UỶ ban thưỜng vụ quốc hội ban dân nguyện kỳ HỌp thứ BẢY quốc hội khoá XII



tải về 4.57 Mb.
trang7/60
Chuyển đổi dữ liệu10.08.2016
Kích4.57 Mb.
#16071
1   2   3   4   5   6   7   8   9   10   ...   60

Trả lời (Tại Công văn số 3611/BCT-KH ngày 9/3/2010 của Bộ Công thương)

Sản xuất lúa gạo trước hết và quan trọng nhất là nhằm mục đích cung ứng đủ cho nhu cầu tiêu dùng trong nước, đảm bảo an ninh lương thực quốc gia, lượng dư thừa mới xuất khẩu. Do đó, việc điều hành xuất khẩu gạo phải đảm bảo các mục tiêu chung. Vì vậy cần phải được điều hành thống nhất trong cả nước dưới sự chỉ đạo và quản lý thống nhất của Chính phủ. Chính phủ giao cho Hiệp hội Lương thực thực hiện một số khâu nghiệp vụ chứ không phải giao cho Hiệp hội thực hiện quản lý nhà nước về điều hành xuất khẩu gạo.

Hiệp hội Lương thực Việt Nam là một tổ chức xã hội nghề nghiệp, hoạt động theo Điều lệ được Bộ Nội vụ phê duyệt phù hợp với pháp luật Việt Nam, được thành lập và giải thể theo các qui định của pháp luật hiện hành.

39. Cử tri thành phố Cần Thơ kiến nghị: Chính phủ yêu cầu các doang nghiệp mua lúa của dân với giá 3.800 đ/kg nhưng thực tế nông dân chỉ bán được với giá từ 3.400 đến 3.600 đ/kg (có nơi chỉ được 3.000 đ). Đề nghị Chính phủ có chỉ đạo xem xét lại việc này.

Trả lời (Tại Công văn số 3611/BCT-KH ngày 9/3/2010 của Bộ Công thương)

Thời gian qua, phần lớn lúa hàng hóa cung ứng cho chế biến gạo xuất khẩu do thương lái trực tiếp mua của nông dân, cho nên có tình trạng ép giá. Nghị định về kinh doanh xuất khẩu gạo sẽ trình Chính phủ ban hành có quy định trách nhiệm của doanh nghiệp xuất khẩu gạo với việc bảo đảm giá mua lúa của nông dân theo chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ và trách nhiệm kiểm tra của chính quyền các cấp để từng bước khắc phục tồn tại này. Vừa qua, Thủ tướng Chính phủ cũng đã có chỉ đạo Bộ Tài chính hướng dẫn việc xác định giá thành sản xuất lúa, làm cơ sở cho UBND các tỉnh công bố giá thu mua lúa vào đầu vụ để nông dân biết. Thực hiện được như vậy sẽ bảo đảm được mức lãi theo chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ cho bà con nông dân.



40. Cử tri tỉnh Trà Vinh kiến nghị: Đề nghị Chính phủ, bộ ngành liên quan kiểm tra, xem xét về vai trò, tổ chức hoạt động của Hiệp hội lương thực Việt Nam, vì từ trong đầu năm 2009 đến nay có nhiều thông tin dư luận trái chiều trong việc phân bổ, điều tiết lượng gạo xuất khẩu cạnh tranh... gây ảnh hưởng không tốt. Cần xem xét lại việc giao chức năng của Hiệp hội, không để lẫn lộn Hiệp hội làm chức năng quản lý nhà nước điều tiết trong việc xuất khẩu gạo.

Trả lời (Tại Công văn số 3611/BCT-KH ngày 9/3/2010 của Bộ Công thương)

Thực hiện nhiệm vụ được Thủ tướng Chính phủ giao chủ trì soạn thảo Nghị định kinh doanh xuất khẩu gạo, Bộ Công Thương đã phối hợp với các bộ, ngành liên quan thành lập Ban soạn thảo và Tổ biên tập. Trong quá trình xây dựng Nghị định, đã nghiên cứu, tổng kết đánh giá những mặt được và chưa được trong công tác điều hành xuất khẩu, trong đó có vấn đề thực thi hoạt động điều phối của Hiệp hội Lương thực Việt Nam. Dự thảo Nghị định đã được lấy ý kiến rộng rãi của các ngành, địa phương, nhà khoa học, Hội nông dân Việt Nam và các tổ chức, cá nhân quan tâm đến vấn đề này và đang được hoàn thiện, bổ sung những tinh thần chỉ đạo mới nhất của Thủ tướng Chính phủ. Trong dự thảo Nghị định đã có các quy định cụ thể, rõ ràng nhằm phát huy ưu điểm, khắc phục những bất cập trong công tác điều phối của Hiệp hội thời gian qua như:

- Quy định rõ trách nhiệm của Hiệp hội tham khảo ý kiến Bộ Công Thương, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, Uỷ ban nhân dân các tỉnh, thành phố vùng Đồng bằng sông Cửu Long trước khi ban hành và thực hiện Quy chế thực hiện hợp đồng tập trung;

- Quy định trách nhiệm của Hiệp hội tham khảo ý các cơ quan trên trước khi ban hành và thực hiện Quy chế đăng ký hợp đồng xuất khẩu gạo;

- Quy định trách nhiệm tổ chức thực hiện đăng ký hợp đồng xuất khẩu; quy định tiêu chí, thời hạn đăng ký hợp đồng, trường hợp ưu tiên đối với thương nhân trong đăng ký hợp đồng xuất khẩu, đảm bảo khách quan, minh bạch, công bằng;

- Quy định rõ trách nhiệm của Hiệp hội trong việc xây dựng nguyên tắc xác định giá sàn gạo xuất khẩu và Quy chế hướng dẫn giá sàn gạo xuất khẩu, thống nhất với Bộ Tài chính, Bộ Công Thương, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn trước khi ban hành;

- Quy định rõ trách nhiệm của Hiệp hội trong việc hướng dẫn thương nhân mua thóc, gạo hàng hoá với mức giá không thấp hơn mức giá mua do cơ quan có thẩm quyền công bố;

- Quy định rõ trách nhiệm của Hiệp hội trong việc chỉ đạo, hướng dẫn thương nhân kinh doanh xuất khẩu gạo thực hiện kế hoạch mua thóc gạo trực tiếp từ nông dân và mua theo hợp đồng tiêu thụ nông sản ký với người sản xuất theo Quyết định số 80/2002/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ;

