Đề tài: so sánh chuẩn mực kế toán quốc tế VÀ chuẩn mực kế toán việt nam về TÀi sản cố ĐỊNH


II. Những điểm giống nhau và khác nhau trong quy định của chuẩn mực kế toán quốc tế và chuẩn mực kế toán Việt Nam về TSCĐ



tải về 0.77 Mb.
trang8/14
Chuyển đổi dữ liệu23.08.2016
Kích0.77 Mb.
#26164
1   ...   4   5   6   7   8   9   10   11   ...   14

II. Những điểm giống nhau và khác nhau trong quy định của chuẩn mực kế toán quốc tế và chuẩn mực kế toán Việt Nam về TSCĐ:

1. Về TSCĐ hữu hình :

1.1. Ghi nhận TSCĐ hữu hình :

1.1.1. Điều kiện ghi nhận TSCĐ hữu hình:


Một tài sản để được ghi nhận là TSCĐ hữu hình thì phải vừa thỏa mãn định nghĩa về TSCĐ hữu hình vừa thỏa mãn tiêu chuẩn ghi nhận TSCĐ hữu hình.

1.1.1.1.Định nghĩa và tiêu chuẩn ghi nhận TSCĐ hữu hình :


Theo VAS 3 thì “TSCĐ hữu hình là những tài sản có hình thái vật chất do doanh nghiệp nắm giữ để sử dụng cho hoạt động sản xuất kinh doanh phù hợp với tiêu chuẩn ghi nhận TSCĐ hữu hỡnh.”26

VAS 3 cũng nêu tiêu chuẩn để ghi nhận TSCĐ hữu hình như sau:



“Cỏc tài sản được ghi nhận là TSCĐ hữu hình phải thỏa mãn đồng thời cả bốn tiêu chuẩn ghi nhận sau :

  1. Chắc chắn thu được lợi ích kinh tế trong tương lai từ việc sử dụng tài sản đó

  2. Nguyên giá tài sản phải được xác định một cách đáng tin cậy;

  3. Thời gian sử dụng ước tính trên một năm;

  4. Có đủ tiêu chuẩn giá trị theo quy định hiện hành. ”27

Tổng hợp định nghĩa và tiêu chuẩn ghi nhận thỡ cỏc điều kiện để ghi nhận một tài sản là TSCĐ hữu hình theo chuẩn mực kế toán Việt Nam là :

  • Doanh nghiệp chắc chắn thu được lợi ích kinh tế trong tương lai từ việc sử dụng tài sản.

  • Có thể xác định được giá trị của tài sản một cách đáng tin cậy.

  • Có thời gian sử dụng hữu ích lớn hơn một kỳ kế toán.

  • Tài sản được sử dụng vào mục đích sản xuất kinh doanh hay cho mục đích hành chính khác.

  • Tài sản có hình thái vật chất cụ thể.

  • Có đủ tiêu chuẩn giá trị theo quy định hiện hành.

Còn trong IAS16 thì định nghĩa về TSCĐ được diễn đạt như sau “bất động sản, nhà xưởng và dụng cụ là những tài sản hữu hình khi:

  1. Chúng được doanh nghiệp nắm giữ để sử dụng cho mục đích sản xuất và cung cấp hàng hóa, dịch vụ hay cho người khác thuê hay cho các mục đích quản lý hành chính.

  2. Doanh nghiệp dự kiến là có thể sử dụng chúng nhiều hơn một kì kế toán.28

IAS 16 cũng nêu tiêu chuẩn để ghi nhận chi phí phát sinh cho bất động sản, nhà xưởng, dụng cụ được ghi nhận là tài sản khi :

  1. Chắc chắn thu được lợi ích kinh tế trong tương lai (future economic benefits) từ tài sản đó và

  2. Nguyên giá của tài sản đó có thể được xác định một cách đáng tin cậy”29

Tổng hợp định nghĩa và tiêu chuẩn ghi nhận thỡ cỏc điều kiện để ghi nhận một tài sản là TSCĐ hữu hình theo chuẩn mực kế toán quốc tế là :

  • Doanh nghiệp chắc chắn thu được lợi ích kinh tế trong tương lai từ việc sử dụng tài sản.

  • Có thể xác định được giá trị của tài sản một cách đáng tin cậy.

  • Có thời gian sử dụng hữu ích lớn hơn một kỳ kế toán.

  • Tài sản được sử dụng vào mục đích sản xuất kinh doanh hay cho mục đích hành chính khác.

1.1.1.2. Các điểm giống nhau giữa hai chuẩn mực :


Hai chuẩn mực cũng thống nhất với nhau ở 4 điều kiện ghi nhận TSCĐ hữu hình là :

  • chắc chắn thu được lợi ích kinh tế trong tương lai từ việc sử dụng tài sản

  • nguyên giá có thể xác định một cách đáng tin cậy

  • có thời gian sử dụng lớn hơn một năm

  • cú hớnh thỏi vật chất cụ thể

Đối với điều kiện thứ nhất , mức độ chắc chắn của việc thu được lợi ích kinh tế trong tương lai từ tài sản phải dựa trên những bằng chứng sẵn có tại thời điểm ghi nhận ban đầu . Doanh nghiệp cần đảm bảo rằng mọi lợi ích và rủi ro đã được thực sự chuyển giao cho doanh nghiệp tại thời điểm doanh nghiệp ghi nhận tài sản là TSCĐ hữu hình của doanh nghiệp.

Riêng với điều kiện này, cả hai chuẩn mực VAS 3 và IAS 16 đều chi tiết thêm ở tiêu chuẩn này ở điểm là lợi ích kinh tế đem lại cho doanh nghiệp từ việc sử dụng tài sản không chỉ theo cách trực tiếp mà còn có thể theo cách gián tiếp thong qua một tài sản khác.

VAS 3 có quy định : “ những tài sản sử dụng cho mục đích đảm bảo an toàn sản xuất, kinh doanh hoặc bảo vệ môi trường mặc dù không trực tiếp đem lại lợi ích kinh tế như các TSCĐ khác nhưng chúng lại cần thiết cho doanh nghiệp trong việc đạt được các lợi ích kinh tế nhiều hơn từ các tài sản khỏc”30 thì sẽ được ghi nhận là TSCĐ hữu hình của doanh nghiệp.

IAS 16 cũng có quy định tương tự “bất động sản, nhà xưởng hay dụng cụ có thể được hình thành cho mục đích an toàn hoặc cho lý do bảo vệ môi trường. Việc hình thành các tài sản như thế tuy không trực tiếp làm tăng lợi ích kinh tế thu được từ bất cứ tài sản hiện có nào nhưng cần thiết trong việc giúp doanh nghiệp thu được lợi ích kinh tế trong tương lai từ các tài sản khác. Những tài sản như thế đủ tiêu chuẩn để được ghi nhận là tài sản vỡ chỳng cho phép doanh nghiệp thu được lợi ích kinh tế từ các tài sản liên quan nhiều hơn là khi không cú cỏc tài sản đú.”31

Ví dụ, “một nhà máy hóa chất có thể phải lắp đặt các thiết bị và thực hiện quy trình chứa và bảo quản hóa chất mới để tuân thủ yêu cầu về bảo vệ môi trường đối với việc sản xuất và lưu trữ hóa chất độc. Các tài sản liên quan đi kèm chỉ được hạch toán là TSCĐ hữu hình nếu không có chúng doanh nghiệp sẽ không thể hoạt động và bán sản phẩm hóa chất của mình. ”32

Đối với điều kiện thứ hai, việc xác định giá trị của tài sản thường là dựa trên giá trị chuyển giao (transfer amount) khi mua sắm tài sản hoặc nếu tài sản được hình thành trong nội bộ doanh nghiệp thì nguyên giá của tài sản là toàn bộ chi phí mà doanh nghiệp phải trả ra bên ngoài để tạo nên tài sản đó (chi phí nguyên vật liệu, chi phí lao động, chi phí sản xuất chung,…). Việc xác định giá trị sẽ khó khăn hơn tài sản được hình thành từ việc trao đổi tài sản và donh nghiệp phải xác định giá trị thị trường của tài sản tham gia vào trao đổi. Việc xác định giá trị của tài sản sẽ được phân tích kỹ hơn ở phần xác định giá trị ban đầu.

Điều kiện thứ ba “thời gian sử dụng hữu ích lớn hơn một kỳ kế toỏn” là tiêu chuẩn chung cho bất kỳ tài sản nào được phân loại vào lớp tài sản dài hạn.

Còn điều kiện thứ tư “cú hình thái vật chất cụ thể ” được nêu rõ trong định nghĩa của chuẩn mực kế toán Việt Nam và được ngầm hiểu trong chuẩn mực kế toán quốc tế. IAS 16 chính là chuẩn mực kế toán về tài sản cố định hữu hình nhưng IASB không lấy tên “Tài sản cố định hữu hình” làm tên gọi cho chuẩn mực kế toán này mà lấy tên “Bất động sản, nhà xưởng và dụng cụ” làm tên gọi của chuẩn mực này. Xem xét kỹ thì bất động sản, nhà xưởng hay dụng cụ chính là những ví dụ cụ thể của tài sản cố định vô hình và chúng đều có hình thái vật chất cụ thể. Do đó, dù không được nêu rõ nhưng định nghĩa về tài sản cố định trong IAS16 thực ra có bao hàm đặc điểm của TSCĐ hữu hình là có hình thái vật chất cụ thể.


1.1.1.3. Điểm khác biệt giữa hai chuẩn mực :


Một điểm khác biệt quan trọng dễ nhận thấy trong tiêu chuẩn ghi nhận TSCĐ hữu hình của hai chuẩn mực đó là ở tiêu chuẩn giá trị. IAS 16 không qui định mức giá trị tối thiểu để ghi nhận TSCĐ hữu hình bởi vì do hoàn cảnh kinh tế của mỗi nước là khác nhau cộng thêm đồng tiền tớnh giỏ của mỗi nước là khác nhau dẫn đến ngưỡng giá trị để ghi nhận một tài sản là TSCĐ là khác nhau. Nhưng VAS 3 lại có một tiêu chuẩn ghi nhận là có đủ tiêu chuẩn giá trị theo quy định hiện hành.

Mức giá trị này thay đổi theo quy chế tài chính của từng thời kỳ. Theo quyết định 215/TC ngày 2/10/1990 là 500.000 đồng trở lên, theo quyết định 166/1999/QĐ/BTC ngày 30/12/1999 là 5.000.000 đồng trở lên và hiện nay theo quyết định 206/2003/QĐ/BTC là 10.000.000 đồng trở lên.

