Các mẫu thức MẠc khải lm. Lê Công Đức



tải về 1.01 Mb.
trang12/15
Chuyển đổi dữ liệu05.08.2016
Kích1.01 Mb.
#13530
1   ...   7   8   9   10   11   12   13   14   15

Tổng Lược

Có thể tổng lược mẫu thức ý thức về mạc khải theo các phương diện về: hình thức của mạc khải, nội dung của nó, năng lực cứu độ và sự đáp trả mà nó đòi hỏi.

Hình thức mạc khải – đối với mẫu thức này – là một sự đột phá để tiến đến một trình độ cao hơn của ý thức con người, đến nỗi bản ngã cảm nghiệm được rằng mình được xây dựng và được bồi dưỡng bởi sự hiện diện thần linh. Mạc khải truyền đạt chính nó xuyên qua các biến cố có tính kiểu thức – những biến cố mà khi được ôn lại, sẽ thúc đẩy trí tưởng tượng tái lập lại kinh nghiệm.

Vì là một tiến trình liên lỉ, mạc khải không có nội dung cố định rõ ràng. Tính tiếp tục của nó được nhận thấy rõ ràng trong chiều hướng căn bản của nó, một chiều hướng luôn luôn hướng về sự kiện toàn, sự tự do và tự chủ nhiều hơn. Những biến cố quá khứ và những giáo thuyết chỉ là mạc khải trong mức độ mà chúng có sức soi sáng cho hiện tại. Chúng là đề tài mà người ta tiếp tục diễn dịch lại theo những nhãn giới của ý thức hiện tại.

Mạc khải có năng lực cứu độ trong mức độ nó là một sự tham dự vào hoạt động sáng tạo và cứu chuộc của Thiên Chúa hướng đến sự giao hòa và sự hoàn thành phổ quát. Chân lý của nó không chỉ có tính thần học mà còn có tính thực tiễn và có tính cứu độ nội tại. Nó thúc đẩy tưởng tượng và qua đó đóng góp vào cuộc tái lập kinh nghiệm cũng như cuộc biến đổi bản thân và thế giới.

Đức tin, có thể xem như là ý thức mới, bật lên từ mạc khải theo ý nghĩa rằng nó được thúc đẩy bởi sự tự thông truyền có tính siêu việt của Thiên Chúa. Nhưng đức tin không phải là một lời đáp trả mạc khải theo nghĩa nó lĩnh hội và hưởng ứng một dữ kiện hoàn toàn khách quan. Ngược lại, tiến trình mạc khải tự hoàn thành chính nó khi nó đạt đến kết điểm trong nhận thức mới là đức tin. Khi người ta nói năng và hành động trong đức tin thì họ (các cá nhân và các cộng đoàn) sử dụng ngôn ngữ mạc khải. Nhưng chỉ nhờ những suy tư chín chắn người ta mới ý thức rằng những ý niệm của họ về mạc khải bị điều kiện hóa và được định hình bởi chính đức tin của họ. Ngôn ngữ mạc khải là một cố gắng khập khiễng của con người nhằm diễn tả tiến trình theo đó đức tin được xuất hiện xuyên qua hoạt động siêu việt của Thiên Chúa.



Những Đóng Góp Của Mẫu Thức Ý Thức

Những thế mạnh của mẫu thức ý thức trong thần học mạc khải được thấy rõ ràng khi người ta nghiên cứu mẫu thức này trong tương quan với những điểm yếu đã được ghi nhận trong các lý thuyết mạc khải trước đây. Đối lại với mẫu thức xác định, nó tránh sự cứng ngắt và chủ nghĩa độc đoán, nó đem lại một sự uyển chuyển đáng kể trong việc chú giải lại Thánh Kinh và Truyền thống. Đối lại với mẫu thức lịch sử, nó thoát được cái khó khăn của việc phải tái tạo lại các biến cố của lịch sử Thánh Kinh bằng một cách thức thuyết phục và việc phải tìm thấy trong các biến cố ấy cái toàn vẹn của mạc khải. Trái với phương thức huyền nghiệm, nó tránh được sự co rút vào một lòng tín ngưỡng duy cảm; nó đặt kinh nghiệm mạc khải vào trong bối cảnh toàn bộ của lịch sử và sự tiến bộ của loài người. Cuối cùng, đối lập lại với mẫu thức biện chứng, nó đề cao vai trò chủ động của chủ thể nhân loại trong việc thiết lập dữ kiện mạc khải.

Theo những tiêu chuẩn đã được đưa ra ở chương I thì mẫu thức ý thức được thấy rất tốt nếu thẩm xét theo tính phù hợp, theo kết quả thực tiễn và theo giá trị đối thoại.

