CỦa mẹ VÀ trẻ TẠi huyện phú BÌNH, thái nguyên luậN Án tiến sĩ dinh dưỠng hà Nội, năm 2016



tải về 2.29 Mb.
trang12/15
Chuyển đổi dữ liệu26.04.2018
Kích2.29 Mb.
#37440
1   ...   7   8   9   10   11   12   13   14   15

CHƯƠNG 4. BÀN LUẬN

4.1. Mô tả tình trạng dinh dưỡng, thiếu vitamin A, thiếu máu ở phụ nữ có thai và một số yếu tố liên quan tới tình trạng vitamin A, thiếu máu


4.1.1. Về tuần thai và tình trạng dinh dưỡng của phụ nữ có thai tại thời điểm nghiên cứu

4.1.1.1. Tuần thai và thời điểm lựa chọn đối tượng 26-30 tuần thai

Trung bình tuổi thai ở thời điểm sàng lọc là 28,1±2,9 tuần thai, điều này cho thấy đa số các phụ nữ có thai đều được điều tra ở thời điểm lựa chọn là 26 - 30 tuần thai. Các nghiên cứu đã chỉ ra rằng ở các giai đoạn thai kỳ, đặc biệt là ở giai đoạn quí 2 và 3 của thai kỳ thì tình trạng dinh dưỡng, vi chất dinh dưỡng của phụ nữ mang thai có mối liên quan mật thiết với tình trạng dinh dưỡng trẻ sơ sinh, [88]. Thame 1997, cho thấy, những bà mẹ trong thời gian có thai với tình trạng dinh dưỡng kém đã làm kiềm chế sự phát triển của thai nhi. Tình trạng dinh dưỡng của bà mẹ giai đoạn mang thai (chiều cao và cân nặng thấp hay chỉ số BMI thấp) có liên quan đến cân nặng sơ sinh, chiều cao, vòng đầu trẻ [89]. Muthayya 2006, đã chứng minh tình trạng vitamin B12 của mẹ ở quí I của thai kỳ có liên quan đến tình trạng vitamin B12 của trẻ sơ sinh và cân nặng sơ sinh thấp trẻ [90]. Siega-Riz 2004 thấy rằng, những bà mẹ có chế độ ăn thiếu folate ở thai kỳ quí 2 sẽ có nguy cơ sinh non [91]. Menon 2016, chỉ ra rằng những bà mẹ thiếu máu ở giai đoạn quí II thai kỳ ảnh hưởng tới sự phát triển của trẻ sau khi sinh, nhấn mạnh sự cần thiết của làm giảm thiếu máu ở phụ nữ trong giai đoạn đầu của thai kỳ [92].



4.1.1.2. Về chỉ số nhân trắc

Cân nặng trung bình trước khi mang thai của PNCT tại Phú Bình, Thái Nguyên là 45,5 kg, ở mức trung bình vì mức cân nặng này trên ngưỡng về cân nặng thấp (<45kg) là 0,5kg, thấp hơn so với cân nặng trung bình toàn quốc ở vùng nông thôn năm 2010 (47,3 kg) [93] và ở Cao Bằng năm 2014 (48,1kg) [94]. Tỷ lệ PNCT có cân nặng thấp (<45kg) trước khi mang thai là 45,1% cao hơn nhiều so với nghiên cứu tại Hà Nội là 10,2% [95].

Chiều cao trung bình của ĐTNC là 152,8 cm, tỷ lệ PNCT có chiều cao trung bình thấp (<145 cm) là 5,5%, thấp hơn số liệu chung toàn quốc về chiều cao trung bình ở nữ giới (153,2 cm) [93], cao hơn phụ nữ H’mong (148,5 cm) [94], thấp hơn ở phụ nữ có thai tại Bệnh viện Phụ sản TW (155,1 cm) [95].