Tiêu chuẩn giá trị là một tiêu chuẩn quan trọng có ảnh hưởng lớn tới việc ghi nhận chi phí của một kỳ kế toán. Một tài sản được ghi nhận là TSCĐ sẽ được phân bổ dần chi phí của nó qua ít nhất là hơn một kỳ kế toán. Còn một tài sản dự đó đáp ứng ba tiêu chuẩn (lợi ích kinh tế, thời gian sử dụng lớn hơn một năm và giá trị có thể xác định được một cách đáng tinh cậy) nhưng không đáp ứng được tiêu chuẩn giá trị thì sẽ được phân loại làm công cụ, dụng cụ và toàn bộ chi phí của nó sẽ được ghi nhận cho một kỳ kế toán. Tuy nhiên, trong trường hợp xuất dựng cụng xụ một lần vào sản xuất kinh doanh có giá trị lớn và có thời hạn sử dụng cho sản xuất kinh doanh trên một năm thì giá trị công cụ, dụng cụ xuất dùng sẽ được ghi vào tài khoản 242 “chi phí trả trước dài hạn” và phân bổ dần vào chi phí sản xuất kinh doanh của nhiều kỳ kế toán.33

Việc đưa ra tiêu chuẩn giá trị là để nhằm mục đích quản lý tài sản dễ dàng hơn. Những tài sản có giá trị nhỏ thì không cần phải theo dõi một cách chi tiết và phức tạp như TSCĐ, cũng không cần phân bổ chi phí bằng cách khấu hao qua các kỳ. Nhờ đó, công việc của người kế toán được giảm tải đi rất nhiều.


1.1.2. Áp dụng tiêu chuẩn ghi nhận cho từng trường hợp cụ thể :


Thông thường thỡ cỏc tài sản sẽ được ghi nhận một cách riêng lẻ nhưng đối với những bộ phận riêng biệt không chủ yếu như khuôn đúc, công cụ, khuôn dập thì cả VAS 3 và IAS 16 đều cho phép hợp nhất các bộ phận đó và áp dụng các tiêu chuẩn ghi nhận TSCĐ hữu hình vào tổng giá trị đó.

VAS 3 có viết : “ Khi xác định các bộ phận cấu thành TSCĐ hữu hình, doanh nghiệp phải áp dụng các tiêu chuẩn TSCĐ hữu hình cho từng trường hợp cụ thể. Doanh nghiệp có thể hợp nhất các bộ phận riêng biệt không chủ yếu như khuôn đúc, công cụ, khuôn dập và áp dụng các tiêu chuẩn TSCĐ hữu hình vào tổng giá trị đú. Cỏc phụ tùng và thiết bị phụ trợ thường được coi là tài sản lưu động và được hạch toán vào chi phí khi sử dụng. Các phụ tùng chủ yếu và thiết bị bảo trì được xác định là TSCĐ hữu hình khi doanh nghiệp ước tính thời gian sử dụng chúng nhiều hơn một năm. Nếu phụ tùng và thiết bị bảo trì chỉ được dùng gắn liền với TSCĐ hữu hình và việc sử dụng chúng là không thường xuyên thỡ chỳng được hạch toán là TSCĐ hữu hình riêng biệt vá được khấu hao trong thời gian ít hơn thời gian sử dụng hữu ích của TSCĐ hữu hình liên quan.”34

IAS 16 cũng có quy định về vấn đề hợp nhất các bộ phận riêng biệt không chủ yếu như sau: “ Phụ tùng và thiết bị phụ trợ thường được coi là tài sản lưu động và được ghi nhận trên báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh khi chúng được tiêu dùng. Tuy nhiên, các phụ tùng và các thiết bị bảo trì chủ yếu đủ tiêu chuẩn ghi nhận là TSCĐ hữu hình khi doanh nghiệp ước tính sử dụng chúng nhiều hơn một kỳ kế toán. Tương tự, nếu như phụ tùng và thiết bị bảo trì chỉ có thể được dùng gắn liền với một TSCĐ hữu hình, chúng sẽ được hạch toán là TSCĐ hữu hình.

Chuẩn mực này không qui định đơn vị ghi nhận TSCĐ hữu hình, tức là không qui định các thành phần cấu thành một TSCĐ hữu hình. Do đó, việc sử dụng phán đoán là cần thiết trong việc áp dụng các tiêu chuẩn ghi nhận vào từng trường hợp cụ thể của doanh nghiệp. Việc hợp nhất các bộ phận riêng lẻ, không chủ yếu như khuôn đúc, công cụ và khuôn dập và áo dụng tiêu chuẩn ghi nhận cho tổng giá trị đó. ”35

Như vậy, cả IAS 16 và VAS 3 đều thống nhất trong việc hợp nhất các bộ phận riêng lẻ và không quan trọng để áp dụng tiêu chuẩn ghi nhận vào tổng giá trị . Tức là dù cho mỗi bộ phận riêng lẻ như khuôn đúc, công cụ hay khuôn dập không đáp ứng được tiêu chuẩn ghi nhận TSCĐ hữu hình nhưung khi gộp lại thành một nhóm mà chúng có thể đáp ứng tiêu chuẩn ghi nhận thì vẫn có thể ghi nhận toàn bộ nhóm khuôn đúc, công cụ hay khuôn dập đó như một TSCĐ hữu hình riêng biệt.

Việc hợp nhất các tài sản riêng lẻ và không quan trọng để áp dụng tiêu chuẩn ghi nhận TSCĐ hữu hình là để tránh mất thời gian xem xét xem từng bộ phận đú cú đáp ứng tiêu chuẩn ghi nhận hay không. Việc hợp nhất đó cũng tạo điều kiện cho kế toán chỉ cần tính khấu hao cho tổng giá trị các bộ phận riêng lẻ thay vì phải tính khấu hao cho từng bộ phận. Điều đó làm giảm bớt công việc sổ sách cho kế toán.

Cả VAS 3 và IAS 16 đều thống nhất phân loại các phụ tùng và thiờt bị phụ trợ là tài sản lưu động và hạch toán chúng vào chi phí khi sử dụng. Cũn cỏc phụ tùng chủ yếu và các thiết bị bảo trì được xác định là TSCĐ hữu hình khi doanh nghiệp ước tính thời gian sử dụng chúng nhiều hơn một năm. Tức là để xác định phụ tùng và thiết bị có phải là tài sản không, cả hai chuẩn mực dựa trên yếu tố là chúng có phải là các bộ phận trọng yếu đem lại lợi ích kinh tế lớn cho doanh nghiệp hay không.

1.2. Xác định giá trị ban đầu:

1.2.1 Nguyên tắc ghi nhận:


Khi TSCĐ hữu hình được hình thành, có rất nhiều chi phí phát sinh. Có những chi phí sẽ được vốn hóa và nguyên giá của tài sản. Có chi phí không được vốn hóa mà sẽ phải ghi nhận vào chi phí trong kỳ trên báo cáo kết quả kinh doanh. Việc vốn hóa hay ghi nhận vào chi phí trong kỳ do đó ảnh hưởng rất lớn đến báo cáo tài chính. Một chi phí được vốn hóa sẽ xuất hiện trên bảng cân đối kế toán dưới dạng nguyên giá của TSCĐ và được phân bổ chi phí qua nhiều kỳ kế toán phụ thuộc vào thời gian sử dụng hữu ích của tài sản. Một chi phí được ghi nhận vào chi phí trong kỳ thì sẽ xuất hiện trên báo cáo kết quả kinh doanh của một kỳ kế toán mà thôi.

Một chi phí lẽ ra được vốn hóa lại được ghi nhận vào chi phí trong kỳ sẽ làm tài sản bị định giá quá thấp (undervalued) và chi phí bị ghi nhận quá nhiều (overstated) và ngược lại với chi phí lẽ ra phải được ghi nhận vào chi phí trong kỳ lại được vốn hóa vào giá trị tài sản. Do đó, cần có một nguyên tắc chung cho việc quyết định chi phí nào được vốn hóa và chi phí nào phải ghi nhận vào chi phí trong kỳ.

Tiêu chuẩn ghi nhận chớ phớ phát sinh để có được TSCĐ hữu hình được nêu trong IAS 16 như sau :

“chi phí phát sinh cho một bất động sản, nhà xưởng và dụng cụ được ghi nhận là tài sản khi:



  1. Chắc chắn thu được lợi ích kinh tế trong tương lai (future economic benefits) từ tài sản đó và

  2. Nguyên giá của tài sản đó có thể được xác định một cách đáng tin cậy”36

Vậy một chi phí phát sinh muốn được vốn hóa vào giá trị tài sản phải đáp ứng hai tiêu chuẩn trên.

Ngoài ra, IAS 16 còn qui định rằng :

“việc ghi nhận chi phí vào nguyên giá của một TSCĐ hữu hình ngừng lại khi tài sản đã ở vào địa điểm và trạng thái cần thiết để tài sản có thể vận hành theo cách đã được định trước”37

Từ đó, ta có thể rút ra kết luận là điểm cắt chi phí được vốn hóa sẽ là thời điểm “tài sản ở vào vị trí và trạng thái cần thiết để tài sản có thể vận hành theo cách đã được định trước”. Các chi phí có liên quan và cần thiết tới việc đưa “tài sản ở vào vị trí và trạng thái cần thiết để tài sản có thể vận hành theo cách đã được định trước” mới được vốn hóa.

Do đó, những chi phí phát sinh sau thời điểm “tài sản ở vào vị trí và trạng thái cần thiết để tài sản có thể vận hành theo cách đã được định trước” đều không được ghi nhận vào nguyên giá của TSCĐ. IAS 16 có đưa ra một số ví dụ về các chi phí không được ghi nhận vào nguyên giá theo nguyên tắc trên như sau :

“(a) các chi phí phát sinh khi một tài sản có khả năng hoạt động theo cách đã được định trước nhưng vẫn chưa được đưa vào sử dụng hoặc hoạt động dưới công suất.

(b) khoản lỗ ban đầu như những khoản lỗ phát sinh khi nhu cầu cho sản phẩm được sản xuất bằng tài sản đó đang trogn giai đoạn tích lũy.