Từ Teilhard de Chardin tới Gregory Baum, nhiều cổ động viên của mẫu thức này đã hết mực cố gắng đề ra ý niệm về mạc khải theo một hình thức có thể chấp nhận được đối với cách nghĩ hiện đại. Theo Hiến Chế Mục Vụ về Giáo Hội Trong Thế Giới Ngày Nay của Vatican II, nhân loại hôm nay đang đi qua một tình trạng mới của lịch sử mình, nó đang “đi từ một ý niệm hơi tĩnh về thực tại tới một ý niệm động và có tính tiến hóa hơn.” Cuộc giao thời này có những hiệu ứng sâu xa trong cảnh vực tôn giáo. Những lề lối suy tư do quá khứ để lại thường được thấy là không phù hợp với thời đại hiện nay. Người ta thấy rằng cần phải phân biệt giữa tôn giáo đích thực và một cái nhìn có tính ma thuật và dị đoan về thế giới. Hơn bất cứ lúc nào, con người hôm nay tự nhận thấy mình phải gánh lấy trách nhiệm về tương lai của chính mình. Một lý thuyết về mạc khải và về đức tin không giúp được cho người tin đương đầu được với những thách thức mới của thời đại thì hẳn nhiên là một lý thuyết đáng bị loại bỏ.

Mẫu thức “ý thức mới” đã rỏ ra am hợp với một cách hiểu có tính tiến hóa hay có tính chuyển biến về lịch sử – như được thấy đậm nét trong Hiến chế Mục Vụ của Vatican II. Nhờ việc tách mạc khải ra khỏi những tuyên bố riêng biệt và ra khỏi những công thức giáo điều, nó phòng tránh được mọi nguy cơ đối đầu giữa một đàng là đức tin và đàng khác là lịch sử hay khoa học. Bằng việc định vị mạc khải trong tâm lý cá nhân, theo bối cảnh văn hóa xã hội của người ta, mẫu thức này thoát được một chủ nghĩa độc đoán không mấy ai ưa và lôi cuốn tâm thức con người mến yêu tự do và phát triển.

Đối với nhiều người trở nên nghi hoặc về tính xa lạ và tính bất tương ứng của Thánh Kinh và của những định thức kỳ cựu của Giáo Hội, phương thức tiếp cận mạc khải bằng những chuyển biến ý thức sẽ làm linh hoạt những nguồn cố cựu này. Giá trị kiểu thức của những băn văn cổ điển có thể được tái lập xuyên qua một “khoa chú giải mới” biết nắm bắt tính năng động hướng về tương lai của chúng và biết đặt chúng vào vai trò phục vụ cho một cách nhìn đầy tưởng tượng hiện thời. Ý nghĩa thực của bản văn không còn được tìm kiếm đàng sau bản văn cho bằng tìm kiếm phía trước nó.

Nếu những mẫu thức kia có nguy cơ tập chú vào cái vô chất và có nguy cơ giảm trừ người Kitô hữu đến tình trạng bị động trước Thiên Chúa, thì những trách cứ ấy không thể được chĩa vào mẫu thức ý thức, bởi trong mẫu thức này có bao gồm sự đáp trả của con người và tính tưởng tượng đầy sáng tạo trong chính ý niệm về mạc khải. Nó nhấn mạnh đến sự đáp trả tự nguyện của người tin đối với hiện thực cụ thể của chính mạc khải – và nó đánh giá mạc khải một cách thực tiễn theo sự đóng góp của mạc khải vào việc xây dựng một thế giới có tính người hơn. Vì sự tương hợp chặt chẽ của nó với triết lý hành động của Blondel và với những hình thức đa dạng khác của chủ nghĩa thực dụng, mẫu thức mạc khải này có thể được nhìn nhận là đáp ứng được tiêu chuẩn về kết quả thực tiễn.

Vì những chân trời đại kết phổ cập một cách rộng rãi mà nó mở ra, mẫu thức thần học mạc khải này thích ứng đặc biệt với cuộc đối thoại với các tôn giáo lớn và với những niềm tin thế tục khác với Kitô giáo. Nó mở rộng chỗ cho ý tưởng rằng mạc khải hiện diện một cách phi chủ đề – thay vì được chủ đề hóa – trong ý thức của những người không thuộc về truyền thống tôn giáo của Thánh Kinh. Nó khích lệ người Kitô hữu tin rằng đức tin của họ có thể trải qua một cuộc phát triển xa hơn trong chiều hướng phổ cập bằng cách tôn trọng những nhãn giới của các niềm tin nhân loại khác.