- Quy định trách nhiệm chủ trì, phối hợp với các Bộ, ngành, địa phương liên quan tổ chức, hướng dẫn thương nhân thu mua thóc, gạo hàng hoá và việc duy trì mức dự trữ lưu thông bắt buộc của thương nhân theo quy định;

- Tổ chức cung cấp thông tin cho thương nhân kinh doanh xuất khẩu gạo, Uỷ ban nhân dân và Sở Công Thương tỉnh, thành phố để phổ biến cho thương nhân và nông dân về tình hình cung - cầu gạo, thị trường trong và ngoài nước, khách hàng nhập khẩu, giá cả và dự báo thương mại gạo, từng bước thiết lập hệ thống thông tin về xuất khẩu và tiêu thụ thóc, gạo;

- Chủ động tìm kiếm, mở rộng thị trường xuất khẩu gạo; hướng dẫn các thương nhân kinh doanh xuất khẩu gạo chủ động đàm phán, ký kết hợp đồng xuất khẩu đảm bảo tiêu thụ hết thóc, gạo hàng hoá cho nông dân, bàn bạc thống nhất, liên kết giữa các thương nhân trong việc giao dịch ký kết hợp đồng xuất khẩu gạo để nâng cao hiệu quả xuất khẩu;

- Định kỳ báo cáo hàng tuần, hàng tháng, hàng quý về diễn biến tình hình giá mua thóc, gạo; giá thóc, gạo xuất khẩu; lượng gạo tồn kho dự trữ lưu thông của thương nhân kinh doanh xuất khẩu gạo; Kịp thời báo cáo các Bộ, ngành liên quan những vấn đề phát sinh vượt thẩm quyền và đề xuất biện pháp xử lý.



41. Cử tri tỉnh Quảng Ngãi kiến nghị: Về thời hạn hỗ trợ lãi suất vay theo Quyết định số 497/QĐ-TTg ngày 17/4/2009 về việc hỗ trợ lãi suất vay mua máy móc thiết bị, vật tư phục vụ sản suất nông nghiệp và vật liệu xây dựng nhà ở khu vực nông thôn: Cử tri đề nghị Ngân hàng Nhà nước tham mưu trình Chính phủ cho phép kéo dài thời hạn hỗ trợ lãi suất để nhân dân có thời gian thu hồi vốn đối với các khoản vay ưu đãi theo Quyết định trên. Đồng thời, nghiên cứu đơn giản các thủ tục và hình thức cho vay để người dân dễ dàng tiếp cận nguồn vốn vay ưu đãi.

Trả lời (Tại Công văn số 3153/BCT-KH ngày 30/3/2010 của Bộ Công thương)

Để tháo gỡ khó khăn, vướng mắc trong quá trình triển khai Quyết định số 497/QĐ-TTg, thực hiện ý kiến chỉ đạo của Chính phủ, trên cơ sở thống nhất với các Bộ, ngành, ngày 30 tháng 11 năm 2009 Bộ Công Thương đã có Tờ trình số 12073/TTr-BCT trình Thủ tướng Chính phủ về việc sửa đổi bổ sung QĐ 497 kèm theo dự thảo Quyết định sửa đổi, bổ sung.

Ngày 31 tháng 12 năm 2009, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số 2213/QĐ-TTg về việc sửa đổi, bổ sung một số điều của QĐ 497. Trong đó quy định các khoản vay theo hợp đồng tín dụng được ký kết, giải ngân từ ngày 1/1/2010 đến ngày 31/12/2010 để mua:

- Các sản phẩm máy móc, thiết bị cơ khí, phương tiện phục vụ sản xuất, chế biến nông nghiệp và máy tính có thời hạn vay được hỗ trợ lãi suất tối đa là 24 tháng ;

- Các sản phẩm vật tư nông nghiệp và vật liệu xây dựng các loại làm nhà ở có thời hạn vay được hỗ trợ lãi suất tối đa là 12 tháng.

- Về thủ tục vay vốn cũng đã được quy định tại Thông tư số 02/2010/TT-NHNN ngày 22 tháng 01 năm 2010 của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam về việc hướng dẫn thực hiện Quyết định số 2213/QĐ-TTg.

Việc tuân thủ các thủ tục vay là cần thiết, theo đúng qui định của pháp luật và để bảo đảm an toàn tiền vay cho các tổ chức tín dụng cũng như bảo đảm hỗ trợ lãi suất được đúng đối tượng, tránh tình trạng sai mục đích.

Hiện nay, hệ thống Ngân hàng Nông nghiệp Việt Nam đều áp dụng hình thức sổ vay vốn, thủ tục được đơn giản hóa như đơn xin vay và phương án sản xuất kinh doanh được đưa vào chung một giấy, đồng thời Ngân hàng đã soạn thảo sẵn hợp đồng để người vay chỉ việc điền và ký. Bên cạnh đó, ngành Ngân hàng đang xây dựng Nghị định về tín dụng phục vụ phát triển nông nghiệp nông thôn nhằm tạo cơ sở pháp lý rõ ràng, thuận tiện, đơn giản trong thủ tục vay vốn nhằm tăng khả năng tiếp cận các chương trình vay vốn hỗ trợ phát triển nông nghiệp, nông thôn, hỗ trợ chế biến tiêu thụ nông sản cho nông dân.



42. Cử tri tỉnh Hòa Bình kiến nghị:Nhà nước nên thống nhất cơ quan quản lý giáo dục vào một đầu mối, không tách rời cơ quan quản lý nhà nước về giáo dục và cơ quan quản lý nhà nước về dạy nghề. Xác định nhu cầu đào tạo và nhu cầu xã hội về nhân lực lao động để đào tạo. Tăng cường hội nhập quốc tế về hợp tác đào tạo.