(c) chi phí cho việc chuyển địa điểm và tái cơ cấu một phần hoặc toàn bộ hoạt động của doanh nghiệp.”38

VAS 3 cũng có đoạn như sau : “ các khoản chi phí phát sinh như: Chi phí quản lý hành chính, chi phí sản xuất, chi phí chạy thử và các chi phí khác …nếu không liên quan trực tiếp đế việc mua sắm và đưa tài sản vào trạng thái sẵn sàng sử dụng thì không được tính vào nguyên giá TSCĐ hữu hình. Các khoản lỗ ban dầu do máy móc không hoạt động đúng như dự tính được hạch toán vào chi phí sản xuất kinh doanh trong kỳ.”39

Như vậy, dù không được nêu rõ trong chuẩn mực nhưng VAS 3 cũng thống nhất với IAS 16 trong việc xem xét một chi phí có liên quan trực tiếp đến việc đưa tài sản vào trạng thái sẵn sàng sử dụng hay không để quyết định đưa chi phí đó vào nguyên giá hay để loại bỏ chớ phớ đú khỏi nguyên giá.

Cả VAS 3 và IAS 16 đều yêu cầu các tài sản đủ tiêu chuẩn ghi nhận là TSCĐ hữu hình thì đều cần được xác định giá trị ban đầu theo nguyên giá.

1.2.2. Các trường hợp xác định nguyên giá TSCĐ hữu hình :

1.2.2.1. TSCĐ hữu hình mua sắm:


Theo VAS 3 thì nguyên giá của TSCĐ hữu hình bao gồm :

“giỏ mua (trừ (-) các khoản được chiết khấu thương mại hoặc giảm giá), các khoản thuế (không bao gồm các khoản thuế được hoàn lại) và các chi phí liên quan trực tiếp đến việc đưa tài sản vào trạng thái sẵn sàng sử dụng, như : chi phí chuẩn bị mặt bằng; Chi phí vận chuyển và bốc xếp ban đầu; Chi phí lắp đặt, chạy thử (trừ (-) các khoản thu hồi về sản phẩm, phế liệu do chạy thử); chi phí chuyên gia và các chi phí liên quan trực tiếp khỏc”40 .

Còn theo IAS 16 thì nguyên giá của TSCĐ hữu hình gồm :


  1. giá mua của nó, bao gồm thuế nhập khẩu và các loại thuế hàng hóa không được hoàn lại, trừ đi chiết khấu thương mại và các khoản giảm giá.

  2. bất kỳ chi phí nào có liên quan trực tiếp đến việc đưa tài sản tới vị trí và vào trạng thái cần thiết để nó có thể hoạt động theo cách đã được định trước.

  3. ước tính ban đầu của chi phí cần thiết để tháo dỡ, di chuyển các tài sản đó và khôi phục lại mặt bằng nơi đặt tài sản41.

Như vậy là về cách xác định nguyên giá thì cả VAS 3 và IAS 16 đều thống nhất ở hai thành phần chi phí là giá mua và chi phí có liên quan trực tiếp đến việc đưa tài sản vào tới vị trí và trạng thái cần thiết để nó có thể hoạt động theo cách đã định trước.

Tuy nhiên, so với VAS 3 thì nguyên giá của TSCĐ hữu hình theo IAS 16 cú thờm chi phí tháo dỡ, di chuyển tài sản và khôi phục lại mặt bằng nơi đặt tài sản. Việc đưa vào nguyên giá ước tính ban đầu về chi phí trên sẽ khiến cho nguyên giá của TSCĐ hữu hình theo IAS 16 lớn hơn theo VAS 3 (khi so sánh trên cùng một đồng tiền tớnh giỏ). Nguyên giá theo IAS 16 đương nhiên sẽ phản ánh chính xác hơn chi phí thực tế mà doanh nghiệp cần có để có được tài sản đú. Vỡ khoản chi phớ trờn là chi phí mà doanh nghiệp bắt buộc phải chi ra, thường có giá trị khá lớn và là kết quả trực tiếp của việc sử dụng tài sản. Tuy nhiên, để xác định các chi phí trên một cách chính xác là khá khó khăn nhất là khi doanh nghiệp mới chỉ sử dụng tài sản đó lần đầu tiên. Thêm vào đó, việc ước tính chi phí này có thể bị các doanh nghiệp sử dụng như là một công cụ để làm tăng hoặc giảm gớỏ trị thực tế của tài sản từ đó gián tiếp làm tăng hoặc giảm chi phí khấu hao vì chi phí này thường rất khó kiểm tra, kiểm định hay có thể kiểm tra, kiểm định được nhưng mất rất nhiều chi phí.


1.2.2.2. TSCĐ hữu hình là do doanh nghiệp tự xây dựng, tự chế :


VAS 3 quy định như sau:

“Nguyờn giá TSCĐ hữu hình tự xây dựng hoặc tự chế là giá thành thực tế của TSCĐ tự xây dựng hoặc tự chế cộng chi phí lắp đặt, chạy thử. Trường hợp doanh nghiệp dùng sản phẩm do mình tự sản xuất ra để chuyển thành TSCĐ thì nguyên giá chi phí sản xuất sản phẩm đó cộng với các chi phí trực tiếp liên quan đến việc đưa sản phẩm vào trạng thái sẵn sàng sử dụng. Trong các trường hợp trên, mọi khoản lãi nội bộ không được tính vào nguyên giá của các tài sản đú. Cỏc chi phí không hợp lý như nguyên liệu, vật liệu lãng phí, lao động hoặc các khoản chi phớ khỏc sử dụng vượt quá mức bình thường trong quá trình tự xây dựng hoặc tự chế không được tính vào nguyên giá TSCĐ hữu hỡnh.”42

IAS 16 cũng có quy định về xác định nguyên giá của TSCĐ hữu hình tỏng trường hợp này như sau “Nguyờn giỏ của mụt tài sản do doanh nghiệp tự xây dựng được xác định theo cùng một nguyên tắc như tài sản được hình thành qua mua sắm…..bất kỳ khoản lãi nội bộ cũng không được tính vào nguyên giá của tài sản của các tài sản đó. Tương tự như thế, các chi phí về nguyên vật liệu lãng phí, chi phí lao động hoặc các khoản chi phớ khỏc phát sinh vượt quá mức bình thường trong quá trình tự xây dựng thì cũng không được tính vào nguyên giá của tài sản đú.”43

Như vậy, cả VAS 3 và IAS 16 đều thống nhất loại bỏ các khoản lãi nội bộ và các chi phí không hợp lý như nguyên, vật liệu lãng phí, lao động hoặc các chi phí khác sử dụng vượt quá mức bình thường trong quá trình tự xây dựng hoặc tự chế .

Cần phải loại bỏ khoản lãi nội bộ và chi phí trên là do nếu cộng các khoản đó vào nguyên giá của tài sản thì tài sản sẽ bị định giá cao hơn giá trị thị trường của mình. Nếu doanh nghiệp sản xuất một tài sản tương tự và đem bỏn trờn thị trường trong kỳ hoạt động kinh doanh bình thường của doanh nghiệp , giá của tài sản đó sẽ tương tự như giá của tài sản tự xây dựng. Do giá của tài sản đem bỏn trờn thị trường không bao gồm khoản lãi nội bộ cũng như các chi phí do sư dụng nguyên vật liệu lãng phí hay chi phí lao động vượt trên mức bình thường (do doanh nghiệp phải đưa ra một mức giá cạnh tranh theo cung cầu trên thị trường) nờn giỏ của tài sản tự xây dựng, tự chế cũng không được bao gồm các khoản đó.

1.2.2.3. TSCĐ hữu hình được mua theo phương thức trả góp:


VAS 3 có quy định như sau về trường hợp này :

“Trường hợp TSCĐ hữu hình mua sắm được thanh toán theo phương thức chậm, nguyên giá TSCĐ đó được phản ánh theo giá mua trả ngay tại thời điểm mua. Khoản chênh lệch giữa tổng số tiền phải thanh toán và giá mua trả ngay được hạch toán vào chi phí theo kỳ hạn thanh toán, trừ khi số chênh lệch đó được tính vào nguyên giá của TSCĐ hữu hình (vốn hóa) theo quy định của chuẩn mực kế toán “chi phí đi vay””44

Trong IAS 16 cũng có đoạn quy định như sau:

“Nguyờn giá của TSCĐ hữu hình là giá mua trả tiền ngay. Nếu như việc thanh toán được kéo dài vượt quá các thời hạn tín dụng thông thường, sự chênh lệch giữa giá mua trả tiền ngay và tổng số tiền phải thanh toán được ghi nhận như là một khoản lãi theo ký hạn thanh toán trừ khi khoản lãi này được vốn hóa theo chuẩn mực chi phí lãi vay (IAS 23)”45

Như vậy, đối với trường hợp TSCĐ hữu hình được mua sắm theo phương thức trả góp hay trả chậm, cả VAS 3 và IAS 16 đều thống nhất phản ánh nguyên giá của TSCĐ theo giá mua trả ngay tại thời điểm mua. Khoản chênh lệch giữa tổng số tiền phải thanh toán và giá mua trả ngay được hạch toán vào chi phí theo kỳ hạn thanh toán, trừ khi số chênh lệch đó được tính vào nguyên giá.

Vì dụ như, giá mua trả ngay của một cái máy may là 800.000 VND, giá mua trả chậm là 960.000 VND trong vòng 4 tháng, mỗi tháng trả 240.000 VND vào cuối mỗi tháng. Như vậy, cái máy may đó sẽ được ghi nhận trên báo cáo tài chính với nguyên giá là 800.000VND chứ không phải là 960.000VND và khoản chênh lệch 160.000(= 960.000-800.000)VND sẽ được phân bổ dần vào chi phí của 4 tháng, mỗi tháng sẽ được phân bổ chi phí là 40.000VND.

Sở dĩ, cả chuẩn mực kế toán quốc tế và chuẩn mực kế toán Việt Nam đều không cho phép ghi nhận giá mua trả tiền chậm làm nguyên giá của TSCĐ hữu hình là vì khoản chênh lệch giữa giá mua trả tiền ngay và giá mua trả tiền chậm là một khoản lãi mà người mua phải trả người bán do người bán đã cấp cho người mua khoản tín dụng bằng chính số tiền mua hang được trả chậm. Như trogng ví dụ trên, người mua đã được cấp một khoản tín dụng bằng đúng số tiền mua trả ngay là 800.000VND (bởi vì thay vì phải trả ngay số tiền này, người mua được trả dần trong 4 tháng mà vẫn được sử dụng cỏi mỏy đú bắt đầu từ thời điểm mua) và phải trả một khoản lãi 160.000 VND cho số tín dụng được cấp từ người mua đó. Do đó, khoản lãi 160.000VND là phản ánh chi phí lãi vay của doanh nghiệp chứ không phản ánh chi phí mà doanh nghiệp thực sự bỏ ra để đưa tài sản đến trạng thái và địa điểm cần thiết để hoạt động theo cách đã được định trước.