Phê Bình Mẫu Thức Ý Thức

Những đóng góp của mẫu thức ý thức xem ra có vấn đề hơn nếu được cân nhắc theo một số tiêu chuẩn khác. Sự phản đối kịch liệt nhất liên quan đến tính trung thành của mẫu thức này đối với Thánh Kinh và Truyền thống. Qua việc khước từ “vị Thiên Chúa ở ngoài,” mẫu thức này đã chẳng loại bỏ một chủ đề cốt lõi của Thánh Kinh đó sao? Các tiên tri và các Tông Đồ đã phân biệt rõ ràng giữa mạc khải thần linh và những lời tuyên bố thuộc ý thức riêng của các ngài. Đối với các ngài, mạc khải được đồng nhất chặt chẽ với một sứ điệp chuyên biệt và phải được xem là lời của Thiên Chúa. Trong những cố gắng của mình để chú giải lại Thánh Kinh cho phù hợp với những bước chuyển biến có tính thời đại của những triết gia hiện đại về lịch sử (Hegel, Jaspers, Teilhard de Chardin, Vaegelin…), các thần học gia của mẫu thức ý thức có thể bị nghi ngờ là công xúc bản văn.

Đứng trước những dữ kiện của truyền thống, mẫu thức này cũng gặp phải những khó khăn tương tự. Giáo huấn chính thức của các Giáo Hội Kitô giáo – dù là Tin Lành, Công Giáo hay Chính thống – thường nhìn nhận giá trị của các bản trình thuật Thánh Kinh là những mạc khải xác định do sự can thiệp có tính thần linh đem lại. Khi những lý thuyết có tính nội tại về mạc khải được đề ra – dù là do các triết gia trường phái Hegel hay do các thần học gia phái duy tân – phản ứng của giáo quyền xảy ra lập tức và mạnh mẽ. Mackey hiểu rõ rằng lời thề chống duy tân thuyết năm 1910 dạy rằng đức tin là một sự chấp nhận thuộc trí năng đối với chân lý lĩnh hội được từ bên ngoài – nhờ được nói cho biết – và rằng đức tin chấp nhận là đúng những gì đã được nói, được khảo nghiệm và được mạc khải (dicta, testata, revelata) bởi một Thiên Chúa có ngã vị, tin nhận chúng theo thẩm quyền của Đấng không bao giờ có thể phỉnh lừa hay bị phỉnh lừa. Tuy nhiên, Mackey bác khước lời thề chống duy tân xét như một “tổng hợp của tất cả cái gì thô kệch nhất trong thần học thế kỷ XIX.” Dù vậy, đối với một số nhà phê bình, mẫu thức ý thức về mạc khải xem ra phản ảnh một số yếu tố thô kệch hơn trong thuyết duy nhân và duy sử của thế kỷ XX.

Bằng việc bám chặt vào tính tiếp tục của mạc khải kể từ thời các Tông Đồ, mẫu thức ý thức khơi lên những vấn đề khó khăn khác nữa. Dường như nó muốn nói rằng các Kitô hữu hôm nay có thể không thỏa mãn nữa với mạc khải được ban cho trong các thời kỳ Thánh Kinh, và rằng các Kitô hữu sơ khai chỉ có một mạc khải có tính chuẩn bị so với các Kitô hữu thời nay. Khó khăn này được bồi thêm nữa khi người ta khẳng định rằng Đức Kitô đã mạc khải chính Ngài không chỉ qua Giáo Hội nhưng còn qua những dấu chỉ thời đại, qua những tôn giáo ngoài Kitô giáo và qua các lý tưởng thế tục. Người ta băn khoăn trong một số trường hợp phải chăng Đức Kitô đang bị biến thành một bung xung đơn thuần cho một sự tiến bộ có tính thời đại trong ý thức con người. Những lý thuyết như thế thật khó mà hòa hợp được với khẳng quyết truyền thống của Kitô giáo (Tin Lành, Công Giáo và Chính thống) – về sự hoàn thành của mạc khải được thông truyền một lần thay cho tất cả nơi Đức Giêsu Kitô, Lời Nhập Thể, như Giáo Hội tông truyền làm chứng.