Trả lời: (Tại Công văn số 1599/BGDĐT-VP ngày 30/3/2010 của Bộ Giáo dục và đào tạo)

a) Về việc thống nhất cơ quan quản lý giáo dục vào một đầu mối, không tách rời cơ quan quản lý nhà nước về giáo dục và cơ quan quản lý nhà nước về dạy nghề:

Căn cứ theo Luật Giáo dục 2005, Chính phủ là cơ quan thống nhất quản lý nhà nước về giáo dục. Bộ Giáo dục và Đào tạo chịu trách nhiệm trước Chính phủ thực hiện quản lý nhà nước về giáo dục (Điều 100, Luật Giáo dục 2005). Hiện nay, theo sự phân công của Chính phủ, có sự tách rời giữa Bộ Giáo dục và Đào tạo là cơ quan quản lý nhà nước về giáo dục và Bộ Lao động, Thương binh và Xã hội là cơ quan quản lý nhà nước về dạy nghề. Do vậy, việc thống nhất quản lý về một đầu mối thuộc thẩm quyền của Chính phủ, không thuộc thẩm quyền của Bộ Giáo dục và Đào tạo.



b) Về xác định nhu cầu đào tạo và nhu cầu xã hội về nhân lực lao động để đào tạo:

Theo chức năng nhiệm vụ được Chính phủ phân công, Bộ Giáo dục và Đào tạo đã triển khai một số công việc sau:

- Đã hình thành Trung tâm phân tích và dự báo nhu cầu đào tạo (năm 2009) đặt tại Viện Khoa học Giáo dục Việt Nam có chức năng phân tích xu hướng việc làm, nhu cầu đào tạo, nhu cầu nhân lực để cung cấp cơ sở dữ liệu cho các cơ sở đào tạo, cơ quan quản lý nhà nước để xây dựng kế hoạch, quy hoạch nhân lực và mạng lưới cơ sở đào tạo.

- Đã hình thành Trung tâm Hỗ trợ và Cung ứng nhân lực trực thuộc Bộ Giáo dục và Đào tạo có vai trò làm cầu nối giữa nhà trường - doanh nghiệp và với người học nhằm cung ứng nhân lực cho các doanh nghiệp có nhu cầu, đồng thời chỉ đạo hình thành các Trung tâm tương tự ở các địa phương để cung ứng nhân lực cho doanh nghiệp trên cơ sở phối hợp với các cơ sở đào tạo trên địa bàn hoặc khu vực.

- Mỗi cơ sở giáo dục đại học đều hình thành các Trung tâm tư vấn việc làm sinh viên và hỗ trợ doanh nghiệp để tạo đầu ra cho sinh viên đồng thời xúc tiến các hoạt động hợp tác hỗ trợ đào tạo từ phía doanh nghiệp. Trung tâm này sẽ có nhiệm vụ thống kê số sinh viên tốt nghiệp sau 1 năm có việc làm để công bố công khai cho các doanh nghiệp và xã hội biết về mức độ đáp ứng nhu cầu nhân lực của nhà trường.

Ngoài ra, Bộ Giáo dục và Đào tạo đã tham mưu cho Thủ tướng Chính phủ thành lập Ban Chỉ đạo quốc gia về đào tạo theo nhu cầu xã hội giai đoạn 2008-2015 nhằm giúp Thủ tướng trong việc ban hành chính sách, cơ chế và điều phối chương trình, nguồn lực để đào tạo nhân lực đáp ứng nhu cầu doanh nghiệp. Đồng thời, đại diện của các Bộ, ngành tham gia Ban Chỉ đạo sẽ cung cấp nhu cầu nhân lực lao động thuộc ngành mình để tổng hợp chung trong chương trình quốc gia. Trên cơ sở đó Ban Chỉ đạo quốc gia tham mưu với Thủ tướng chọn ra những chương trình ưu tiên nhất về đào tạo nhân lực. Như vậy sẽ tránh chồng chéo trong việc sử dụng nguồn lực để phát triển nguồn nhân lực đáp ứng nhu cầu cấp bách của ngành cũng như địa phương.

Bộ Giáo dục và Đào tạo cũng đang xây dựng văn bản hướng dẫn quy hoạch phát triển nhân lực cho các Bộ, ngành và địa phương. Hiện nay, hầu hết các Bộ ngành và địa phương chưa có quy hoạch phát triển nhân lực cũng như chiến lược phát triển nhân lực. Bộ Giáo dục và Đào tạo mong muốn các cử tri quan tâm đến mặt công tác quy hoạch nhân lực của địa phương mình để cùng với Bộ Giáo dục và Đào tạo làm tốt công tác đào tạo nhân lực cho địa phương nói riêng cũng như cho đất nước nói chung.

c) Về việc tăng cường hội nhập quốc tế về hợp tác đào tạo

Tăng cường hợp tác quốc tế về giáo dục và đào tạo là một trong bảy nhóm nhiệm vụ, giải pháp được Bộ Chính trị đưa ra trong Thông báo Kết luận số 242/TB-TW ngày 15 tháng 4 năm 2009 về tiếp tục thực hiện Nghị quyết Trung ương 2 (Khoá VIII), phương hướng phát triển giáo dục và đào tạo đến năm 2020; Thông báo Kết luận chỉ rõ:

Giáo dục trong thời kỳ hội nhập quốc tế càng cần phải bảo đảm phát triển bền vững, không ngừng nâng cao chất lượng, phát huy tối đa nội lực, giữ vững độc lập, tự chủ và định hướng xã hội chủ nghĩa, từng bước tiếp cận nền giáo dục tiên tiến trên thế giới. Mở rộng hợp tác đào tạo đa phương gắn với việc tăng cường công tác quản lý nhà nước.

Có cơ chế, chính sách thu hút các nguồn đầu tư nước ngoài cho giáo dục, nhất là lĩnh vực đào tạo đại học, sau đại học và dạy nghề; thu hút các nhà giáo, nhà khoa học giỏi người nước ngoài tham gia đào tạo, nghiên cứu khoa học ở các cơ sở giáo dục đại học, sau đại học.

Thực hiện tốt việc đưa cán bộ, học sinh, sinh viên có đạo đức và triển vọng đi đào tạo ở nước ngoài, chú trọng các ngành mà đất nước có nhu cầu bức thiết; đồng thời tăng cường quản lý, giúp đỡ việc học tập, sinh hoạt của lưu học sinh ở nước ngoài.”

Thực hiện Kết luận 242 của Bộ Chính trị, trong thời gian qua, ngành giáo dục và đào tạo đã triển khai nhiều hoạt động nhằm tăng cường công tác hợp tác quốc tế trong giáo dục và đào tạo, đặc biệt là trong giáo dục đại học. Thể hiện ở những hoạt động chính sau đây:

- Tăng cường hợp tác về giáo dục với các nước và tổ chức quốc tế, thông qua việc ký kết các Thoả thuận và Điều ước quốc tế, tham gia các diễn đàn, hội nghị, hội thảo quốc tế để trao đổi thông tin, trao đổi kinh nghiệm, nghiên cứu và đề xuất sáng kiến, giải pháp nhằm thúc đẩy phát triển giáo dục.