1.2.2.4. TSCĐ hữu hình mua dưới hình thức trao đổi :


Còn trong trường hợp tài sản hữu hình mua dưới hình thức trao đổi, VAS 3 va IAS 16 có sự khác biệt trong cách ghi nhận nguyên giá.

VAS 3 chia làm hai trường hợp : trao đổi với một tài sản tương tự và không tương tự.

“Nguyờn giá TSCĐ hữu hình mua dưới hình thức trao đổi với một TSCĐ hữu hỡnhkhụng tương tự hoặc tài sản khác được xác định theo giá trị hợp lý46 của TSCĐ hữu hình nhận về, hoặc giá trị hợp lý của tài sản đem trao đổi, sau khi điều chỉnh các khoản tiền hoặc tương đương tiền trả thêm hoặc thu về.

Nguyên giá của TSCĐ hữu hình mua dưới hình thức trao đổi với một TSCĐ hữu hình tương tự hoặc có thể hình thành do được bán để đổi lấy quyền sở hữu một tài sản tương tự (tài sản tương tự là tài sản có công dụng tương tự, trong cùng lĩnh vực kinh doanh và có giá trị tương đương). Trong cả hai trường hợp không có bất kỳ khoản lỗ hay lãi nào được ghi nhận trong quá trình trao đổi . Nguyên giá TSCĐ nhận về được tính bằng giá trị còn lại của TSCĐ đem trao đổi.”47

Còn theo IAS 16 thì giá trị của tài sản tham gia quá trình trao đổi phải được xác định theo một giá trị hợp lý (fair value) bất kể tài sản tham gia trao đổi có tương tự nhau hay không. Tuy nhiên trong hai trường hợp sau thì tài sản tham gia trao đổi không phải xác định theo giá trị hợp lý :

“ (a) giao dịch trao đổi tài sản không có tính chất thương mại

(b) không thể xác định một cách đáng tin cậy giá trị hợp lý của tài sản đem trao đổi cũng như tài sản nhận về”.

“Nếu tài sản nhận về không được xác định theo một giá trị hợp lý thì nguyên giá của nó được ghi nhận theo giá trị còn lại theo sổ sách của tài sản đem trao đổi.” 48

Có sự khác biệt này là do VAS 3 chưa cập nhật sự thay đổi gần đây của IAS 16. Việc yêu cầu TSCĐ hữu hình phải được xác định theo giá trị hợp lý bất kể là trong trường hợp trao đổi tài sản tương đương hay không là một sự thay đổi quan trọng của IAS16 phiên bản mới49 so với phiên bản trước đó50. IAS 16 phiên bản mới yêu cầu doanh nghiệp phải căn cứ trên bản chất kinh tế của giao dịch trao đổi tài sản và khả năng xác định một cách chính xác giá trị hợp lý của tài sản tham gia vào trao đổi để làm căn cứ cho việc sử dụng giá trị hợp lý của tài sản nhận về (the asset recieved) hay giá trị còn lại của tài sản được đem đi trao đổi (the asset given up) để làm nguyên giá của tài sản nhận về.

Sở dĩ cần lấy bản chất kinh tế của giao dịch làm căn cứ xác định là vì một giao dịch trao đổi mà không mang tính thương mại (như trao đổi nội bộ) thì gia trị của tài sản sẽ không được xác định theo cơ chế cung cầu của thị trường do các điều kiện trao đổi không giống với các trao đổi thông thường nhằm mục đích thương mại. Mà giá trị hợp lý thường được xác định là giá trị thị trường của tài sản. Do đó, giao dịch trao đổi phải mang bản chất thương mại thì mới được sử dụng giá trị hợp lý làm nguyên giá của tài sản nhận về. Tuy nhiên, do một số điều kiện như tài sản không có thị trường hoạt động51 của riêng nó thì giá trị hợp lý của tài sản rất khó xác định một cách đáng tin cậy. Do đó, một giao dịch cần phải thỏa mãn được hai điều kiện nêu trên thì mới được ghi nhận giá trị hợp lý làm nguyên giá của tài sản nhận về.


1.2.2.5. TSCĐ hữu hình bao gồm đất và các công trình kiến trúc gắn liền

với đất:


Theo IAS, giá trị của nhà cửa, vật kiến trúc và đất đai cần được trình bày riêng theo từng loại TSCĐ hữu hình.

Điều đó được quy định như sau trong IAS 16:

“Đất đai và nhà cửa là các tài sản tách rời nhau và được hạch toán riêng biệt thậm chí kể cả khi chúng được mua cùng nhau.”52

Trong khi đó ở Việt Nam, luật pháp Việt Nam qui định đất và các nguồn lực tự nhiên (mỏ dầu, mỏ than, khí đốt..) đều thuộc sở hữu Nhà Nước. Các doanh nghiệp chỉ có quyền sử dụng hoặc khai thác đất đai và các nguồn lực tự nhiên. Điều đó giải thích vì sao danh mục TSCĐ hữu hình của Việt Nam không bao gồm đất đai và các nguồn lực tự nhiên như danh mục TSCĐ hữu hình của một số nước như Mỹ, Phỏp..(Giỏo trỡnh kế toán quốc tế, Nguyễn Minh Phương, Nguyễn Thị Đông(2002), Nhà xuất bản Thống Kê, Hà Nội, trang 86 và trang 276).. mà chỉ có quyền sử dụng và quyền sử dụng đất được phân loại là TSCĐ vô hình. Do đó, VAS 3 yêu cầu giá trị của nhà cửa, vật kiến trúc và quyền sử dụng đất cần được trình bày riêng trong đó giá trị quyền sử dụng đất phải được xác định là TSCĐ vô hình.

Điều đó được nêu cụ thể trong VAS 3 như sau:

“Trường hợp mua TSCĐ hữu hình là nhà cửa, vật kiến trúc gắn liền với quyền sử dụng đất thì giá trị quyền sử dụng đất phải được xác định riêng biệt và ghi nhận là TSCĐ vụ hỡnh.”53


1.3. Xác định giá trị sau ghi nhận ban đầu:


Sau thời điêm ghi nhận ban đầu, TSCĐ hữu hình sẽ được phân bổ chi phí của chúng trong thời gian sử dụng hữu ích thông qua việc khấu hao. Điều đó có nghĩa là giá trị tài sản sẽ giảm đi. Thêm vào đó, tài sản còn có thể giảm giá trị hay tăng giá trị do sự biến động của cung cầu đối với tài sản đú trờn thị trường. Điều đó làm nảy sinh vấn đề là giá trị của tài sản sau ghi nhận ban đầu nên được xác định như thế nào để có thể đảm bảo sự phản ánh trung thực và hợp lý tình hình tài chính của doanh nghiệp.

Hiện nay, trên thế giới có hai phương pháp để xác định giá trị của tài sản sau ghi nhận ban đầu là phương pháp giá gốc và phương pháp đánh giá lại. Mỗi phương pháp đều có ưu nhược điểm riêng và việc sử dụng phương pháp nào là hợp lý hơn vẫn còn là một vấn đề gây tranh cãi.

VAS 3 chỉ cho phép sử dụng phương pháp giá gốc để xác định giá trị của tài sản sau ghi nhận ban đầu. Còn IAS 16 cho phép đơn vị nắm giữ tài sản được lựa chọn giữa phương pháp giá gốc và phương pháp đánh giá lại.

1.3.1. Phương pháp giá gốc :


Phương pháp giá gốc theo VAS 3 và IAS 16 cũng khác nhau. Theo VAS 3 thì giá trị tài sản theo phương pháp giá gốc được xác định bằng nguyên giá trừ đi giá trị hao mòn lũy kế.

Giá trị còn lại = Nguyên giá – Khấu hao lũy kế


Do nguyên giá và số khấu hao lũy kế đều là hai chỉ tiêu đã được kế toán theo dõi và phản ánh trên sổ sách nên việc xác định giá trị còn lại của TSCĐ hữu hình theo phương pháp này có thể đạt được một cách dễ dàng.

Còn theo IAS 16, thì giá trị tài sản theo phương pháp giá gốc được xác định bằng nguyên giá trừ đi hao mòn lũy kế trừ đi khoản lỗ lũy kế do giảm giá trị tài sản (accumulated impairment losses).

Giá trị còn lại = Nguyên giá – Khấu hao lũy kế - Tổn thất lũy kế do tài sản giảm giá trị

Như vậy , giá trị tài sản theo phương pháp giá gốc của IAS 16 sẽ còn phải trừ đi một khoản lỗ do giảm giá trị tài sản . Khoản lỗ này không được đề cập đến trong các chuẩn mực kế toán của Việt Nam nhưng lại được dành riêng một chuẩn mực kế toán quốc tế (IAS 36 – Impairment of Asset) để bàn về vấn đề giảm giá trị tài sản. Phần giảm giá trị này sẽ được nói kĩ hơn ở phần sau.

Ưu điểm của phương pháp giá gốc là đơn giản, dễ thực hiện. Nhược điểm của phương pháp này là độ chính xác không cao. Giá trị còn lại của TSCĐ hữu hình xác định theo phương pháp này phụ thuộc vào việc doanh nghiệp tính khấu hao như thế nào. Thay đổi phương pháp khấu hao hay thời gian sử dụng hữu ích của tài sản sẽ ảnh hưởng tới giá trị còn lại của tài sản.

1.3.2. Phương pháp đánh giá lại :


Theo IAS 16, sau ghi nhận , một bất động sản, nhà xưởng hay thiết bị nếu có thể xác định được giá trị hợp lý của nó một cách đáng tin cậy thì giá trị của nó có thể được ghi nhận theo giá đánh giá lại. Giá đánh giá lại bằng giá trị hợp lý tại thời điểm đánh giá lại trừ đi bất kỳ khoản khấu hao lũy kế nào sau ngày đánh giá lại và trừ đi bất kỳ khoản lỗ do giảm giá trị tài sản nào sau ngày đánh giá lại.

Giá trị còn lại = Giá trị hợp lý tại thời điểm đánh giá lại – Khấu hao lũy kế - Tổn thất lũy kế do tài sản giảm giá trị

“Giỏ trị hợp lý của đất đai và nhà cửa thường được xác định theo những chứng cứ có cơ sở thị trường (market-based evidence) được hình thành từ những đánh giá được thực bởi những nhà đánh giá chuyên nghiệp. Giá trị của nhà xưởng và thiết bị thường là giá trị thị trường của chỳng”54.