Vì vậy, các nhà thần học Kitô giáo nào chấp nhận mẫu thức ý thức đều phải ở trong một tư thế không mấy thoải mái. Họ thấy khó mà vận dụng giáo huấn của Thánh Kinh nếu không chú giải lại từ nền tảng giáo huấn đó theo cảm nghĩ riêng của họ. Đặc biệt là người Công Giáo, bị đòi phải hòa hợp chủ trương của mình với nhiều tài liệu chính thức của Giáo Hội mình. Lý thuyết về chân lý đặc thù của mẫu thức này phải đương đầu với một số căng thẳng với loại quyền giáo huấn mà các giáo hoàng và các giám mục vẫn nhất trí dành  cho riêng các ngài. Các ủng hộ viên của mẫu thức thứ 5 của chúng ta thường có những cảm nghĩ phân vân về các thẩm quyền Giáo Hội của mình, và do đó thấy rằng khó mà đưa ra một giải thích hoàn toàn chặt chẽ về chủ trương của mình.

Dù người ta có thể tranh luận hay không về tính thích ứng với kinh nghiệm của mẫu thức ý thức. Mẫu thức này tương hợp với một số loại kinh nghiệm trong đó người ta có một cảm giác sống động về sự hiện diện và hoạt động của Thiên Chúa trong những công cuộc của họ và trong những phong trào lớn của lịch sử đương đại. Nhưng sẽ là một sai lầm nếu phi bác những loại kinh nghiệm tôn giáo khác không nhận được mấy hậu thuẫn từ mẫu thức này – chẳng hạn, kinh nghiệm của các thần học gia cổ điển là những người có khuynh hướng tìm gặp Thiên Chúa trong một phạm vi ở trên và vượt ngoài lịch sử, và kinh nghiệm của các thần học gia biện chứng là những người gặp gỡ giới thần linh xét như “mysterium tremendum” (mầu nhiệm vĩ đại) – hoàn toàn khác với bản thân mình và thế giới. Do đó người ta chẳng mấy ngạc nhiên khi một nhân vật thuộc phái Thôma hiện đại như Jacques Maritain đã tố cáo Teilhard de Chardin tội “quì gối trước thế giới” và tội đúc luyện “một ngộ đạo thuyết mới thuộc Kitô giáo,” cái mà thực chất chỉ là “giả tưởng thần học” không hơn không kém. Về phần mình, Karl Barth đã bài xích Teilhard như “một con rắn ngộ đạo khủng khiếp.” Bấy giờ Gregory Baum không phát biểu thay cho hết thảy mọi người đương thời khi ông tuyên bố rằng người ta không còn có thể “nghĩ về Thiên Chúa như một cái gì ở ngoài và vượt trên lịch sử nhân loại.””

Khảo nghiệm về kết quả về mặt lý thuyết, mẫu thức ý thức gặp phải một sự đánh giá không đơn nhất.  Đối với những người xu theo triết lý hành động, chủ nghĩa thực dụng hay theo thuyết tương đối lịch sử thì những lợi điểm của mẫu thức này xem ra đã quá rõ. Nhưng những tư tưởng gia thuộc chiều hướng suy tư hơn sẽ không thỏa mãn với một phương thức làm hạn chế hay phủ nhận giá trị tri thức của mạc khải. Họ sẽ tìm thấy chút ít khích lệ nơi những đảm bảo của Fontinell rằng Thiên Chúa không phải là một người giải quyết vấn đề và rằng đức tin đích thực có bao hàm sự liều lĩnh và nghi ngờ. Nhiều người sẽ miễn cưỡng chấp nhận một Giáo Hội mà, như Dewart, không có một sứ điệp nào để công bố, hay một Giáo Hội mà, như Moran, công bố lời của chính mình chứ không phải của Thiên Chúa.

Không đâu rõ ràng hơn nơi việc xem xét của chúng ta về mẫu thức thứ năm này rằng các tiêu chuẩn để chọn lựa giữa các mẫu thức thật rất dị nghĩa. Mỗi mẫu thức cố bênh vực mình bằng những tiêu chuẩn na ná như 7 tiêu chuẩn được nêu ở chương nhất. Nhưng chúng vận dụng các tiêu chuẩn bằng những cách khác hẳn nhau. Vì thế, các tiêu chuẩn tỏ ra ích lợi cho việc xác định chủ điểm tranh luận hơn là cho việc nêu phán quyết về các mẫu thức. Trong cố gắng đạt đến một phán quyết quân bình tức một phán quyết giải thích thỏa đáng mọi phương diện của vấn đề, sẽ thật hữu ích nếu nhìn lại bằng một cái nhìn đối chiếu giữa 5 mẫu thức. Việc nhìn lại như vậy có thể đóng vai trò dọn đường cho một lý thuyết mạc khải có chiều hướng xây dựng.


CHƯƠNG VIII

SO SÁNH CÁC MẪU THỨC

Điểm Tham Chiếu Chung

Từ những mẫu thức được xem xét trên đây, người ta có thể rút ra được những định nghĩa khác nhau và tranh chấp nhau về mạc khải, như  năm định nghĩa sau đây:

- Mạc khải là giáo lý có thẩm quyền thần linh được trình bày một cách vô ngộ như là lời của Thiên Chúa do Thánh Kinh và do giáo huấn chính thức của Giáo Hội.