Chỉ số khối cơ thể (BMI) trước khi mang thai của ĐTNC đạt mức trung bình là 19,5 (cân nặng (kg)/chiều cao (m)2) trên ngưỡng quy định chẩn đoán là CED (<18,5). Chỉ số BMI của ĐTNC thấp hơn chỉ số BMI trung bình (20,9) toàn quốc ở nông thôn [93], ở Bảo Lạc (21,7%) [94]. Tỷ lệ thiếu năng lượng trường diễn (CED) của ĐTNC giai đoạn tiền mang thai là 32,4%, rất cao so với tỷ lệ ở vùng nông thôn năm 2010 (18,8%) [93], ở Cao Bằng (2,1%) [94], ở Hưng Yên (22,6%) [96]. Trong đó, có tỷ lệ 0,3% ĐTNC được chẩn đoán CED độ 3 (BMI < 16), 6% ĐTNC có CED độ 2 (BMI: 16 – 16,99) và CED độ 1 (BMI: 17 -18,49) là 26,1%. Tỷ lệ ĐTNC có CED độ 2 và 3 là 6,3% tương đương so với toàn quốc ở vùng nông thôn năm 2010 (6,2%) [93], điều này cho thấy tình trạng dinh dưỡng của ĐTNC trước thời gian mang thai vùng nông thôn luôn chịu ảnh hưởng bởi tình trạng kinh tế, xã hội, văn hóa, nghề nghiệp và chăm sóc sức khỏe dinh dưỡng. Vì vậy, với tỷ lệ CED cao ở phụ nữ giai đoạn tiền mang thai tại Thái Nguyên cho thấy rằng điều kiện chăm sóc dinh dưỡng cho PNTSĐ cần được quan tâm hơn nhiều.

Tỷ lệ thừa cân (BMI ≥25) trước khi mang thai của ĐTNC là 0,5% tương đối thấp so với tỷ lệ ở phụ nữ tuổi sinh đẻ vùng nông thôn toàn quốc (6,6%) [93]. Tỷ lệ ĐTNC có BMI bình thường (BMI: 18,5-25) ở giai đoạn tiền thai là 67,6%, tương đối thấp so với các nghiên cứu tại Cao Bằng (91%) [94], Hà Nội (92,8%) [95] và Hưng Yên (76,2%) [96].

Chiều cao trung bình của ĐTNC tại Phú Bình là 152,8cm, nằm trong khoảng chiều cao trung bình của phụ nữ nông thôn Việt nam (153,2 cm) [93]. Tỷ lệ ĐTNC có chiều cao thấp (<145cm) tương đối thấp (5,5%), so với số liệu ở phụ nữ tuổi sinh đẻ chung toàn quốc, thì có tới hơn 15%, như vậy tỷ lệ thấp còi ở phụ nữ có thai tại Phú Bình thấp hơn so với cả toàn quốc [93].

Cân nặng mẹ lúc 28 tuần thai trung bình là 51,3 kg, so với cân nặng trung bình trước có thai, bà mẹ tăng được khoảng 5,8 kg ở 26 – 30 tuần thai.

4.1.1.3. Về thông tin sức khỏe thai sản của phụ nữ có thai trong thai kỳ

Hầu hết phụ nữ mang thai đều đang ở giai đoạn khuyến nghị của tuổi sinh đẻ từ 20-35 tuổi: chiếm 87,3%, rất ít phụ nữ mang thai sớm (<18 tuổi chỉ có 0,6%) và ít phụ nữ sinh mang thai muộn sau tuổi 35 (chiếm 7,1%). Cho thấy ngày nay các chương trinh giáo dục phổ cập về sức khỏe sinh sản và tuyên truyền thực hiện kế hoạch hóa gia đình hoạt động tương đối hiệu quả.

Chủ yếu ĐTNC có số lần mang thai TB là 2,0 ± 1,0 (kể cả lần này), với 34,5% số phụ nữ là lần đầu mang thai, nhưng cá biệt có 1 người mang thai lần thứ 6, lý do vì bị hỏng thai nhiều lần trước đó. Như vậy 86,7% những phụ nữ mang thai lần này đã có ít nhất 1 con, có 1,1% số PNCT đã có trên 2 con.

4.1.2. Tình trạng thiếu vitamin A và một số yếu tố liên quan đến tình trạng thiếu vitamin A của phụ nữ có thai

4.1.2.1. Tình trạng vitamin A của phụ nữ có thai

Phân tích tình trạng vitamin A trên 340 PNCT tuần từ 26 – 30 cho thấy, hàm lượng trung bình vitamin A là 1,39 mol/L. Kết quả trên của chúng tôi cao hơn điều tra tại Kon Tum (0,78 mol/L) và Lai Châu (0,79 mol/L) [97], Hà Nội (1,22 mol/L) [95].