Tần suất của việc đánh giá lại phụ thuộc vào sự thay đổi trong giá trị hợp lý của bất động sản, nhà xưởng hay thiết bị được đánh giá lại. Khi giá trị hợp lý của một tài sản được đánh giá lại khác biệt lớn với giá trị còn lại của nó thì cần có thêm một lần đánh giá lại nữa. Một vài bất động sản, nhà xưởng và thiết bị có thể có sự biến động lớn và thất thường trong giá trị hợp lý do đó cần thiết phải đánh giá lại giá trị của các tài sản này hàng năm. Việc đánh giá lại một cách thường xuyên các tài sản mà chỉ có sự thay đổi nhỏ trong giá trị hợp lý là không cần thiết. Tuy nhiên, vẫn cần đánh giá lại các tài sản đó từ ba đến năm năm một lần.

Nếu một tài sản trong một lớp được đánh giá lại thì toàn bộ lớp tài sản cũng sẽ được đánh giá lại.

“Nếu việc đánh giá lại làm tăng giá trị ghi sổ của tài sản thì phần chênh lệch do đánh giá tăng sẽ được ghi nhận trong thu nhập toàn diện khác (other comprehensive income) và được luỹ kế trong vốn sở hữu ở phần thặng dư đánh giá lại tài sản (revaluation surplus). Trừ trường hợp chính tài sản này trước đó đã được đánh giá giảm mà số chênh lệch giảm đó được ghi vào chi phí thì chênh lệch do đánh gia tăng lần này cần được bù trừ với chi phí phát sinh từ chờch lệch do đánh giá giảm trước đó. Phần chênh lệch do đánh giá tăng mà vượt quá số có thể bù trừ với phần chênh lệch do đánh giá giảm đã được ghi nhận là chi phí, thì sẽ được ghi nhận là thu nhập trong báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh.”55

“Khi đánh giá lại làm giảm giá trị ghi sổ của tài sản thì phần chênh lệch do đánh giá giảm đó sẽ được ghi nhận là chi phí trong báo cáo kết quả kinh doanh. Tuy nhiên, nếu trước đó tài sản được đánh giá tăng và phần chênh lệch do đánh giá tăng đã được ghi nhận trong phần thặng dư đánh giá lại tài sản thì phần chênh lệch do đánh giá giảm lần này sẽ được bù trừ với với phần chênh lệch do đánh giá tăng trước đó. Phần chênh lệch do đánh giá giảm mà vượt quá số có thể ghi giảm vào khoản mục thặng dư đánh giá lại tài sản (là số hiện đang ghi nhận phần chênh lệch do đánh giá tăng của cùng tài sản) cần được ghi nhận là chi phớ.”56

Thặng dư đánh giá lại tài sản được ghi nhận trong vốn chủ sở hữu có thể được kết chuyển thẳng sang thu nhập phân phối (retained earnings) khi tài sản bị loại bỏ ra khỏi sổ sách (bằng cách bán hay thanh lý). Tuy nhiên, một phần thặng dư có thể được kết chuyển sang lợi nhuận chưa phân phối trong quá trình sử dụng tài sản. Phần thặng dư được kết chuyển là chênh lệch giữa khấu hao trên giá trị được đánh giá lại và khấu hao trên nguyên giá trước đánh giá lại.

Khi một tài sản được đánh giá lại, bất kỳ khoản khấu hao lũy kế tồn tại tại thời điểm đánh giá lại được xử lý theo một trong hai cách sau :


  1. tăng hoặc giảm một cách tương ứng với sự thay đổi của nguyên giá tài sản để giá trị còn lại của tài sản sau khi đánh giá lại bằng với giá đánh giá lại. Phương pháp này thường được sử dụng khi một tài sản được đánh giá lại bằng cách áp dụng một chỉ số để quyết định giá trị thay mới đã chiết khấu của tài sản (depreciated replacement cost).

  2. vần lấy nguyên giá cũ trừ đi khoản khấu hao lũy kế này để ra giá trị ghi sổ của tài sản trước thời điểm đánh giá lại rồi ghi tăng hoặc giảm giá trị còn lại này của tài sản để đưa giá trị còn lại này về giá đánh giá lại. Phươogn pháp này thường được sử dụng cho các bất động sản.

Ưu điểm của phương pháp đánh giá lại là phản ánh một cách chính xác giá trị còn lại của tài sản. So sánh giá trị còn lại xác định theo phương pháp này với giá trị còn lại theo phương pháp giá gốc sẽ giúp doanh nghiệp có cơ sở đánh giá và xem xét các chính sách quản lý và sử dụng TSCĐ hữu hình của mỡnh đó phù hợp chưa. Nhược điểm của phương pháp này là việc xác định giá trị của tài sản tương đương với tài sản hiện có của doanh nghiệp là không hề đơn giản, hơn nữa còn tạo ra sự biến động liên tục số liệu về TSCĐ hữu hớnh có thể gây khó khăn cho công tác quản lý và kế toán. Thêm vào đó, việc đánh giá lại chỉ có thể thực hiện khi doanh nghiệp có thể thu thập được các thông tin thị trường đáng tin cậy về giá trị của tài sản. Việc thu thập thông tin này chỉ dễ dàng ở các nước có nền kinh tế thị trường phát triển và cú cỏc công ty định giá chuyên nghiệp. Vì thế phương pháp này thường được sử dụng kết hợp với phương pháp giá gốc và đặc biệt có tác dụng trong các trường hợp góp vốn, nhận vốn góp bằng TSCĐ hữu hình, sát nhập, giải thể hay thay đổi hình thức sở hữu doanh nghiệp.

1.4. Khấu hao TSCĐ hữu hình:

1.4.1. Khái niệm khấu hao TSCĐ và cách hạch toán khấu hao TSCĐ :


“Khấu hao là sự phân bổ một cách có hệ thống giá trị phải khấu hao của một tài sản trong thời gian sử dụng hữu ích của tài sản đú.”57

Quan điểm tương tự cũng được thể hiện trong IAS 16 và VAS 3 nhưng được diễn đạt theo một cách khác :

“Giỏ trị phải khấu hao58 của một tài sản phải được phân bổ một cách có hệ thống trong thời gian sử dụng hữu ích của tài sản đú.”59

Việc khấu hao TSCĐ là để phù hợp với giả thuyết kế toán chi phí phù hợp với doanh thu (accrual assumption). Do TSCĐ có thời gian sử dụng lớn hơn một kỳ kế toán và đem lại lợi ích kinh tế cho doanh nghiệp nhiều hơn một kỳ kế toán nên sẽ là không hợp lý nếu ghi nhận toàn bộ chi phí phát sinh cho TSCĐ vào chi phí chỉ của một kỳ kế toán. Thay vì thế, doanh nghiệp phải tìm một phương pháp để có thể phân bổ một cách hợp lý chi phí của tài sản trong thời gian sử dụng hữu ích của tài sản đó.

Cả hai chuẩn mực VAS 3 và IAS 16 đều thống nhất là :

“Số khấu hao của từng thời kỳ được hạch toán vào chi phí sản xuất kinh doanh trong kỳ trừ khi chúng được tính vào giá trị của tài sản khác như : khấu hao TSCĐ hữu hình dùng cho hoạt động sản xuất kinh doanh trong giai đoạn triển khai là một bộ phận cấu thành nguyên giá TSCĐ vô hình (theo quy định của TSCĐ vô hình ) hoặc chi phí khấu hao TSCĐ hữu hình dùng cho quá trình tự xây dựng hoặc tự chế các tài sản khỏc.”60

Chế độ sửa chữa hay bảo dưỡng TSCĐ hữu hình có thể kéo dài thời gian sử dụng hữu ích thực tế hoặc làm tăng giá trị thanh lý ước tính của tài sản nhưng doanh nghiệp không được thay đổi mức khấu hao của tài sản.

Cả hai chuẩn mực cũng đều cho phép doanh nghiệp phân bổ chi phí của tài sản cho các bộ phận cấu thành của nó và hạch toán riêng biệt cho mỗi bộ phận cấu thành cũng như được khấu hao một cách riêng biệt. Tuy nhiên, VAS 3 cho áp dụng trường hợp này khi từng bộ phận cấu thành tài sản có thời gian sử dụng hữu ích khác nhau hoặc góp phần tạo ra lợi ích kinh tế cho doanh nghiệp theo những tiêu chuẩn khác nhau61. Còn IAS 16 lại yêu cầu doanh nghiệp phải khấu hao riờng cỏc bộ phận của một TSCĐ hữu hình khi mà giá trị của bộ phận đó là khá lớn so với tổng giá trị của tài sản đó. Và doanh nghiệp có thể lựa chọn khấu hao riờng cỏc bộ phận của một tài sản mà giá trị của bộ phận đó là nhỏ so với tổng giá trị của tài sản. Nếu như doanh nghiệp đã chọn khấu hao riêng biệt một số bộ phận của một tài sản (các bộ phận có giá trị lớn) thì cũng phải khấu hao riêng phần còn lại (các bộ phận có giá trị nhỏ).62


1.4.2.Thời gian sử dụng hữu ích của TSCĐ hữu hình :


Về thời gian sử dụng hữu ích của TSCĐ hữu hình, cả hai chuẩn mực đều thống nhất ở định nghĩa về thời gian sử dụng hữu ích của TSCĐ hữu hình như sau :

“là thời gian mà TSCĐ hữu hình phát huy được tác dụng cho sản xuất, kinh doanh, được tính bằng :



  1. thời gian mà doanh nghiệp dự tính sử dụng TSCĐ hữu hình hoặc,

  2. số lượng sản phẩm hoặc các đơn vị tính tuơng tự mà doanh nghiệp dự tính thu được từ việc sử dụng tài sản.”6364

Như vậy cả hai chuẩn mực cho phép tính thời gian sử dụng hữu ích của tài sản không chỉ bằng thời gian tính bằng năm mà còn bằng tổng số lượng sản phẩm mà doanh nghiệp ước tính có thể thu được từ việc sử dụng sản phẩm. Ví dụ như một cái máy có công suất thiết kế là có thể sản xuất được 10 triệu sản phẩm thì ta có thể nói thời gian sử dụng hữu ích của nó là 10 triệu sản phẩm và tính khấu hao theo 10 triệu sản phẩm này. Chúng ta sẽ gặp cỏch tớnh thời gian sử dụng hữu ích này trong phương pháp khấu hao theo số lượng sản phẩm ở phần phương pháp khấu hao.