- Mạc khải là sự biểu lộ của quyền năng cứu độ của Thiên Chúa bằng các hành động vĩ đại của Ngài trong lịch sử.

- Mạc khải là sự tự biểu lộ của Thiên Chúa bằng sự hiện diện sâu xa của Ngài trong sâu thẳm tinh thần con người.

- Mạc khải là lời ngỏ của Thiên Chúa cho những ai mà Ngài gặp gỡ bằng lời của Ngài trong Thánh Kinh và trong lời rao giảng Kitô giáo.

- Mạc khải là một cuộc đột phá tới một trình độ cao hơn của ý thức khi nhân tính được đẩy tới một sự tham dự đầy đủ hơn trong công cuộc sáng tạo thần linh.

Sự khác biệt trong những quan niệm về mạc khải được phản ảnh trong những định nghĩa trên đặt ra một vấn đề. Phải chăng tất cả những quan niệm ấy đều thực sự tham chiếu đến cùng một thực tại? Ở đây có vẻ như ngôn ngữ đã làm lung lạc các nhà thần học. Hạn từ “mạc khải” rất có thể hóa nên dị nghĩa. Nếu thế thì quả là công cốc khi đặt câu hỏi mạc khải thực sự là gì. Hết thảy những mẫu thức nói trên đều có thể đúng theo ý nghĩa rằng chúng diễn tả những thực tại mà trong một số truyền thống thần học được mệnh danh là “mạc khải.” Những cuộc tranh cãi về bản chất của mạc khải có thể được thấy là sự đôi co dằng dai vô nghĩa về những ngôn từ.

Tuy nhiên, giải quyết đơn giản như vậy là đã không lưu tâm tới sự kiện rằng các phần tử trung kiên với những mẫu thức khác nhau ấy rất xác tín rằng mẫu thức của mình là mẫu thức đúng. Họ đã quen với suy nghĩ rằng những mẫu thức đối chọi với mình là sai lạc đối với thực tại Kitô giáo – và họ kịch liệt chống lại chúng. Những vấn đề từ ngữ liên hệ mật thiết với những vấn đề về chân lý. Những ngôn ngữ khác nhau – như Michael Polanyi cho thấy – biểu trưng cho những kết luận khác nhau; chúng mang những ý niệm khác nhau, diễn tả những quyết đoán đối lập nhau về sự vật. Có thể lấy ví dụ của Polanyi: việc xếp loại một con chim lạ vào loại chim cú hơn là vào loại chim sẻ đòi người ta phải nói lên cú là gì và sẻ là gì – mà đây là những tuyên bố có thể hoặc đúng hoặc sai, tùy thuộc vào sự gán định ngữ nghĩa đúng hay không đúng. Cũng vậy, việc gọi một ý tưởng, một kinh nghiệm hay biến cố được ban cho là “mạc khải” chính là việc nêu lên một khẳng định về chủng loại thực sự.

Làm thế nào mà những Kitô hữu cùng bám víu vào một đức tin lại có thể có những quan niệm khác nhau về mạc khải và tranh luận nhau ra trò về những dị biệt ấy? Ngoài ý nghĩa chính thức hay có tính qui ước của chúng, các danh từ chung còn qui chiếu đến những thực tại rất phức hợp – và không phải tất cả những thực tại này đều rõ ràng và đều nhất tề hiện diện trong ý thức người ta. Khi người ta dùng những hạn từ chung chung để chỉ những giá trị nhân bản chủ yếu – như sự thật, công bằng, can đảm v.v… người ta gợi ra cả một kho vô tận những hàm chỉ kéo theo vốn đã được hiểu bởi những kẻ đã dùng danh từ đó. Trong quan điểm về kho tri thức mặc nhiên này, Socrates đã có quyền phản kháng Thrasymachus – người đã định nghĩa công bằng là cái gì có lợi cho kẻ mạnh. Để thiết lập hay để tán thành một định nghĩa người ta phải tập chú không chỉ vào hạn từ đang được định nghĩa mà còn vào chính thực tại mà hạn từ ấy qui chiếu đến. Polanyi vạch cho thấy rằng người ta có thể phá hủy ý nghĩa của hạn từ nếu chỉ tập trung về nó. Để nghiên cứu cách dùng chính xác của các hạn từ, chúng ta phải hiểu một trật cả hạn từ lẫn sự vật liên hệ. Kết quả của cuộc khảo sát này sẽ vừa là một sự nhận hiểu đúng đắn hơn về thực tại vừa là một cách dùng hạn từ chuẩn xác và chắn chắn hơn.