Tỷ lệ vitamin A huyết thanh thấp của PNCT tại 8 xã của huyện Phú Bình (<0,7mol/L) là 9,4% (trong đó có 2,4% được xác định là thiếu vitamin A (<0,35 mol/L). Tỷ lệ PNCT có nguy cơ vitamin A huyết thanh thấp (>0,7 and <1,05 mol/L) là 15,6%. Như vậy, tỷ lệ VAD-TLS tương đương so với một số nghiên cứu ở Việt Nam và các nước trong khu vực là 9,9% [21]; thấp hơn so với nghiên cứu tại Hà Nội của Phan Bích Nga năm 2010 ở PNCT (13,8%) [95] và điều tra tại Kon Tum, Lai Châu của Trương Hồng Sơn là 17,0% và 20,3% [97].

Kết quả phân tích của WHO, năm 2009 trên 136 nước có tổng sản phẩm quốc nội (GDP - Gross Domestic Product) <15.000 USD thì tỷ lệ PNCT thiếu VA-TLS là 15,3%, thì tỷ lệ VAD-TLS ở PNCT huyện Phú Bình thấp hơn tỷ lệ chung của 136 nước trên thế giới [2], tỷ lệ VAD-TLS của nghiên cứu thuộc mức nhẹ có YNSKCĐ, thấp hơn so với tỷ lệ chung trong nghiên cứu của WHO [2].

Chúng tôi so sánh với nghiên cứu ở các nước khu vực Nam Á, thì thấy rằng tỷ lệ VAD-TLS (9,4%) và nguy cơ VAD-TLS ở PNCT ở Thái Nguyên (15,6%) thấp hơn gần 2 lần so nghiên cứu của Lee V năm 2006 tại vùng nông thôn Bangladesh (18,5%) và (51,0%) [98]. Nhưng kết quả của chúng tôi cao hơn nghiên cứu Yang C năm 2014 tại Trung Quốc với tỷ lệ VAD-TLS là 5,3% [99], thấp hơn về nồng độ vitamin A trung bình 1,63 mol/L [99].

Phân tích bảng 3.6 chưa thấy khác biệt tình trạng VAD-TLS của PNCT theo nhóm tuổi, kết luận này chưa tương đương với nghiên cứu của Beheshteh tại Iran, nhận định rằng số tuần thai, nhóm tuổi của mẹ có liên quan với nồng độ vitamin A huyết thanh [100], chúng tôi cho rằng, có thể nghiên cứu tại Iran thực hiện trong cuộc điều tra quốc gia, với cỡ mẫu rất lớn (3.270 PNCT), mặc dù sự khác biệt là không có ý nghĩa thống kê, nhưng với kết quả (p = 0,29) khi so sánh tỷ lệ, với (p = 0,09) khi so sánh giá trị TB hàm lượng vitamin A giữa các nhóm, có thể cho thấy được xu hướng tương đương của nghiên cứu.



4.1.2.2. Một số yếu tố liên quan với tình trạng thiếu vitamin A tiền lâm sàng

Tương quan tuyến tính giữa nồng độ vitamin A huyết thanh của PNCT giai đoạn 26-30 tuần theo tuổi của PNCT và theo hàm lượng Hemoglobin ở cùng giai đoạn, chưa tìm thấy có ý nghĩa (Pearson – Test, r=0,08, P> 0,05).

Chưa tìm thấy yếu tố liên quan giữa điều kiện kinh tế hộ gia đình, dân tộc, nhóm tuổi, nghề nghiệp, trình độ học vấn, tiền sử thai sản (sảy thai, đẻ non, số con); tiền sử bệnh tật trong 6 tháng qua, tiền sử dùng viên sắt, sự thiếu máu hay việc bổ sung vitamin A trong 6 tháng qua, hiểu biết về biện pháp phòng chống VA hay hậu quả của thiếu VA đối với hàm lượng vitamin A huyết thanh của ĐTNC (T- test; p> 0,05). Nghiên cứu tại Bangladesh cũng có kết luận tương tự về điều kiện kinh tế xã hội chưa liên quan với tình trạng thiếu VA-TLS [98]. Chúng tôi tiến hành nghiên cứu trên những PNCT từ 26-30 tuần thai tại huyện Phú Bình là huyện thuộc nông thôn, do đó chúng tôi không phân tích so sánh yếu tố tuần thai như nghiên cứu ở Iran và Bangladesh [98], [100] và yếu tố khu vực địa dư (thành thị/nông thôn) như nghiên cứu của Beheshteh [100].