- Tận dụng các nguồn học bổng ngắn hạn, dài hạn của nước ngoài, dành ngân sách nhà nước để gửi giảng viên, cán bộ nghiên cứu, sinh viên đi đào tạo, thực tập, nghiên cứu tại các cơ sở giáo dục tiên tiến nước ngoài nhằm tăng nhanh số lượng giảng viên có trình độ thạc sĩ, tiến sĩ trong các trường đại học và cao đẳng, như “ Đề án đào tạo cán bộ ở các cơ sở giáo dục nước ngoài bằng ngân sách nhà nước” (ĐA 322); “Hiệp định xử lý nợ với Liên bang Nga”; “Quỹ Giáo dục Việt Nam – Hoa Kỳ” (VEF); Đề án “Đào tạo tiến sỹ cho giảng viên các trường đại học, cao đẳng”. Đồng thời, có cơ chế, chính sách ưu tiên, trọng dụng những người giỏi đã được đào tạo ở nước ngoài trở về công tác tại các trường đại học, cao đẳng.

- Tăng cường công tác quản lý lưu học sinh đang được đào tạo ở nước ngoài, trên cơ sở triển khai thực hiện tốt Quyết định số 23/2001/QĐ-BGD&ĐT của Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo về việc ban hành Quy chế quản lý công dân Việt Nam đang được đào tạo ở nước ngoài. Khuyến khích học sinh, sinh viên du học tự túc ở nước ngoài thực hiện đăng ký công dân; bảo hộ các quyền và lợi ích hợp pháp của công dân Việt Nam đang học tập và làm việc ở nước ngoài.

- Khuyến khích các cơ sở giáo dục, đặc biệt là cơ sở giáo dục đại học, cơ sở giáo dục nghề nghiệp hợp tác với nước ngoài nhằm trao đổi kinh nghiệm, trao đổi thông tin, nâng cao trình độ ngoại ngữ, chuyên môn, nghiệp vụ, tiến hành đào tạo và nghiên cứu chung; thu hút chuyên gia giỏi của nước ngoài vào giảng dạy, bồi dưỡng giáo viên, nghiên cứu khoa học và trao đổi về khoa học quản lý giáo dục.

- Tranh thủ các nguồn viện trợ thông qua các chương trình, dự án hợp tác với các nước, các tổ chức quốc tế, các tổ chức phi chính phủ để đầu tư cho giáo dục, ưu tiên cho phát triển giáo dục ở những vùng khó khăn.

- Hoàn chỉnh hệ thống văn bản pháp lý nhằm khuyến khích hợp tác, đầu tư của nước ngoài trong giáo dục, nâng cao hiệu quả quản lý các hoạt động hợp tác quốc tế trong giáo dục và đào tạo.

Bộ Giáo dục và Đào tạo hiện đang soạn thảo Nghị định quy định về hợp tác, đầu tư của nước ngoài trong lĩnh vực giáo dục nhằm thay thế cho Nghị định số 06/2000/NĐ-CP ngày 6/3/2000 của Chính phủ quy định về việc hợp tác đầu tư với nước ngoài trong lĩnh vực khám chữa bệnh, giáo dục đào tạo, nghiên cứu khoa học và Nghị định số 18/2001/NĐ-CP ngày 04/05/2001 của Chính phủ quy định về lập và hoạt động của cơ sở văn hoá, giáo dục nước ngoài tại Việt Nam. Văn bản này sẽ là cơ sở pháp lý quan trọng để cho phép các tổ chức, cá nhân nước ngoài đầu tư trong giáo dục, tập trung ở 3 lĩnh vực lớn là: liên kết đào tạo với nước ngoài, thành lập cơ sở giáo dục có vốn đầu tư nước ngoài và mở văn phòng đại diện giáo dục nước ngoài.

43. Cử tri các tỉnh Bình Thuận, Bắc Giang, An Giang, Tây Ninh kiến nghị: Đề nghị Chính phủ quan tâm đầu tư giáo dục, nâng cao dân trí, phát triển nhân tài; nhiều hộ nông dân còn khó khăn về cuộc sống nhưng cũng phải cố gắng đầu tư cho con học đại học, nhưng tình hình hiện nay giá cả tiêu dùng tăng cao, nhất là giá thuê phòng trọ, điện, nước sinh hoạt, nhiều gia đình không đủ tiền để lo cho con ăn học. Đề nghị Chính phủ quan tâm tăng mức cho vay vốn sinh viên từ 8.000.000 đ/năm lên 15.000.000 đ/năm và sớm đầu tư ký túc xá sinh viên ở các trường để các em có điều kiện ăn ở, sinh hoạt trong quá trình học tập.

Trả lời: (Tại Công văn số 1599/BGDĐT-VP ngày 30/3/2010 của Bộ Giáo dục và đào tạo)

a, Về tín dụng đào tạo:

Trong những năm qua, Chính phủ luôn dành sự quan tâm đầu tư cho giáo dục, nâng cao dân trí, phát triển nhân tài. Ngày 04/9/2007, Thủ tướng Chính phủ đã có Chỉ thị số 21/CT-TTg về thực hiện chế độ cho vay ưu đãi để học đại học, cao đẳng, trung cấp chuyên nghiệp và dạy nghề và Quyết định số 157/2007/QĐ-TTg ngày 27/9/2007 của Thủ tướng Chính phủ về tín dụng học sinh, sinh viên. Chính sách tín dụng đối với học sinh, sinh viên được áp dụng để hỗ trợ cho học sinh, sinh viên có hoàn cảnh khó khăn góp phần trang trải chi phí cho việc học tập, sinh hoạt của học sinh, sinh viên trong thời gian theo học tại trường bao gồm: tiền học phí; chi phí mua sắm sách vở, phương tiện học tập, chi phí ăn, ở, đi lại. Đây là mức Nhà nước hỗ trợ một phần chi phí sinh hoạt, học tập. Khi chính sách học phí của Nhà nước có thay đổi và giá cả sinh hoạt có biến động, Ngân hàng Chính sách xã hội thống nhất với Bộ trưởng Bộ Tài chính trình Thủ tướng Chính phủ xem xét, quyết định điều chỉnh mức vốn cho vay (Điều 5 khoản 3 QĐ 157/2007/QĐ-TTg).

Việc thực hiện chế độ chính sách và các hoạt động hỗ trợ học sinh, sinh viên được quan tâm, đẩy mạnh. Công tác tín dụng đối với học sinh, sinh viên theo Quyết định số 157/2007/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ được chỉ đạo sát sao. Tính đến ngày 15/12/2009, dư nợ của chương trình đạt 18.031 tỷ đồng, số hộ gia đình hiện đang vay vốn là 1.528 nghìn hộ, với 1.669 nghìn học sinh, sinh viên đang được thụ hưởng chính sách tín dụng ưu đãi của Chính phủ.

