những biểu hiệu có tính nghệ thuật (như những đền thờ và những nghệ phẩm thánh). Như vậy những cách nói hình ảnh của văn chương Thánh Kinh chỉ là một loại trong các chủng loại biểu tượng tôn giáo.

Trong phạm vi chương này không thể nói hết về những quan hệ phức tạp giữa các biểu hiệu văn chương và những hình thức khác như loại suy, thần thoại, ẩn dụ, ngụ ngôn, dụ ngôn và nghi lễ. Tuy nhiên ta có thể có một vài xem xét. Một loại suy là một sự tương tự hay một sự tương đồng đối ứng giữa những cái khác nhau một cách căn bản, chẳng hạn sự sống trên cấp độ con người, động vật, cây cỏ (hoặc có thể nói sự sống trong một cái vỏ bánh xe). Những nét tương tự loại suy, được bắt rễ trong bản tính sự vật, thì tự chúng diễn dịch (về chúng). Những biểu hiệu, dù thường xuyên dựa trên cơ sở loại suy, có thể cần được giải thích nếu chúng rút ra không phải từ những tương đồng nội tại mà từ những liên hợp có tính lịch sử (chẳng hạn, Thánh giá là một biểu hiệu của sự cứu chuộc).

Theo nhiều tác giả, bất cứ câu biểu hiệu nào cũng là một ẩn dụ, theo nghĩa rằng nó chuyển sang cho một chủ thể điều vốn phù hợp với một chủ thể khác. Nếu tôi nói: “con người là một cây sậy biết suy nghĩ” hay “Napoleon là một con sói,” thì xét về văn phạm tôi đang tuyên bố một câu khẳng quyết. Tuy nhiên, ẩn dụ thì không thật sự là một khẳng quyết, bởi vì đặc tính hình tượng của bổ từ không cho phép dùng nó trong một luận cứ tam đoan luận.

Mối quan hệ giữa ẩn dụ và biểu hiệu thì có nhiều điểm để thảo luận hơn. Khi một ẩn dụ được dùng chỉ để minh họa điều mà ta vốn biết rồi – và không phải biết bằng lối biểu hiệu, thì ẩn dụ đó không đóng vai trò tầm cứu như một biểu hiệu. Đi xa hơn nữa, một số nhà phê bình văn chương như Wheelwright (quan điểm của ông này được Ricoeur nhất trí trong bản chất), đã chủ trương rằng mọi ẩn dụ sống động đều quá có tính riêng tư và chỉ nhứt thời nên không thể được gọi là một biểu hiệu – một hạn từ mà trong quan điểm của họ còn chỉ sự thâm thúy khách quan hơn và sự bắt rễ chắc chắn hơn trong những hình thức ổn định của sự hiện hữu có tính sinh vật và cộng đoàn tính. Mặc dù cách hiểu về biểu hiệu của họ xem ra quá hạn hẹp, chúng ta có thể đồng ý với những tác giả này rằng khả năng của ẩn dụ tùy thuộc vào sự hiện diện tiên vàn của những cơ cấu ý nghĩa trong những biến cố và những thực tại mà ẩn dụ qui chiếu đến.

Những thần thoại, ngụ ngôn và dụ ngôn là những thể văn chứa đầy các yếu tố biểu hiệu. Theo một vài tác giả, thần thoại có tính tiền biểu hiệu, bởi vì tư tưởng thần thoại không phân biệt giữa nghĩa mặt chữ và nghĩa chìm – một sự phân biệt mà họ cho là thiết yếu trong cách nói (có tính) biểu hiệu. Tuy nhiên, các tác giả này nhận ra rằng “nguồn gốc thần thoại của các biểu hiệu chủ yếu trong cách diễn tả thuộc tôn giáo là điều không thể nghi ngờ.” Càng ngày người ta càng dùng hạn từ thần thoại theo một nghĩa rộng hơn để gán cho bất cứ câu chuyện (có tính) biểu hiệu nào nhấn mạnh và định hình đời sống tập đoàn của một đoàn nhóm.