Trong tư cách là một hạn từ có ý nghĩa tôn giáo quan trọng trong các truyền thống do thái giáo và Kitô giáo, mạc khải không phải chịu sự định nghĩa chuyên chế hơn so với công bằng. Công bằng là một hạn từ cần phải được hiểu biết và được chấp nhận nếu người ta muốn có một xã hội tốt đẹp. Trong bối cảnh tôn giáo, có thể nói tương tự như thế về mạc khải. Gắn chặt với cách hiểu theo Thánh Kinh và theo Kitô giáo về thực tại, các Kitô hữu vô hình chung dính chặt với một ý niệm về mạc khải trong đó nói lên được đúng dắn những gì mà hạn từ này gợi ra. Vì một số tính chất của mạc khải không thể được khuôn định rõ rệt cho nên giữa các Kitô hữu có thể có sự bất đồng về khái niệm này; nhưng vì cũng chia sẻ nguồn ý nghĩa mặc nhiên vốn đã sản sinh ra ý niệm ấy nên các Kitô hữu có thể tích cực bàn luận xem những định nghĩa nào là chuẩn xác. Trong bất kỳ cuộc thảo luận nào như htế, người ta phải tập chú đến những thực tại mà họ tin tưởng – ngay cả dù những thực tại này không được họ tri thức với sự sáng sủa đầy đủ của trí tuệ. Những định nghĩa này sẽ nêu bật được những gì mà người ta hiểu một cách tiềm tàng trong đức tin, hoặc ít nhất những gì đã được chứng nghiệm trong các nguồn Kitô giáo.

Dù có rất nhiều những dị biệt như đã nói trên, những ý niệm về mạc khải hàm chứa trong năm mẫu thức không phải hoàn toàn xa lạ nhau. Một số những tính chất của mạc khải được khuôn định hẳn hoi, và do đó đại đa số các thần học gia đứng về một trong những mẫu thức này ắt hẳn sẽ nhất trí với những tuyên bố như:

- Mạc khải là hoạt động tự do của Thiên Chúa hướng về những thụ tạo tinh thần của Ngài. Trong mạc khải, Thiên Chúa ban một ân huệ cao vượt trên cả ân huệ căn bản là sự sáng tạo, và kiện toàn ân huệ sáng tạo.

- Qua mạc khải, Thiên Chúa chuyển thông sự thật về chính Ngài và về loài người xét trong tương quan với Ngài. Chân lý mạc khải – ít nhất là một phần – vượt quá khả năng khám phá của trí khôn con người theo sức tự nhiên của nó.

- Chân lý mạc khải rất quan trọng về mặt tinh thần. Nó có giá trị cứu độ (nghĩa là, có giá trị đối với sự thiện ích trọn vẹn và cuối cùng của cá nhân và của cộng đoàn). Đa số người ta xem mạc khải là cái gì thiết yếu cho sự cứu độ.

- Mạc khải, đối với các Kitô hữu, tiến đến chung cuộc dứt khoát nơi Đức Giêsu, Lời Nhập Thể của Thiên Chúa.

- Đối với Kitô hữu, phương thế thông thường để tiếp cận mạc khải là xuyên qua Giáo Hội – cơ quan đọc và loan báo sứ điệp Thánh Kinh.

- Mạc khải đòi hỏi một sự đón nhận tích cực về phía những người mà nó được gửi đến. Sự đón nhận hay đáp trả này thường được gói ghém trong hạn từ “đức tin.””

Tổng hợp những điểm nhất trí này, người ta có thể đề ra một định nghĩa chung khả dĩ được chấp nhận đối với nhiều người thuộc mỗi mẫu thức: Mạc khải là hành động tự do của Thiên Chúa qua đó Ngài truyền đạt chân lý cứu độ cho các trí khôn thụ tạo, đặc biệt qua Đức Kitô như được Giáo Hội tông truyền nhìn nhận và được Thánh Kinh cũng như cộng đoàn kế tục những người tin chứng nghiệm.

Những Dị Biệt

Sánh với điểm nhất trí chủ yếu này, những điểm khác nhau được giới hạn một cách tương đối. Chúng liên quan nhiều đến cách hiểu thần học về mạc khải hơn là đến ý niệm nền tảng ấy. Trong những tổng lược ở cuối mỗi trình bày, chúng ta đã ghi nhận những điểm dị biệt giữa năm lý thuyết xét về hình thức, nội dung, năng lực cứu độ của mạc khải và sự đáp trả đúng đắn đối với mạc khải.