Ngày 26/8/2009, Thủ tướng Chính phủ đã có Quyết định số 1344/QĐ-TTg về điều chỉnh mức cho vay đối với học sinh, sinh viên, theo đó Chính phủ đã quan tâm điều chỉnh mức vay hiện nay từ 800.000/tháng/học sinh, sinh viên lên 860.000/tháng/học sinh, sinh viên.



b, Về vấn đề xây dựng ký túc xá sinh viên:

Những năm qua, học sinh, sinh viên các trường Đại học, cao đẳng, trung học chuyên nghiệp và dạy nghề có nhiều khó khăn về chỗ ở. Để giải quyết vấn đề này, ngày 20/4/2009, Chính phủ đã ban hành Nghị quyết số 18/NQ-CP về một số cơ chế, chính sách nhằm đẩy mạnh phát triển nhà ở cho học sinh, sinh viên các cơ sở đào tạo. Triển khai thực hiện Nghị quyết số 18/NQ-CP, Thủ tướng Chính phủ đã có Quyết định số 65/2009/QĐ-TTg ngày 24/4/2009 ban hành một số cơ chế, chính sách phát triển nhà ở cho sinh viên các trường đại học, cao đẳng, trung cấp chuyên nghiệp và dạy nghề thuê. Tại khoản 4 Điều 10 của Quyết định này, Thủ tướng Chính phủ giao cho Bộ Xây dựng chủ trì, phối hợp với các Bộ, ngành liên quan và Ủy ban nhân dân các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương xây dựng chương trình và kế hoạch hàng năm đầu tư xây dựng nhà ở sinh viên giai đoạn 2009-2015. Giai đoạn 2009-2010 Chính phủ dành khoảng 8.000 tỷ đồng từ nguồn trái phiếu Chính phủ để đầu tư xây dựng nhà ở cho sinh viên. Theo kế hoạch đến hết năm 2010, xây dựng 200.000 chỗ ở cho sinh viên; đến năm 2015, phấn đấu 60% sinh viên có chỗ ở tại ký túc xá.

Năm 2009, Bộ Giáo dục và Đào tạo đã phối hợp chặt chẽ với Bộ Xây dựng triển khai đầu tư cho tỉnh Thái Bình 37 tỷ đồng để thực hiện dự án “Cụm nhà ở sinh viên thành phố Thái Bình khu I” và “Cụm nhà ở sinh viên thành phố Thái Bình khu II” (theo Quyết định số 1308/QĐ-TTg ngày 20/8/2009 của Thủ tướng Chính phủ).

Năm 2010 dự kiến (theo báo cáo số 98/BC-BXD ngày 17/12/2009 của Bộ Xây dựng):

- Bố trí 43 tỷ đồng cho tỉnh Thái Bình để hoàn thành 02 dự án đã đầu tư năm 2009. Khi dự án hoàn thành sẽ giải quyết được chỗ ở cho 3200 sinh viên.

- Bố trí 36 tỷ đồng cho tỉnh Lào Cai để thực hiện dự án “Khu nhà ở sinh viên tỉnh Lào Cai”. Dự án hoàn thành trong năm 2010 và giải quyết được chỗ ở cho 1440 sinh viên.

- Bố trí 24 tỷ đồng cho tỉnh Bắc Kạn để thực hiện 02 dự án “Khu nhà ở sinh viên trường Cao đẳng Sư phạm Bắc Kạn” và “Khu nhà ở sinh viên trường Trung cấp Y tế Bắc Kạn”. 02 dự án hoàn thành trong năm 2010 và giải quyết được chỗ ở cho 960 sinh viên.

Kế hoạch những năm tiếp theo: để tiếp tục đáp ứng nhu cầu Ký túc xá cho học sinh, sinh viên các trường đại học, cao đẳng và dạy nghề tại các địa phương, đề nghị địa phương chủ động xây dựng và báo cáo nhu cầu đầu tư gửi Bộ Xây dựng tổng hợp trình Thủ tướng Chính phủ xem xét đầu tư giai đoạn 2011-2015 để đáp ứng nhu cầu thực tế của các tỉnh.



44. Cử tri các tỉnh Đà Nẵng, Lao Cai nêu ý kiến: Giáo dục và Đào tạo là lĩnh vực đang được Đảng và Nhà nước rất quan tâm. Thực tế cho thấy, trong những năm qua, mặc dù Nhà nước đã quan tâm đầu tư lớn về cơ sở vật chất và đào tạo nguồn nhân lực nhưng chất lượng giáo dục chưa được cải thiện nhiều. Cử tri đề nghị Chính phủ chỉ đạo làm rõ nguyên nhân và có giải pháp xử lý.

Trả lời: (Tại Công văn số 1599/BGDĐT-VP ngày 30/3/2010 của Bộ Giáo dục và đào tạo)

Được sự quan tâm đầu tư của Đảng, Nhà nước về cơ sở vật chất, nguồn nhân lực cho ngành giáo dục và đào tạo, những năm qua toàn ngành đã nỗ lực phấn đấu, đề ra nhiều giải pháp, phát động các cuộc vận động nhằm nâng cao chất lượng giáo dục phổ thông, bước đầu đạt được một số kết quả:



1) Kết quả đạt được:

a, Đối với giáo dục mầm non, giáo dục phổ thông:

Sau 20 năm đổi mới và 5 năm thực hiện Chiến lược phát triển giáo dục giai đoạn 2001-2010, mạng lưới cơ sở giáo dục mầm non và phổ thông đã phát triển rộng khắp trên cả nước, cơ bản đáp ứng được nhu cầu học tập đa dạng của nhân dân, hầu hết các địa phương đã chủ động hoàn chỉnh quy hoạch mạng lưới trường lớp, xây dựng thêm trường học ở các địa bàn đông dân cư, đầu tư kinh phí xây dựng cơ sở vật chất, kiên cố hóa trường lớp ở các vùng kinh tế - xã hội khó khăn; giáo dục đại học phát triển rõ rệt về quy mô, đa dạng hóa về loại hình và các hình thức đào tạo, bước đầu điều chỉnh cơ cấu hệ thống, cải tiến chương trình, quy trình đào tạo và huy động được nhiều nguồn lực xã hội.

Hệ thống giáo dục quốc dân được hoàn thiện hơn với các cấp, bậc học, trình độ đào tạo, các loại hình và phương thức giáo dục.