Cả hai chuẩn mực cùng cho rằng khi xác định thời gian sử dụng hữu ích của TSCĐ hữu hình phải xem xét các yếu tố sau :



  1. Mức độ sử dụng ước tính của doanh nghiệp đối với tài sản đó. Mức độ sử dụng được đánh giá thông qua công suất hoặc sản lượng dự tính;

  2. Mức độ hao mòn phụ thuộc vào các nhân tố liên quan trong quá trình sử dụng tài sản như : Số ca làm việc. việc sửa chữa và bảo dưỡng của doanh nghiệp đối với tài sản cũng như việc bảo quản chúng trong những thời kỳ không hoạt động;

  3. Hao mòn vô hình phát sinh do việc thay đổi hay cải tiến dây chuyền công nghệ hay do dự thay đổi nhu cầu của thị trường về sản phẩm hay dịch vụ do tài sản sản xuất ra;

  4. Giới hạn có tính pháp lý trong việc sử dụng tài sản như ngày hết hạn hợp đồng của tài sản thuê tài chính.65

Thời gian sử dụng hữu ích của TSCĐ hữu hình do doanh nghiệp xác định chủ yếu dựa trên mức độ dử dụng ước tính của tài sản. Tuy nhiên, do chính sách quản lý tài sản của doanh nghiệp mà thời gian sủ dụng hữu ích ước tính của tài sản có thể ngắn hơn thời gian sử dụng hữu ích thực tế của nó. Vì vậy việc ước tính thời gian sử dụng hữu ích của một tài sản còn phải dựa trên kinh nghiệm của doanh nghiệp đối với tài sản cùng loại.

Cả hai chuẩn mực đểu yêu cầu các doanh nghiệp phải xem xét lại thời gian sử dụng hữu ích của tài sản định kỳ, thường là cuối năm tài chính,

Tuy nhiên, do sự khác biệt đã đề cập ở phần xác định giá trị ban đầu là trong danh mục TSCĐ hữu hình của Việt Nam không có đất đai vì đất đai là sở hữu của Nhà Nước nên VAS 3 không đề cập đến vấn đề khấu hao đất. Nhưng IAS 16 lại đề cập khá chi tiết vấn đề khấu hao đất đai như sau :

“ Đất đai và nhà cửa là hai tài sản tách biệt và được hạch toán riêng biệt kể cả khi chúng được doanh nghiệp mua cùng một lúc. Trừ một vài ngoại lệ (như các mỏ đá hay bãi rác thải), đất đai có thời gian sử dụng vô hạn và do đó, không được khấu hao. Nhà cửa có thời gian sử dụng hữu hạn nên được khấu hao. Việc tăng giá trị của đất đai không làm ảnh hưởng tới việc xác định giá trị phải khấu hao của nhà cửa đi kèm.

Nếu như nguyên giá của đất đai bao gồm cả chi phí tháo dỡ, di dời các công trình trên đất và khôi phục mặt bằng thì phần chi phí đó sẽ được khấu hao trong khoảng thời gian mà lợi ích có thể thu hồi từ các chi phí đã bỏ ra đó. Trong một số trường hợp, đất đai có thể có thời gian sử dụng hữu hạn. Trong trường hợp đó, đất đai sẽ được khấu hao theo phương pháp phản ánh cách thức các lợi ích kinh tế được thu hồi từ việc sử dụng tài sản đú.”66

Như vậy, theo IAS16, TSCĐ hữu hình là đất đai sẽ không được khấu hao do nó cú thời gian sử dụng là vô hạn. Còn nhà cửa và các công trình kiến trúc gắn liền với đất thỡ cú thời gian sử dụng là hữu hạn nên phải khấu hao.

Nếu như khi mua đất, doanh nghiệp phải trả chi phí chi việc tháo dỡ, di dời các công trình trên đất và khôi phục mặt bằng và có ghi nhận chi phí đó vào nguyên giá của đất thì doanh nghiệp có thể khấu hao phần chi phí đó (song giá trị của đất thì vẫn không được khấu hao). Thời gian khấu hao sẽ phụ thuộc vào thời gian doanh nghiệp ước tính là thu được lợi ích kinh tế từ các chi phí tháo dỡ, di dời và khôi phục mặt bằng đó. Ví dụ như doanh nghiệp sau khi tháo dỡ và di chuyển các công trình trên đất đú cú cho xây dựng một nhà xưởng. Nếu không di dời được các công trình kiến trúc cũ thì không xây dựng được nhà xưởng nên doanh nghiệp có thể khấu hao chi phí di dời, tháo dỡ trong thời gian xây dựng nhà xưởng.

1.4.3. Phương pháp khấu hao TSCĐ hữu hình :


Về phương pháp tính khấu hao, VAS 3 và IAS 16 cũng thống nhất ở hầu hết các điểm.

Trước hết là ở định nghĩa, cả VAS 3 và IAS 16 đều cho rằng phương pháp khấu hao được sử dụng để phản ánh cách thức mà doanh nghiệp thu được giá trị kinh tế trong tương lai từ việc sử dụng tài sản.

VAS 3 viết rằng : “ Phương pháp khấu hao phải phù hợp với lợi ích kinh tế mà tài sản đem lại cho doanh nghiệp.”67

Còn trong IAS 16 cũng có đoạn như sau :“ phương pháp khấu hao được sử dụng phải phản ánh được cách thức mà tài sản đem lại lợi ích kinh tế trong tương lai mà doanh nghiệp dự kiến thu được.”68

Cả VAS 3 và IAS 16 đều cho rằng phương pháp khấu hao áp dụng cho một tài sản cần phải được xem xét lại ít nhất một năm một lần. Nếu có sự thay đổi đáng kể trong cách sử dụng tài sản để đem lại lợi ích cho doanh nghiệp thì được thay đổi phương pháp khấu hao và mức khấu hao tính cho năm hiện hành và các năm tiếp theo.

Có một số phương pháp tính khấu hao có thể được sử dụng để phân bổ chi phí có thể khấu hao của một tài sản một cách hệ thống trong thời gian sử dụng hữu ích. Có ba phương pháp tính khấu hao được đề cập ở cả hai chuẩn mực là : khấu hao theo phương pháp đường thẳng, khấu hao theo phương pháp số dư giảm dần và khấu hao theo số lượng sản phẩm.

Vì cả ba phương pháp này đều được đề cập đến một cách rất chung ở cả VAS 3 và IAS 16, tác giả của bài khóa luận này xin phép được đi sâu phân tích ưu và nhược điểm của mỗi phương pháp.


  1. Phương pháp khấu hao đường thẳng :

Phương pháp này dựa trên giả định rằng TSCĐ hữu hình giảm dần đều giá trị theo thời gian và giá trị này được đưa dần vào chi phsi theo từng thời kỳ với một giá trị như nhau. Phương pháp này còn có tên gọi là khấu hao tuyến tính, khấu hao đều theo thời gian hoặc khấu hao cố định. Theo phương pháp này, mức khấu hao hàng năm và tỷ lệ khấu hao được xác định theo công thức69:

Mức trích khấu hao Nguyên giá của TSCĐ

trung bình =

hàng năm của TSCĐ thời gian sử dụng hữu ích

Ưu điểm của phương pháp này là đơn giản, dễ tính. Nhược điểm của phương pháp này là do tính bình quân nên khả năng thu hồi vốn chậm làm cho TSCĐ hữu hình chịu bất lợi của hao mòn vô hình ( hao mòn gây ra bởi tiến bộ của khoa học kỹ thuật làm cho máy móc nhanh chóng trở nên lạc hậu). Thêm vào đó, phương pháp này chỉ phù hợp trong điều kiện lợi ích kinh tế thu được từ việc sử dụng tài sản, mức độ sử dụng tài sản của doanh nghiệp, chi phí sửa chữa, bảo dưỡng tài sản là như nhau giữa các kỳ kế toán mà chúng ta đều biết rằng điều kiện này khó xảy ra trong thục tế. Điều này dẫn đến việc phản ánh cách thức doanh nghiệp thu được lợi ích kinh tế từ việc sử dụng tài sản theo phương pháp khấu hao này là không chính xác.


  1. Khấu hao theo phương pháp số dư giảm dần70 :

Theo phương pháp này số tiền khấu hao hàng năm được xác định như sau:

Mức trích khấu hao hàng năm của TSCĐ

=

Giá trị còn lại của TSCĐ

X

Tỷ lệ khấu hao nhanh

Trong đó, tỷ lệ khấu hao nhanh được xác định theo công thức sau:



Tỷ lệ khấu hao nhanh

=

Tỷ lệ khấu hao TSCĐ theo phương pháp đường thẳng

X

Hệ số điều chỉnh

Tỷ lệ khấu hao TSCĐ theo phương pháp đường thẳng xác định như sau:


Tỷ lệ khấu hao theo phương pháp đường thẳng (%)


=


1


Thời gian sử dụng của TSCĐ


X

100

Hệ số điều chỉnh được sử dụng ở Việt Nam theo thông tư 203/2009 của Bộ Tài Chính như sau:

- Hệ số 1,5 đối với TSCĐ có thời gian sử dụng nhỏ hơn hoặc bằng 4 năm- Hệ số 2,0 đối với TSCĐ có thời gian sử dụng từ lớn hơn 4 năm đến 6 năm
- Hệ số 2,0 đối với TSCĐ có thời gian sử dụng từ lớn hơn 4 năm đến 6 năm

- Hệ số 2,5 đối với TSCĐ có thời gian sử dụng trên 6 năm71

Ví dụ: Một TSCĐ có nguyên giá là 200 triệu, thời gian sử dụng là 5 năm

Vậy SL = 1/5 = 20%

DR = 20% x 2 = 40%

Mức khấu hao theo phương pháp số dư giảm dần được xác định theo bảng sau:



Năm

Cỏch tính khấu hao

Mức khấu hao năm

Mức khấu hao lũy kế

Giá trị còn lại của TSCĐ

1

200.000 x 40%

80.000

80.000

120.000

2

120.000 x 40%

48.000

128.000

72.000

3

72.000 x 40%

28.800

156.800

43.200

4

43.200 x 40%

17.280

174.080

25.920

Theo phương pháp số dư giảm dần, do kỹ thuật tính toán nên đến khi hết thời gian sử dụng, TSCĐ vẫn chưa được khấu hao hết. Để khắc phục được vấn đề này, người ta thường kết hợp phương pháp khấu hao tuyến tính ở những năm cuối cùng. Theo ví dụ trên, vào năm thứ 4 và thứ 5 người ta sẽ chuyển sang phương pháp khấu hao tuyến tính với mức khấu hao mỗi năm là:

43,2 triệu : 2 = 21,6 triệu

Ưu điểm của phương pháp khấu hao theo số dư giảm dần là đảm bảo nguyên tắc phù hợp giữa chi phí và doanh thu. Lợi ích kinh tế mà doanh nghiệp thu được từ việc tài sản giảm dần theo thời gian nên chi phí khấu hao cũng cần giảm dần theo thời gian. Ưu điểm thứ hai là phương pháp này là giúp thu hồi vốn nhanh, hạn chế ảnh hưởng của hao mòn vô hình.