Về hình thức hay quá trình qua đó Thiên Chúa thông truyền mạc khải, những điểm khác nhau có thể được tổng kết như sau:

Theo mẫu thức thứ nhất, mạc khải mang hình thức của giáo lý có thẩm quyền thần linh, được đóng ấn bởi năng lực tiên tri và phép lạ. Theo mẫu thức thứ hai, mạc khải lấy hình thức những hành động lịch sử có thể được dò tìm – ít nhất là một phần – bằng khảo cứu lịch sử. Đối với những ủng hộ viên của mẫu thức thứ ba, mạc khải đến từ một kinh nghiệm trực tiếp nội tâm về sự tự thông truyền của Thiên Chúa. Trong mẫu thức thứ tư, mạc khải được hiểu là lấy hình thức của Lời Thiên Chúa xuyên qua Đức Giêsu Kitô và xuyên qua lời nói (của con người có thể sai lầm) mang chứng từ cho Người. Theo mẫu thức thứ năm, Thiên Chúa mạc khải bằng cách nâng ý thức của con người lên xuyên qua một sự lôi cuốn bên trong và xuyên qua những kiểu thức bên ngoài.

Vì hình thức và nội dung của mạc khải có quan hệ hỗ tương với nhau cho nên không đáng ngạc nhiên khi nội dung của mạc khải được hiểu một cách khác nhau trong mỗi mẫu thức. Với mẫu thức thứ nhất, mạc khải bao hàm những chân lý siêu lý liên quan đến bản tính nội tại của Thiên Chúa, ý muốn của Ngài và chương trình cứu độ của Ngài. Mẫu thức thứ hai hiểu nội dung của mạc khải là tổng hợp những hành động thực sự của Thiên Chúa trong lịch sử – những hành động gián tiếp cho thấy những tâm tình và những thuộc tính tương đối của Thiên Chúa như yêu thương, đại lượng, quyền năng v.v… Theo mẫu thức thứ ba, nội dung trực tiếp của mạc khải là chính Thiên Chúa, Đấng tự thông truyền mình cho linh hồn người ta như là một cái gì hoàn toàn siêu việt và khôn tả. Mẫu thức thứ tư nhất trí với mẫu thức thứ ba về tính khôn tả của nội dung mạc khải, nhưng chủ trương rằng Thiên Chúa siêu vượt trên kinh nghiệm trực tiếp. Lời Thiên Chúa mạc khải Ngài là Đấng đầy quyền năng và người ta không thể tới gần được; Lời ấy cũng mạc khải cho thấy thân phận hoàn toàn tội lỗi của tất cả những ai muốn tìm cách tiếp cận Thiên Chúa hay nắm hiểu Ngài bằng những phương thế thuần túy nhân loại. Cuối cùng, mẫu thức năm không nêu nội dung chuyên biệt cho mạc khải. Nội dung mạc khải xem ra được hiểu là bất cứ những gì báo trước về chung cục Nước Trời được biện biệt rõ nhờ nhãn giới mới mà người ta có được do trình độ tự thức cao hơn trong đó mạc khải chủ yếu bao hàm.

Điểm dị biệt chủ chốt thứ ba liên hệ đến việc nối kết giữa mạc khải và ơn cứu độ. Người ta không tranh cãi về sự kiện có một nối kết như thế, nhưng là tranh cãi về bản chất của sự nối kết ấy.

Quan điểm của mẫu thức thứ nhất cho mạc khải có sức cứu độ bởi vì nó cho người ta biết về những ân phúc bởi trời và về phương thế để người ta thừa hưởng những ân phúc ấy. Đối với phái tân kinh viện, mạc khải nói về Thiên Chúa – hiểu như kết điểm siêu nhiên của con người – và nói về những phương tiện siêu nhiên để người ta có thể đạt đến kết điểm ấy. Theo cách hiểu của mẫu thức thứ hai thì mạc khải gắn liền với ơn cứu độ bởi vì nó khơi dậy lòng tín thác vào quyền năng và sự tốt lành của Thiên Chúa, Đấng đến để phù giúp những ai trông cậy vào Ngài. Còn theo nhãn giới của mẫu thức thứ ba thì mạc khải và ơn cứu độ được thấy là trùng hợp nhau. Trong mức độ mà người ta cảm nghiệm thấy sự hiện diện yêu thương của Thiên Chúa, người ta đã nếm cảm được sự sống vĩnh cửu rồi. Theo mẫu thức thứ tư, hiệu năng cứu độ của mạc khải thiết yếu gắn liền với sự tàn phá của lòng tự tín của con người. Qua việc thông đạt sự xét xử và sự thứ tha của Thiên Chúa (2 phương diện xoắn xít một cách biện chứng của cùng một sự phán xét), mạc khải hóa giải tội lỗi của thụ tạo trước mặt Thiên Chúa. Trong mẫu thức thứ năm, mạc khải được thấy là hiệu nghiệm trong mức độ mà nó lôi kéo những người tiếp nhận nó vào công cuộc xây dựng Nước Thiên Chúa, trong đó thế giới cũ được mang đến sự sung mãn siêu việt – và do đó, được “cứu độ.””