Công bằng xã hội trong giáo dục được cải thiện, đặc biệt là tăng cơ hội tiếp cận giáo dục đối với trẻ em gái, người dân tộc thiểu số và con em các gia đình nghèo, các đối tượng bị thiệt thòi trong xã hội; giáo dục ở vùng đồng bào các dân tộc thiểu số, vùng sâu, vùng xa tiếp tục phát triển.

Các loại hình nhà trường ngày càng được đa dạng hóa, thu hút được nhiều người học; các trường công lập đã giữ được vai trò nòng cốt trong phổ cập giáo dục và đào tạo nguồn nhân lực, quy mô giáo dục ngoài công lập phát triển.

Thực hiện Chỉ thị số 33/2006/CT-TTg ngày 08 tháng 9 năm 2006 về chống tiêu cực trong thi cử và bệnh thành tích trong giáo dục, bắt đầu từ năm học 2006-2007, toàn ngành đã tích cực triển khai thực hiện thông qua cuộc vận động “Hai không” của ngành “Nói không với tiêu cực trong thi cử và bệnh thành tích trong giáo dục”. Cuộc vận động “Hai không” là khâu đột phá để đổi mới giáo dục phổ thông và mầm non giai đoạn 2006-2010. Qua hơn 3 năm triển khai, trật tự, kỷ cương thi cử trong toàn ngành đã chuyển biến căn bản, ý thức tự giác học tập của học sinh được nâng lên, thể hiện rõ nét qua kỳ thi tốt nghiệp trung học phổ thông, bổ túc trung học phổ thông các năm 2007, 2008, 2009. Về cơ bản các kỳ thi vừa qua được tổ chức nghiêm túc và ngày càng nghiêm túc hơn, được dư luận xã hội đồng tình, ủng hộ.

Chính từ kết quả thực chất của kỳ thi tốt nghiệp trung học phổ thông và bổ túc trung học phổ thông năm 2007 (lần 1) chỉ đạt 66,7%, có nhiều địa phương đạt dưới 50% (trong khi đó năm 2006 đạt 94%), cấp ủy và chính quyền các địa phương đã chỉ đạo công tác giáo dục tập trung hơn, hiệu quả hơn, chất lượng giáo dục thực tế dần được nâng lên: năm 2008 tỷ lệ tốt nghiệp trung học phổ thông và bổ túc trung học phổ thông (lần 1) là 76% (tăng hơn 9% so với năm 2007); năm 2009 tỷ lệ tốt nghiệp là 83% (không tổ chức thi tốt nghiệp lần 2), tăng 7% so với năm 2008, tăng 16% so với năm 2007.

Bằng nhiều biện pháp chỉ đạo kiên quyết của ngành cùng với sự hỗ trợ tích cực của gia đình và các đoàn thể xã hội, số học sinh bỏ học giảm đáng kể qua các năm, cụ thể: năm học 2007-2008 số học sinh bỏ học là 215.163 em (chiếm tỷ lệ 1,37%); năm học 2008-2009 là 168.047 em (chiếm tỷ lệ 1,09 %). Như vậy học sinh bỏ học năm học 2008-2009 giảm 47.161 em (giảm 22%) so với năm học trước.

Tính đến tháng 9/2009, có 48/63 tỉnh, thành phố đạt chuẩn phổ cập tiểu học đúng độ tuổi (đạt 76,1%); 56/63 tỉnh, thành phố đạt chuẩn cập giáo dục THCS (đạt 88,9%).

Ngân sách nhà nước đầu tư cho giáo dục tăng nhanh (Tổng chi ngân sách Nhà nước cho giáo dục và đào tạo năm học 2008-2009 là 91.986 tỉ đồng). Việc huy động nguồn lực trong xã hội đầu tư cho giáo dục thông qua chủ trương xã hội hoá đạt hiệu quả khá. Các nguồn lực đầu tư cho giáo dục ngày càng được kiểm soát và tăng dần hiệu quả sử dụng.

Từ năm học 2002-2003 đến năm học 2008-2009 Bộ Giáo dục và Đào tạo tổ chức thực hiện đổi mới chương trình, sách giáo khoa phổ thông. Trong quá trình thực hiện, tháng 5/2008 Bộ Giáo dục và Đào tạo đã tổ chức để giáo viên, cán bộ quản lý giáo dục ở các tỉnh, thành phố và một số tổ chức xã hội (Hội Cựu Giáo chức Việt Nam, Hội Khuyến học Việt Nam, Liên hiệp các hội KHKT Việt Nam) đánh giá một cách toàn diện chương trình, sách giáo khoa ở tất cả các môn học và tất cả các lớp học. Năm 2009 Bộ Giáo dục và Đào tạo tiếp tục tổ chức Hội nghị đánh giá 3 năm thực hiện chương trình, sách giáo khoa cấp THPT. Về cơ bản, chương trình giáo dục các cấp học, môn học đã đảm bảo được tính chính xác, khoa học, hiện đại, cập nhật và tiếp cận được trình độ giáo dục ở các nước phát triển trong khu vực, đáp ứng xu thế phát triển xã hội Việt Nam trong thời kỳ hội nhập quốc tế; nội dung và yêu cầu của chương trình ở nhiều môn học phù hợp với trình độ phát triển tâm sinh lý học sinh; chương trình có chú ý đến sự phân hoá trình độ nhận thức của học sinh, chú ý đến tính liên thông giữa các môn học, cấp học; đảm bảo nguyên tắc kế thừa và phát triển từ các chương trình giáo dục trước đây. Tổ chức Hội thảo Đổi mới kiểm tra đánh giá thúc đẩy đổi mới phương pháp dạy học các bộ môn: Ngữ văn, Lịch sử, Địa lí tại Cần Thơ vào tháng 04 năm 2009 để định hướng trong công tác quản lý, chỉ đạo dạy học của các Sở Giáo dục và Đào tạo và các trường phổ thông.

b, Đối với giáo dục đại học:

Những thành tựu nổi bật của giáo dục đại học sau 23 năm đổi mới

- Cung cấp hàng triệu nhân lực có trình độ cao đẳng, đại học, hàng vạn lao động có trình độ thạc sĩ, tiến sĩ cho đất nước. Đây là lực lượng chủ lực, nòng cốt của quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, của phát triển đất nước trong thời kỳ đổi mới và hội nhập quốc tế.