Ngụ ngôn, trái lại, có thể được gọi là “hậu biểu hiệu.” Nó dùng các biểu hiệu để chuyên chở những ý nghĩa vốn đã được người ta nắm hiểu bằng một cách thế nhất định và có tính suy tư. Trong ngụ ngôn, sự biểu hiệu được thực hiện về phương tiện tu từ chứ không có tính tầm cứu.

Dụ ngôn, theo Norman Perrin, có thể đóng vai trò hoặc là những tỉ dụ hoặc là những ẩn dụ. Nếu dụ ngôn là một tỉ dụ, nó sẽ “khích động tâm trí nhận ra những phương diện mới của thực tại,” thường bằng cách sử dụng những biểu hiệu hay những thần thoại – chẳng hạn như Nước Thiên Chúa trong các dụ ngôn của Đức Giêsu. Nếu dụ ngôn có tính ẩn dụ, nó sẽ “tạo ra một cú sốc đem lại một cái nhìn mới về thế giới và đem lại những khả năng mới cho việc kinh nghiệm cái thực tại hiện sinh mà thần thoại ấy chuyển thông.” Nhiều dụ ngôn trong Thánh Kinh chủ yếu nhằm gợi ra một quyết định, nhưng chúng chứa đựng những yếu tố biểu hiệu giúp chuyển thông mạc khải. Chúng ta sẽ bắt tay vào xem xét biểu hiệu về Nước Thiên Chúa đóng vai trò thế nào trong giáo huấn của Đức Giêsu xét như là một trung gian mạc khải.

Cuối cùng, nghi lễ là một trần thuật bằng hành động có tính biểu hiệu và tính thần thoại. Một cách sống động, nó làm mới lại những biến cố thánh mà nó hồi tưởng lại. Qua việc tham dự vào nghi lễ, người thờ phượng có thể biện biệt được ý nghĩa cuối cùng, có thể bổ khuyết được những yếu tố tiêu cực của cuộc hiện sinh, và có thể cảm nghiệm được sức mạnh của những gì là linh thánh. Theo Mircea Eliade, cách biểu hiệu bằng nghi lễ “đem lại một mối hiệp thông thường xuyên giữa con người và linh thánh- và do đó có thể xúc tiến tiến trình nên thánh (hierophanization).” Những xem xét này đưa chúng ta trở về luận điểm của chúng ta về mạc khải và biểu hiệu.



Каталог: wp-content -> uploads -> downloads -> 2011
2011 -> CÔng đỒng vatican II qua bốn thập niêN
2011 -> TÒa giám mục xã ĐOÀi chỉ nam giáo phận vinh lưỢC ĐỒ TỔng quáT
2011 -> 1. phép lạ thánh thể ĐẦu tiên khoảng năm 700 Tại làng Lanciano, nước Ý (italy)
2011 -> Thiên chúa giáo và tam giáO Đường Thi Trương Kỷ
2011 -> Tác giả Võ Long Tê chưƠng I bối cảnh lịch sử
2011 -> LỊch sử truyền giáo tại việt nam quyển II lm. Nguyễn hồng chưƠng I: MỘt cha dòng têN Ở việt nam tới rôMA
2011 -> Một lời nói đầu không phải là nơi nhiều chỗđể tóm lược lập luận của một cuốn sách cũng như định vị hoặc phát biểu về sựquan trọng của nó. Đây quả thực là một cuốn sách rất quan trọng
2011 -> LỜi giới thiệu suy tư ban đẦu về MẦu nhiệm giêSU
2011 -> Tu luật thánh biểN ĐỨc ngày 1 tháng 1

tải về 1.01 Mb.

Chia sẻ với bạn bè của bạn:
1   ...   7   8   9   10   11   12   13   14   15




Cơ sở dữ liệu được bảo vệ bởi bản quyền ©hocday.com 2024
được sử dụng cho việc quản lý

    Quê hương