Bởi vì hình thức và nội dung của mạc khải khác nhau tùy theo các mẫu thức khác nhau nên thái độ đáp trả đối với mạc khải cũng được hiểu khác nhau nơi các mẫu thức. Những người ủng hộ của cả năm mẫu thức đều đồng ý rằng mạc khải mời gọi đức tin, nhưng họ hiểu một cách khác nhau về đức tin và về mối tương quan của đức tin với mạc khải. Trong mẫu thức thứ nhất, đức tin là một sự chấp nhận đối với những chân lý mạc khải đã được thiết định đầy đủ và được chất chứa trong Lời Thiên Chúa được ghi lại hoặc được thông truyền. Lý do của đức tin là quyền bính của vị thầy thần linh, một vị thầy không thể phỉnh lừa hay bị phỉnh lừa. Trong mẫu thức thứ hai, đức tin được hiểu là sự tín thác vào Thiên Chúa là Chúa của lịch sử, Đấng vẫn không ngừng minh chứng sự thiện hảo và lòng trung tín của Ngài đối với những ai trông cậy vào Ngài. Mẫu thức thứ ba thì cho rằng đức tin được hiểu đúng hơn trong ý nghĩa về những tâm tình sùng mộ (Schleiermacher), về “lời cầu nguyện của trái tim” (Sabatier) hoặc một thái độ đáp trả đầy yêu thương và sùng kính nào đó. Trong mẫu thức thứ tư, đức tin mang ý nghĩa một sự chấp nhận có tính riêng tư về thân phận của một tội nhân được tha thứ của mình nhờ hồng ân của Thiên Chúa nơi Đức Giêsu Kitô. Cuối cùng, mẫu thức thứ năm hiểu đức tin như một sự dấn thân và tham dự vào công cuộc qua đó Thánh Linh không ngừng dẫn dắt thế giới tiến về sự sung mãn cuối cùng và chóp đỉnh của nó.

Trong ba mẫu thức đầu, mạc khải được thấy là quan yếu hơn đức tin. Trong mẫu thức thứ tư, thế ưu tiên của mạc khải vẫn còn được nhấn mạnh, nhưng mạc khải được hiểu như một cái gì đó có bao hàm sự đáp trả của đức tin. Trong mẫu thức thứ năm, như ta đã thấy, vai trò chủ động của chủ thể tin được nhấn mạnh đến nỗi mạc khải có khuynh hướng trở thành tùy phụ đối với đức tin – cái chính thức thiết định mạc khải bằng việc khẳng quyết nó.


Каталог: wp-content -> uploads -> downloads -> 2011
2011 -> CÔng đỒng vatican II qua bốn thập niêN
2011 -> TÒa giám mục xã ĐOÀi chỉ nam giáo phận vinh lưỢC ĐỒ TỔng quáT
2011 -> 1. phép lạ thánh thể ĐẦu tiên khoảng năm 700 Tại làng Lanciano, nước Ý (italy)
2011 -> Thiên chúa giáo và tam giáO Đường Thi Trương Kỷ
2011 -> Tác giả Võ Long Tê chưƠng I bối cảnh lịch sử
2011 -> LỊch sử truyền giáo tại việt nam quyển II lm. Nguyễn hồng chưƠng I: MỘt cha dòng têN Ở việt nam tới rôMA
2011 -> Một lời nói đầu không phải là nơi nhiều chỗđể tóm lược lập luận của một cuốn sách cũng như định vị hoặc phát biểu về sựquan trọng của nó. Đây quả thực là một cuốn sách rất quan trọng
2011 -> LỜi giới thiệu suy tư ban đẦu về MẦu nhiệm giêSU
2011 -> Tu luật thánh biểN ĐỨc ngày 1 tháng 1

tải về 1.01 Mb.

Chia sẻ với bạn bè của bạn:
1   ...   7   8   9   10   11   12   13   14   15




Cơ sở dữ liệu được bảo vệ bởi bản quyền ©hocday.com 2024
được sử dụng cho việc quản lý

    Quê hương