- Năng lực đào tạo tăng hơn 3 lần (376 trường đại học, cao đẳng với 61.150 giảng viên so với 101 trường đại học, cao đẳng và 20.212 giảng viên, 6.217 giảng viên là tiến sĩ so với 2.041, 2.286 GS, PGS so với 526 GS, PGS), quy mô đào tạo tăng gần 13 lần (1,7 triệu sinh viên so với 133.136 sinh viên).

- Hệ thống cơ sở đào tạo đại học đã phủ gần kín cả nước (62/63 tỉnh, thành phố đã có đại học hoặc cao đẳng).

- Đầu tư của nhà nước cho giáo dục đại học tăng nhanh, cơ chế tài chính cho giáo dục đại học đã bắt đầu được đổi mới. Nguồn lực của xã hội đầu tư cho giáo dục đại học tăng nhanh (có 81 trường đại học, cao đẳng ngoài công lập, chiếm 21,5% số trường).

- Đào tạo theo nhu cầu xã hội, đáp ứng yêu cầu doanh nghiệp, công khai, minh bạch, nâng cao chất lượng đào tạo.

- Đã bắt đầu hình thành hệ thống quản lý chất lượng giáo dục đại học trong cả nước và cơ chế nhà nước, nhà trường và người dân giám sát chất lượng giáo dục và đầu tư cho giáo dục.

- Quan hệ quốc tế phát triển tương đối nhanh cả cấp quốc gia và cấp trường.

Có được những kết quả trên trong hoàn cảnh đất nước còn nhiều khó khăn là do sự nỗ lực không ngừng của toàn Ðảng, toàn dân ta, sự đóng góp to lớn của đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lý giáo dục. Những thành tựu nói trên đã khẳng định vai trò quan trọng của giáo dục trong việc nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài cho đất nước, góp phần quan trọng vào sự phát triển kinh tế-xã hội, giữ vững an ninh chính trị của đất nước trong hơn 20 năm đổi mới, tạo điều kiện cho đất nước tham gia vào quá trình hội nhập quốc tế.



2) Những hạn chế, nguyên nhân:

So với yêu cầu phát triển của đất nước, giáo dục Việt Nam vẫn còn nhiều hạn chế, yếu kém. Giáo dục và đào tạo chưa thật sự là quốc sách hàng đầu. Mặc dù được tăng đầu tư tài chính nhưng hiệu quả sử dụng chưa cao; công tác tổ chức, cán bộ, chế độ, chính sách chậm đổi mới. Chất lượng giáo dục còn thấp so với nhu cầu phát triển đất nước trong thời kỳ hội nhập, không đồng đều giữa các vùng, miền; quan tâm đến phát triển số lượng nhiều hơn chất lượng. Việc thẩm định cho phép thành lập mới các trường cao đẳng, đại học chưa thật chặt chẽ, dẫn đến chất lượng đào tạo thấp, nhất là ở các trường ngoài công lập và các trường của địa phương. Hệ thống giáo dục thiếu đồng bộ, chưa liên thông giữa các cấp học, ngành học và trình độ đào tạo; mất cân đối về cơ cấu đào tạo theo vùng, miền, cơ cấu trình độ và ngành nghề đào tạo. Việc giáo dục tư tưởng đạo đức, lối sống cho học sinh, sinh viên chưa đáp ứng mong muốn của các gia đình và đòi hỏi của sự phát triển đất nước.

Chương trình, giáo trình, phương pháp giáo dục chậm đổi mới, chưa chú trọng phát huy tính sáng tạo, năng lực thực hành của học sinh, sinh viên; áp lực thi cử còn nặng.

Công tác quản lý giáo dục còn nhiều hạn chế, cơ chế quản lý giáo dục chậm đổi mới, chưa theo kịp sự đổi mới của đất nước. Hệ thống luật pháp và các chính sách về giáo dục chưa hoàn chỉnh. Việc chia cắt các nhiệm vụ quản lý nhà nước về giáo dục giữa Bộ Giáo dục và Đào tạo với các bộ, ngành khác đã làm cho công tác quản lý nhà nước đối với hệ thống giáo dục còn chồng chéo, phân tán, thiếu thống nhất.

Những hạn chế nêu trên là do thiếu sự chỉ đạo chặt chẽ, thường xuyên của các cấp quản lý, chậm cụ thể hóa những quan điểm của Ðảng thành cơ chế, chính sách của Nhà nước; thiếu những quyết sách đồng bộ, hợp lý ở tầm vĩ mô. Tư duy giáo dục chưa theo kịp yêu cầu đổi mới, phát triển đất nước, trong bối cảnh hội nhập quốc tế. Những tác động mặt trái của cơ chế thị trường và những khó khăn của đất nước đã ảnh hưởng nhiều đến sự nghiệp phát triển giáo dục. Tâm lý khoa cử, bằng cấp vẫn chi phối nặng nề việc học và thi cử. Chậm đổi mới cơ chế, chính sách tài chính giáo dục để động viên hợp lý các nguồn lực xã hội phát triển giáo dục và sử dụng các nguồn lực cho giáo dục hiệu quả cao.

4) Giải pháp đồng bộ để cải thiện chất lượng giáo dục:

Để đổi mới căn bản, toàn diện nền giáo dục Việt Nam, Chính phủ tập trung chỉ đạo ngành giáo dục thực hiện các nhóm nhiệm vụ và giải pháp căn bản sau đây:

- Triển khai thực hiện Thông báo kết luận số 242-TB/TW ngày 15/4/2009 của Bộ Chính trị về tiếp tục thực hiện Nghị quyết Trung ương 2 (khóa VIII), phương hướng phát triển giáo dục và đào tạo đến năm 2020; Nghị quyết số 35/2009/QH12 ngày 19/6/2009 của Quốc hội khóa XII về chủ trương, định hướng đổi mới một số cơ chế tài chính trong giáo dục và đào tạo từ năm học 2010-2011 đến năm học 2014-2015; Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật giáo dục 2005.

- Đổi mới mạnh mẽ quản lý nhà nước đối với giáo dục và đào tạo là nhiệm vụ trọng tâm của năm học 2009 - 2010. Triển khai đánh giá toàn diện kết quả thực hiện Chiến lược phát triển giáo dục 2001 - 2010. Xây dựng Chiến lược phát triển giáo dục 2011 - 2020. Triển khai thực hiện các đề án phát triển giáo dục, đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt. Xây dựng Nghị định Chính phủ về phân cấp và phối hợp quản lý giáo dục giữa các Bộ, ngành và các địa phương; tăng quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm của các cơ sở giáo dục. Tạo sự chuyển biến mạnh mẽ về công tác thông tin cho xã hội và tiếp thu ý kiến xã hội thông qua Báo điện tử Giáo dục và Thời đại và trang thông tin điện tử của Bộ; đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin trong quản lý giáo dục.