Nghiên cứu chưa tìm thấy yếu tố liên quan giữa điều kiện kinh tế hộ gia đình, chưa tương đương với nghiên cứu tại Trung Quốc. Nghiên cứu của Yang C năm 2014, thấy rằng có liên quan giữa trình độ học vấn, thu nhập bình quân đầu người, sự thiếu máu và việc bổ sung vitamin A đối với hàm lượng vitamin A [99]. Nghiên cứu tại Thái Nguyên trên địa bàn huyện với cỡ mẫu 340 đối tượng, khác với tại Trung Quốc là số liệu điều tra quốc gia với 3.270 PNCT; trình độ học vấn của nghiên cứu Yang C được so sánh là trên và dưới cấp 3. Do vậy, chưa tương đồng với nghiên cứu tại Phú Bình.

Hiểu biết của PNCT về nguyên nhân của thiếu VA có liên quan đến hàm lượng vitamin A huyết thanh, những PNCT biết ít nhất 1 nguyên nhân gây thiếu VA thì có hàm lượng VA huyết thanh là 1,56 mol/L cao hơn những PNCT không biết nguyên nhân thiếu VA là 1,32mol/L (T-test, p =0,001) (bảng PL.1), chúng tôi chưa tìm thấy kết luận tương tự, trong một số nghiên cứu ở Việt Nam [95], [97] hoặc đề cập trong các nghiên cứu trên thế giới [2], [98], [99], [100]. Nhưng tương đồng với nghiên cứu tìm hiểu về yếu tố liên quan đến hiểu biết về dinh dưỡng, thực hành sử dụng thực phẩm giàu VA chưa tốt là yếu tố nguy cơ của SR thấp của Nguyễn Xuân Ninh [55].

Phân tích mô hình hồi qui bảng 3.7, cho thấy có mối liên quan giữa yếu tố nghề nghiệp (p<0,05) sau khi kiểm soát với các yếu tố trình độ học vấn, hoàn cảnh kinh tế, tiền sử bệnh 2 tuần qua, hiểu biết về nguyên nhân và cách phòng chống thiếu VA với tình trạng VAD-TLS của PNCT. Kết quả, cho thấy những người tình trạng nghề nghiệp làm ruộng giảm nguy cơ thiếu VA-TLS 0,3 lần so với những PNCT làm nghề khác;

Do đó, nghiên cứu khuyến nghị cần tiếp tục tăng cường công tác truyền thông giáo dục về những tầm quan trọng của vitamin A đối với sức khỏe để cộng đồng đặc biệt là đối tượng có trình độ học vấn thấp hay đối tượng làm ruộng có kiến thức trong việc cải thiện tình trạng VAD. Để cải thiện tình trạng vitamin A ở phụ nữ có thai cần tiếp tục triển khai các hoạt động truyền thông nâng cao kiến thức, thực hành phòng chống thiếu vitamin A cho phụ nữ tuổi sinh đẻ nói chung và phụ nữ có thai nói riêng, đặc biệt quan tâm đến vùng nông thôn, những đối tượng làm ruộng và trình độ văn hóa thấp; cần nhìn nhận việc thiếu vitamin A vẫn còn là vấn đề sức khoẻ cộng đồng.

4.1.3. Tình trạng thiếu máu và một số yếu tố liên quan đến tình trạng thiếu máu của phụ nữ có thai

4.1.3.1. Tình trạng thiếu máu dinh dưỡng của phụ nữ có thai

Nồng độ Hemoglobin TB là 113,8 g/l ± 12,3. Giá trị Hb TB của nghiên cứu thấp hơn so với điều tra tại thành phố Hồ Chí Minh (119,0 g/l) năm 2008, sự khác biệt này cũng tương đối hợp lý bởi điều kiện kinh tế xã hội nói chung và chế độ dinh dưỡng nói riêng thành phố sẽ tốt hơn khu vực nông thôn [101].