Nhược điểm của phương pháp này là tính toán phức tạp hơn phương pháp khấu hao đường thẳng. Nhược điểm nữa là có thể gây nên sự đột biến về giá thành sản phẩm trong những năm đầu do chi phí khấu hao lớn, sẽ bất lợi trong cạnh tranh. Do vậy đối với những doanh nghiệp kinh doanh chưa ổn định, chưa có lói thỡ không nên áp dụng các phương pháp khấu hao nhanh. Thực tế tại Việt Nam, theo thông tư 203/2009 đã trích dẫn ở trên, thì chỉ có những doanh nghiệp làm ăn có lãi mới được sử dụng phương pháp này. Ngoài ra, cũng theo thông tư thì TSCĐ tham gia vào hoạt động sản xuất kinh doanh được phép trích khấu hao theo phương pháp số dư giảm dần phải thỏa mãn đồng thời hai điều kiện:



  • TSCĐ đầu tư mới (chưa qua sử dụng)

  • Là các loại máy móc thiết bị, dụng cụ đo lường thí nghiệm

Thêm vào đó, doanh nghiệp chỉ được phép trích khấu hao theo phương này nếu như khấu hao theo phương pháp này không quá hai lần so với khấu hao được trích theo phương pháp đường thẳng. Những qui định chặt chẽ như vậy được đưa ra để nhằm hạn chế việc doanh nghiệp sử dụng phương pháp này để “hoón thuế” trong những năm đầu sử dụng phương pháp này.

  1. phương pháp khấu hao theo sản lượng:

Theo phương pháp này, mức độ hữu ích của TSCĐ hữu hình được xác định trên cở sở số lượng sản phẩm ước tính mà tài sản đó tạo ra trong quá trình sản xuất, do vậy số khấu hao phải trích thay đổi tùy theo khối lượng sản phẩm sản xuất ra từng kỳ. Công thức tính khấu hao theo phương pháp này như sau72 :

Mức trích khấu hao trong tháng của TSCĐ

=

Số lượng sản phẩm sản xuất trong tháng

X

Mức trích khấu hao bình quân tính cho một đơn vị sản phẩm

Trong đó:



Mức trích khấu hao bình quân tính cho một đơn vị sản phẩm

=


Nguyên giá của TSCĐ


Sản lượng theo công suất thiết kế


Uu điểm của phương pháp này là sự phù hợp giữa chi phí và doanh thu. Khi máy móc hoạt động nhiều thì phải khấu hao nhiều nên chi phí khấu hao tăng. Mặt khác, máy móc hoạt động nhiều để tạo ra nhiều sản phẩm hứa hẹn đem lại nhiều lợi nhuận cho doanh nghiệp. Trong trường hợp xấu hơn, nền kinh tế suy thoái, sản xuất giảm sút thì máy móc sẽ ít được sử dụng. Khi đó ngoài lợi ích không làm đội giá thành sản phẩm do chi phí khấu hao quá lớn như phương pháp khấu hao giảm dần hay quá cứng nhắc như phương pháp khấu hao đường thẳng, phương pháp này cho phép kéo dài thời gian sử dụng của tài sản trong trường hợp sản xuất gặp khó khăn.

Nhược điểm của phương pháp này là không thể áp dụng sâu rộng cho tất cả các loại TSCĐ hữu hình mà chỉ có thể áp dụng cho những loại tài sản như máy móc, phương tiện vận tải tức là những tài sản có thể ước tính công suất hoạt động. Việc kéo dài thời gian sử dụng của tài sản đôi khi là con dao hai lưỡi kiến cho doanh nghiệp chậm thu hồi vốn đầu tư và không hạn chế đươc hao mòn vô hình.

Ngoài ra, muốn áp dụng phương pháp khấu hao này ở Việt Nam thì phải đáp ứng một số điều kiện. Theo thông tư 203/2009 thì một TSCĐ tham gia vào hoạt động sản xuất kinh doanh được trích khấu hao theo phương pháp này phải đáp ứng đông thời các điều kiện sau :



  • Trực tiếp liên quan đến việc sản xuất sản phẩm

  • Xác định được tổng khối lượng, số lượng sản phẩm sản xuất theo công suất thiết kế của TSCĐ

  • Công suất sử dụng thực tế bình quân tháng trong năm tài chính không thấp hơn 50% công suất thiết kế.

Như vậy, cả ba phương pháp khấu hao đều có ưu nhược điểm của riêng nó. Cho nên, doanh nghiệp phải cân nhắc thật kỹ cũng như đọc kỹ các quy định kèm theo trước khi lựa chọn một phương pháp khấu hao tối ưu cho TSCĐ hữu hình của doanh nghiệp mình.

Cả VAS 3 và IAS 16 đều nhấn mạnh việc phải áp dụng phương pháp khấu hao cho TSCĐ hữu hình một cách thống nhất qua các thời kỳ trừ phi có sự thay đổi trong cách thức mà doanh nghiệp thu được lợi ích kinh tế tương lai từ việc sử dụng tài sản đó.


1.4.5. Giá trị thanh lý của TSCĐ hữu hình :


Về giá trị thanh lý của TSCĐ hữu hình, có một số quy định khá cụ thể ở IAS 16 mà hoàn toàn không thấy có trong VAS 3.

Trước hết, thuật ngữ “ giá trị thanh lý” trong VAS 3 được định nghĩa như sau :

“là giá trị ước tính có thể thu được khi hết thời hạn sử dụng hữu ích của tài sản, sau khi trừ đi chi phí thanh lý ước tớnh.’’73

Như vậy, định nghĩa này dường như có vẻ rất rõ ràng song dường như lại quên mất vấn đề giá trị thời gian của tiền. Tất cả chúng ta đều biết một đồng đụla ta có được vào ngày hôm nay có giá trị khác với đồng một đụla mà ta có được một năm sau. Do đó, giá trị ước tính của tài sản mà doanh nghiệp có thể thu được tại thời điểm hiện tại, giả định là tài sản đã ở trong tình trạng báo hiệu rằng tài sản đã ở vào cuối thời gian sử dụng của nó hoàn toàn khác với giá trị ước tính của tài sản, đã tính đến ảnh hưởng của lạm phát, mà doanh nghiệp dự kiến thu được trong tuơng lai ở vào thời điểm tài sản đã thực sự hết thời gian sử dụng hữu ích của nó.

Theo IAS 16, “giỏ trị thanh lý của một tài sản là giá trị ước tính mà một doanh nghiệp có thể thu hồi được tại thời điểm hiện tại từ việc thanh lý tài sản, trừ đi chi phí thanh lý ước tính, giả định là tài sản đã ở trong tình trạng báo hiệu rằng tài sản đã ở vào cuối thời gian sử dụng của nú.”74

Như vậy IAS 16 đã chọn giá trị có thể thu hồi tại thời điểm hiện tại để làm căn cứ ước tính giá trị thanh lý. Giá trị này có thể nói là đáng tin cậy hơn giá trị có thể thu hồi ở vào thời điểm tương lai đã bao gồm ảnh hưởng của lạm phát. Chính nguyên nhân này đã giải thích vì sao VAS 3 không yêu cầu doanh nghiệp phải xem xét lại giá trị thanh lý nhưng IAS 16 lại yêu cầu doanh nghiệp phải xem xét, đánh giá lại giá trị thanh lý của TSCĐ hữu hình để đề phòng trường hợp tỷ lệ lạm phát quá cao khiến cho giá trị thanh lý tại thời điểm tương lai khác biệt quá lớn so với ước tính trước đó. Nếu có sư khác biệt lớn như vậy, doanh nghiệp được yêu cầu phải thay đổi giá trị thanh lý của tài sản và hạch toán sự thay đổi này theo IAS8 (Accounting policies, changes in accounting estimates and Errors).

Ngoài ra, IAS 16 cũng yêu cầu rằng giá trị thanh lý của tài sản không được vượt quá giá trị còn lại của tài sản. Nếu như giá trị thanh lý mà tăng đến một giá trị bằng hoặc lớn hơn giá trị còn lại của tài sản thì chi phí khấu hao sẽ bằng 0 cho đến khi giá trị khấu hao sau đó giảm đến một ngưỡng dưới giá trị còn lại của tài sản. Điều này không được đề cập đến trong VAS3.

1.4.6. Thời điểm bắt đầu và ngừng trích khấu hao:


Về thời điểm bắt đầu trích và ngừng trích khấu hao, VAS3 cũng không hề đề cập đến. Tuy nhiên, IAS 16 lại nhấn mạnh hai thời điểm này trong đoạn 55 như sau :

“Một tài sản được bắt đầu trích khấu hao khi nó đó sẵn sàng cho việc sử dụng, tức là ở trong vị trí và trạng thái cần thiết để có thể hoạt động theo cách đã được định trước. Doanh nghiệp ngừng trích khấu hao cho tài sản vào ngày mà tài sản được xếp vào loại tài sản giữ để bán (hoặc nằm trong nhóm tài sản chuẩn bị thanh lý được phân loại là tài sản giữ để bán ) theo IFRS5 hoặc là ngày mà doanh nghiệp không còn ghi nhận tài sản đú trờn sổ sách nữa (có thể là do tài sản được bán hoặc không còn đem lại lợi ích kinh tế trong tương lai cho doanh nghiệp nữa), tùy thuộc vào ngày nào xảy ra sớm hơn.”

Mục đích mà IAS 16 đề cập đến thời điểm trích và ngừng trích khấu hao là để yêu cầu doanh nghiệp vẫn phải trích khấu hao cho tài sản kể cả khi tài sản chưa dùng, không cần dùng hoặc chờ thanh lý, trừ trường hợp tài sản đã được khấu hao hết. VAS 3 cũng có quy định về tài sản đã khấu hao hết là “ doanh nghiệp không được tiếp tục tính khấu hao đối với những TSCĐ hữu hình đã khấu hao hết giá trị nhưng vẫn còn sử dụng vào hoạt động sản xuất kinh doanh.”