- Triển khai thực hiện Chỉ thị số 296/CT-TTg ngày 27/2/2010 của Thủ tướng Chính phủ về Đổi mới quản lý giáo dục đại học giai đoạn 2010-2012; Ban Cán sự Đảng Bộ Giáo dục và Đào tạo đã có Nghị quyết số 05-NQ/BCSĐ ngày 06/1/2010 về Đổi mới quản lý giáo dục đại học giai đoạn 2010-2012 và Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo đã ban hành Quyết định số 179/QĐ-BGDĐT ngày 11/1/2010 Phê duyệt Chương trình hành động triển khai thực Nghị quyết số 05-NQ/BCSĐ ngày 06/1/2010 của Ban Cán sự Đảng Bộ Giáo dục và Đào tạo về Đổi mới quản lý giáo dục đại học giai đoạn 2010-2012. Theo đó, việc đổi mới quản lý giáo dục đại học bao gồm quản lý Nhà nước về giáo dục đại học và quản lý của các cơ sở đào tạo là khâu đột phá để tạo ra sự đổi mới toàn diện của giáo dục đại học, từ đó đảm bảo và nâng cao chất lượng đào tạo, nâng cao hiệu quả nghiên cứu khoa học một cách bền vững.

- Tiếp tục nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện, coi trọng giáo dục nhân cách, đạo đức, lối sống cho học sinh (Phong trào thi đua “Xây dựng trường học thân thiện, học sinh tích cực”) và sinh viên, mở rộng quy mô giáo dục hợp lý.

- Xây dựng đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lý giáo dục đủ về số lượng, đáp ứng yêu cầu về chất lượng. Tăng cường năng lực và nâng cao chất lượng đào tạo giáo viên. Chuẩn hóa trong đào tạo, bồi dưỡng, tuyển chọn và sử dụng cán bộ quản lý giáo dục. Xây dựng quy hoạch phát triển đội ngũ giảng viên 2010-2020, đảm bảo tỷ lệ giảng viên là tiến sỹ ngày càng tăng. Xây dựng kế hoạch phổ cập ngoại ngữ cho giảng viên.

- Tiếp tục đổi mới chương trình giáo dục, tạo chuyển biến mạnh mẽ về phương pháp giáo dục. Chuẩn bị các điều kiện xây dựng chương trình phổ thông mới áp dụng sau 2015.

- Nâng cao năng lực các phòng khảo thí và quản lý chất lượng ở các Sở Giáo dục và Đào tạo và các cơ sở giáo dục đại học. Tiếp tục hoàn thiện hệ thống văn bản quy phạm pháp luật và các hướng dẫn về công tác đánh giá và kiểm định chất lượng giáo dục.

- Tiếp tục triển khai mạnh mẽ đào tạo theo nhu cầu xã hội ở các trường trung cấp chuyên nghiệp, cao đẳng, đại học.

- Tăng cường nguồn lực cho giáo dục. Điều chỉnh từng bước cơ cấu chi ngân sách nhà nước cho các cấp học theo hướng ưu tiên ngân sách để thực hiện phổ cập giáo dục tiểu học, chống mù chữ, hỗ trợ phổ cập mẫu giáo cho trẻ 5 tuổi, đảm bảo chi cho giáo dục ở các xã đặc biệt khó khăn, đảm bảo tiền lương cho đội ngũ nhà giáo và kinh phí hỗ trợ cho đối tượng học sinh chính sách, học sinh nghèo.

- Đảm bảo công bằng xã hội trong giáo dục. Nghiên cứu điều chỉnh, bổ sung các chính sách hỗ trợ giáo viên và học sinh ở vùng dân tộc; củng cố, phát triển trường phổ thông dân tộc bán trú, đảm bảo học sinh có chỗ ở an toàn, đủ ăn, đủ mặc và đủ sách học. Phát triển hệ thống trường phổ thông dân tộc nội trú theo quy hoạch thống nhất, nâng cao chất lượng dạy học của trường phổ thông dân tộc nội trú.

- Tăng cường hợp tác quốc tế về giáo dục và đào tạo. Tăng cường quan hệ hợp tác với các nước láng giềng và các nước ASEAN. Tiếp tục đàm phán ký kết các thỏa thuận công nhận tương đương bằng cấp giữa Việt Nam và các nước. Tăng cường hợp tác quốc tế về công tác kiểm định và đảm bảo chất lượng. Tiếp tục triển khai các chương trình đào tạo tiên tiến với chất lương cao, đảm bảo tính khả thi, hiệu quả. Triển khai xây dựng các đại học xuất sắc với sự tham gia của Chính phủ và các trường đại học của các nước tiên tiến.


Каталог: content -> vankien -> Lists -> DanhSachVanKien -> Attachments
Attachments -> KỲ HỌp thứ TÁm quốc hội khoá XII (20/10/2010 26/11/2010)
Attachments -> Đa dạng sinh họC Ở việt nam
Attachments -> PHẦn I các bộ, ngàNH, CƠ quan thuộc chính phủ trả LỜi cáC Ý kiếN, kiến nghị CỦa cử tri
Attachments -> CHÍnh phủ Số: 62/bc-cp cộng hòa xã HỘi chủ nghĩa việt nam độc lập Tự do Hạnh phúc Hà Nội, ngày 5 tháng 5 năm 2008 BÁo cáO
Attachments -> BỘ giao thông vận tảI 1/ Cử tri tỉnh Đắk Lắc kiến nghị
Attachments -> QUỐc hội khóa XI uỷ ban về các vấn đề xã hội
Attachments -> QUỐc hội số: CỘng hoà XÃ HỘi chủ nghĩa việt nam
Attachments -> 210/bc-btnmt cộng hoà XÃ HỘi chủ nghĩa việt nam
Attachments -> KỲ HỌp thứ TÁm quốc hội khoá XII (20/10/2010 26/11/2010) TẬp hợP Ý kiếN, kiến nghị CỦa cử tri
Attachments -> Ủy ban thưỜng vụ quốc hội số: 365/bc-ubtvqh12

tải về 4.57 Mb.

Chia sẻ với bạn bè của bạn:
1   2   3   4   5   6   7   8   9   10   ...   60




Cơ sở dữ liệu được bảo vệ bởi bản quyền ©hocday.com 2024
được sử dụng cho việc quản lý

    Quê hương