Tỷ lệ thiếu máu dinh dưỡng ở PNCT (37,0%) tại Phú Bình ở ngưỡng trung bình theo phân loại của Tổ chức Y tế thế giới (TCYTTG). Tỷ lệ trên thấp hơn so với ước tính của WHO trên toàn cầu (41,8% ở PNCT) [102]. Nhưng so với nghiên cứu của Đặng Oanh tại Đăk Lăk năm 2008 về tình trạng thiếu máu dinh dưỡng ở phụ nữ có thai dân tộc thiểu số (50,1%) thì tỷ lệ trên là thấp hơn [103]. Tuy nhiên, tỷ lệ này cao hơn tỷ lệ thiếu máu chung (32,8%) của Trần Thúy Nga năm 2014 trong điều tra 9 tỉnh đại diện (thành thị, miền núi, nông thôn) [7].

4.1.3.2. Một số yếu tố liên quan với tình trạng thiếu máu dinh dưỡng ở PNCT

Chưa tìm thấy yếu tố liên quan giữa nghề nghiệp, điều kiện kinh tế, trình độ học vấn, thu nhập của PNCT với tình trạng thiếu máu. Kết quả tuy chưa có ý nghĩa thống kê, nhưng việc PNCT có từ 2 lần đẻ trở lên có nguy cơ thiếu máu cao gấp 1,4 lần so với những PNCT ít hơn 2 lần đẻ. Xu hướng trên phù hợp với nghiên cứu tại Ân Thi năm 2008 [104]. Đồng thời, phân tích đơn biến cho thấy, không sử dụng viên sắt khi mang thai có thể tăng nguy cơ thiếu máu 2,3 lần với phụ nữ sử dụng viên sắt, có ý nghĩa thống kê (2 test, p <0,05). Kết quả trên tương tự nghiên cứu tại Đăk Lăk năm 2008 [103].

Phân tích đơn biến và hồi qui đa biến sau khi kiểm soát các yếu tố trình độ học vấn, số lần đẻ, việc sử dụng viên sắt cho thấy, có mối liên quan giữa dân tộc, hiểu biết của PNCT về nguyên nhân thiếu máu với tình trạng thiếu máu của PNCT (p< 0,05). Những phụ nữ dân tộc Kinh có thể giảm nguy cơ thiếu máu xuống 50% so với những PNCT dân tộc khác (Tày, Nùng, Sán Dìu...). Điều đó cho thấy, những PNCT dân tộc thiểu số, cần được là đối tượng ưu tiên, hưởng lợi từ các chương trình y tế. Những người PNCT không hiểu biết nguyên nhân thiếu máu có thể tăng nguy cơ thiếu máu 1,6 lần những phụ nữ hiểu biết nguyên nhân thiếu máu. Do đó nghiên cứu khuyến nghị cần tiếp tục tăng cường công tác truyền thông giáo dục nâng cao kiến thức và thực hành phòng chống thiếu máu.


Каталог: FileUpload -> Documents
Documents -> BỘ khoa học và CÔng nghệ
Documents -> HÀ NỘI – 2013 BỘ giáo dụC ĐÀo tạo bộ y tế viện dinh dưỠNG
Documents -> Phụ lục về cấp hạng khách quốc tế
Documents -> CỘng hoà XÃ HỘi chủ nghĩa việt nam qcvn 01 78: 2011/bnnptnt quy chuẩn kỹ thuật quốc gia thứC Ăn chăn nuôi các chỉ tiêu vệ sinh an toàn và MỨc giới hạn tốI Đa cho phép trong thứC Ăn chăn nuôI
Documents -> TỔng cục dạy nghề
Documents -> BỘ giáo dụC ĐÀo tạo bộ y tế viện dinh dưỠng nguyễn thị thanh hưƠng thực trạng và giải pháP
Documents -> Bé gi¸o dôc vµ ®µo t¹o bé y tÕ ViÖn dinh d­ìng Ph¹m hoµng h­ng HiÖu qu¶ cña truyÒn th ng tÝch cùc ®Õn ®a d¹ng ho¸ b÷a ¨n vµ
Documents -> TỜ khai xác nhận viện trợ HÀng hóA, DỊch vụ trong nưỚC
Documents -> Phụ lục I mẫU ĐƠN ĐỀ nghị ĐĂng ký LƯu hàNH

tải về 2.29 Mb.

Chia sẻ với bạn bè của bạn:
1   ...   7   8   9   10   11   12   13   14   15




Cơ sở dữ liệu được bảo vệ bởi bản quyền ©hocday.com 2024
được sử dụng cho việc quản lý

    Quê hương