Trước đây, theo quyết định 206/2003/QĐ-BTC ngày 12/12/2003 của bộ trưởng Bộ Tài Chính thì những tài sản chưa dùng, không cần dùng và chờ thanh lý thì không được trích khấu hao. Nhưng sau đó, thông tư 33/2005/TT-BTC của bộ trưởng Bộ Tài Chính ngày 29/4/2005 thì doanh nghiệp vẫn phải trích khấu hao cho các tài sản trên. Và khi thông tư 203/2009/TT-BTC ra đời thay thế thông tư 206/2003/QĐ-BTC cũng không đưa các tài sản trên vào loại tài sản không được trích khấu hao. Như vậy, tuy không được quy định cụ thể trong VAS 3 nhưng quy định hiện nay của Việt Nam về khấu hao các tài sản trên không cú gỡ trái ngược với quy định trong IAS 16.

Tuy nhiên, có một trường hợp mà IAS 16 cho phép ghi nhận chi phí khấu hao bằng 0 dù cho tài sản chưa đáp ứng đủ tiêu chuẩn để ngừng trích khấu hao đó là trường hợp những tài sản được khấu hao theo sản lượng khi dừng sản xuất. Do không có hoạt động sản xuất nên không có sản phẩm hay số lượng sản phẩm bằng 0 dẫn đến chi phí khấu hao bằng 0.

1.5. Sự giảm giá trị TSCĐ hữu hình:


VAS 3 không yêu cầu doanh nghiệp phải ước tính sự giảm giá trị của tài sản nhưng IAS 16 yêu cầu doanh nghiệp dù là sử dụng phương pháp giá gốc hay là phương pháp đánh giá lại để ghi nhận giá trị của TSCĐ hữu hình thì đều phải ước tính sự giảm giá trị của tài sản khi có những dấu hiệu cho thấy tài sản có khả năng giảm giá trị.

Tuy nhiên IAS 16 không qui định cụ thể về việc giảm giá trị của tài sản mà các quy định cụ thể nằm trong IAS 36 : sự giảm giá trị của tài sản (impairment of asset).

Theo IAS 36, khi giá trị có thể thu hồi được của tài sản giảm xuống thấp hơn giá trị còn lại, thì giá trị còn lại cần được điều chỉnh giảm xuống mức giá trị có thể thu hồi được.

Khoản lỗ do giá trị tài sản giảm giá được hạch toán như phần chênh lệch giảm do đánh giá tăng tài sản (revaluation decrease), tức là được ghi nhận là chi phí trong báo cáo kết quả kinh doanh. Tuy nhiên, nếu trước đó tài sản được đánh giá tăng và phần chênh lệch do đánh giá tăng được ghi nhận trong thặng dư do đánh giá lại (revaluation surplus) thì khoản lỗ do giá trị tài sản giảm này cần được hạch toán như một khoản làm giảm thặng dư trên. Phần điều chỉnh giảm mà vượt quá số hiện đang ghi trên khoản mục thặng dư đánh giá lại của chính tài sản đó cần được ghi nhận là chi phí.


1.6. Trình bày báo cáo tài chính :


1.6.1. Những thông tin mà cả VAS 3 và IAS 16 yêu cầu trình bày:

Những thông tin mà các doanh nghiệp được yêu cầu phải trình bày trong báo cáo tài chính bởi cả hai chuẩn mực là :



  • Phương pháp xác định nguyên giá TSCĐ hữu hình

  • Phương pháp khấu hao

  • Thời gian sử dụng hữu ích và tỷ lệ khấu hao

  • Nguyên giá, khấu hao lũy kế và giá trị còn lại vào đầu năm và cuối kỳ

  • Nguyên giá TSCĐ hữu hình tăng, giảm trong kỳ

  • Số khấu hao tăng, giảm trong kỳ và lũy kế đến cuối kỳ

  • Chi phí đầu tư xây dựng cơ bản dở dang

  • Các cam kết về việc mua, bán TSCĐ hữu hình có giá trị lớn trong tương lai

  • Giá trị còn lại của TSCĐ hữu hình đó dựng để thế chấp, cầm cố cho các khoản vay

  • Giá trị còn lại của TSCĐ hữu hình đang chờ thanh lý

1.6.2. Những thông tin mà VAS 3 yêu cầu trình bày còn 16 chỉ khuyến khích trình bày:


Ngoài ra, VAS 3 yêu cầu doanh nghiệp phải trình bày thông tin về

  • Giá trị còn lại của TSCĐ hữu hình tạm thời không được sử dụng

  • Nguyên giá của TSCĐ hữu hình đã khấu hao hết nhưng vẫn còn sử dụng

Nhưng IAS 16 chỉ khuyến khích chứ không bắt buộc doanh nghiệp phải trình bày các thông tin đó cho người sử dụng báo cáo tài chính.

1.6.3.Những thông tin mà IAS 16 yêu cầu trình bày nhưng VAS 3 không yêu cầu trình bày:

1.6.3.1. Những thay đổi trong ước tính kế toán:


Cả VAS 3 và IAS 16 cũng yêu cầu doanh nghiệp phải trình bày bản chất và ảnh hưởng của sự thay đổi ước tính kế toán có ảnh hưởng trọng yếu đến kỳ kế toán hiện hành và kỳ kế toán tiếp theo.Tuy nhiên VAS 3 chỉ yêu cầu doanh nghiệp trình bày những sự thay đổi trong các ước tính kế toán liên quan đến phương pháp khấu hao và thời gian sử dụng hữu ích. Còn IAS 16 ngoài yêu cầu trình bày những thông tin đú cũn yêu cầu doanh nghiệp trình bày những thay đổi trong ước tính về giá trị thanh lý của TSCĐ hữu hình và chi phí ước tính cho việc tháo dỡ, di dời TSCĐ và khôi phục lại mặt bằng.

1.6.3.1. Trình bày các thông tin liên quan tới đánh giá lại tài sản:


Ngoài ra, do VAS 3 không cho phép doanh nghiệp được sử dụng phương pháp đánh giá lại nên chỉ có ở IAS 16, ta mới tìm thấy những thông tin về trình bày bào cáo tài chính liên quan tới đánh giá lại tài sản.

Nếu TSCĐ hữu hình được ghi nhận theo giá đánh giá lại, doanh nghiệp phải trình bày những thông tin sau :



  1. Ngày đánh giá lại tài sản

  2. Việc đánh giá lại có sự tham gia của một chuyên viên thẩm định giá chuyên nghiệp không

  3. Phương pháp và những giả định quan trọng được áp dụng trong việc ước tính gia trị hợp lý của tài sản

  4. Phạm vi theo đó giá trị hợp lý của tài sản được xác định một cách trực tiếp bằng cách tham chiếu tới các loại giá cả có thể quan sát được trên một thị trường hoạt động (active market75) hoặc giá cả trong một giao dịch mới được thực hiện trên thị trường trên cơ sở trao đổi ngang giá (on arm’s length terms) hoặc được ước tính sử dụng một phương pháp định giá khác.

  5. Đối với mỗi lớp tài sản được đánh giá lại, trình bày giá trị còn lại của tài sản nếu như tài sản được ghi nhận theo phương pháp giá gốc. IAS 16 cũng khuyến khích doanh nghiệp sử dụng phương pháp giá gốc trinh bày giá trị hợp lý của tài sản nếu như giá trị hợp lý có sự khác biệt lớn với giá trị ghi sổ của tài sản.

  6. Trình bày sự thay đổi trong kỳ kế toán đối với chỉ tiêu thặng dư đánh giá lại tài sản và bất kỳ sự hạn chế nào trong viờc phân chia số dư của khoản mục thặng dư đánh giá lại tài sản cho cổ đông

Ngoài ra, IAS 16 cũng yêu cầu doanh nghiệp trình bày thông tin về sự hạn chế liên quan đến quyền tài sản của doanh nghiệp và định lượng cho sự hạn chế đó. IAS cũng yêu cầu doanh nghiệp nếu nhận được những khoản đền bù từ một bên thứ ba cho tài sản bị giảm giá trị, bị mất hoặc doanh nghiệp từ bỏ quyền sở hữu thì phải trình bày rừ trờn báo cáo tài chính nếu như không được trình bày tách riêng trong báo cáo kết quả kinh doanh.

Каталог: books -> luan-van-de-tai -> luan-van-de-tai-cd-dh
luan-van-de-tai-cd-dh -> Thế kỷ 21, cùng với sự phát triển nh­ vũ bão của khoa học kỹ thuật, của công nghệ thông tin. Sự phát triển kinh tế tác động đến tất cả mọi mặt đời sống kinh tế xã hội
luan-van-de-tai-cd-dh -> VIỆN ĐẠi học mở HÀ NỘi khoa công nghệ thông tin đỒ Án tốt nghiệP ĐẠi họC
luan-van-de-tai-cd-dh -> Phần một : Tình hình thu hút vốn đầu tư trên thị trường vốn việt nam hiện nay
luan-van-de-tai-cd-dh -> TRƯỜng đẠi học cần thơ khoa công nghệ BỘ MÔN ĐIỆn tử viễn thôNG
luan-van-de-tai-cd-dh -> Em xin chân thành cảm ơn! Vị Xuyên, ngày 19 tháng 5 năm 2012 sinh viêN
luan-van-de-tai-cd-dh -> PHẦn I mở ĐẦu tầm quan trọng và SỰ ra đỜi của giấY
luan-van-de-tai-cd-dh -> Đề tài: Tìm hiểu về vấn đề sử dụng hợp đồng mẫu trong đàm phán ký kết hợp đồng mua bán ngoại thương và thực tiễn ở Việt Nam
luan-van-de-tai-cd-dh -> Đề tài phân tích thực trạng kinh doanh xuất khẩu cà phê nhân của các doanh nghiệP
luan-van-de-tai-cd-dh -> Giao tiếp máy tính và thu nhận dữ liệU ĐỀ TÀI: TÌm hiểu công nghệ 4g lte

tải về 0.77 Mb.

Chia sẻ với bạn bè của bạn:
1   ...   4   5   6   7   8   9   10   11   ...   14




Cơ sở dữ liệu được bảo vệ bởi bản quyền ©hocday.com 2024
được sử dụng cho việc quản lý

    Quê hương