UỶ ban thưỜng vụ quốc hội ban dân nguyện kỳ HỌp thứ BẢY quốc hội khoá XII



tải về 4.57 Mb.
trang2/60
Chuyển đổi dữ liệu10.08.2016
Kích4.57 Mb.
#16071
1   2   3   4   5   6   7   8   9   ...   60

Trả lời:

Trong chương trình hoạt động năm 2010, Uỷ ban Tài chính - Ngân sách sẽ tổ chức triển khai hoạt động giám sát 02 chuyên đề về “Tình hình triển khai thực hiện nguồn vốn trái phiếu Chính phủ tại một số địa phương” nhằm đánh giá việc chấp hành các quy định của pháp luật liên quan đến phân bổ và sử dụng vốn TPCP 2003- 2010; đánh giá thực trạng phân bổ và sử dụng vốn TPCP trong các lĩnh vực giao thông, thủy lợi, y tế, giáo dục; những kết quả đạt được; những hạn chế, yếu kém, khó khăn, vướng mắc cần tiếp tục tháo gỡ; xác định nguyên nhân, trách nhiệm của các cấp, các bộ, ngành, địa phương đồng thời kiến nghị những giải pháp, đề xuất với Quốc hội, Ủy ban TVQH về cơ chế, chính sách, danh mục, tổng mức đầu tư từ nguồn vốn TPCP cho giai đoạn tiếp theo (2011 -2015). Đồng thời giám sát chuyên đề về “Việc thực hiện chính sách pháp luật về dự trữ nhà nước giai đoạn 2005- 2009”.

Theo kế hoạch giám sát, các Đoàn giám sát sẽ xây dựng, hoàn thiện các Báo cáo để gửi báo cáo đến ĐBQH tại kỳ họp thứ 8, Quốc hội khóa 12.

Chuyên đề giám sát về việc sử dụng Quỹ dự trữ Quốc gia cũng đã được đưa vào Chương trình hoạt động giám sát năm 2010 của Uỷ ban Tài chính - Ngân sách.


ỦY BAN VỀ CÁC VẤN ĐỀ XÃ HỘI
Tại Công văn số 2156/UBXH12 ngày 26/4/2010 của Ủy ban Các vấn đề xã hội về việc trả lời kiến nghị cử tri tại kỳ 6, Quốc hội khóa XII:

1. Cử tri thành phố Hải Phòng kiến nghị: Về Bộ luật lao động, cử tri kiến nghị sửa đổi một số nội dung như sau:

+ Chương VII - Thời gian làm việc, thời gian nghỉ ngơi: tại Điều 69 cần quy định rõ thời gian làm thêm giờ trong một tuần, trong một tháng. Nếu doanh nghiệp vi phạm thì phải có chế tài đủ mạnh buộc doanh nghiệp phải thực hiện.

+ Chương VIII - Kỷ luật lao động, trách nhiệm vật chất nên đặt sau chương XVI - Thanh tra nhà nước về lao động, xử phạt vi phạm pháp luật lao động.

+ Chương IX - An toàn lao động, vệ sinh lao động: Cần có chế tài xử lý đối với các đơn vị, doanh nghiệp không thực hiện an toàn, vệ sinh lao động hoặc thực hiện không nghiêm để bảo vệ quyền lợi của người lao động.

+ Chương XIII - Công đoàn nên đặt trước chương V - Thỏa ước lao động tập thể và bổ sung thêm một số điều cho phù hợp với vai trò của tổ chức công đoàn; có chế tài buộc doanh nghiệp phải thành lập tổ chức công đoàn và tạo điều kiên để công đoàn hoạt động.

+ Chương XIV - Giải quyết tranh chấp lao động nên đặt sau chương V - Thỏa ước lao dộng tập thể.

Trả lời:

1. Ý kiến về qui định tại Chương VII. Thời gian làm việc, thời gian nghỉ ngơi

Theo ý kiến của cử tri, Điều 69 cần qui định rõ thời gian làm thêm giờ trong một tuần, trong một tháng; nếu doanh nghiệp vi phạm thì phải có chế tài đủ mạnh buộc doanh nghiệp phải thực hiện.

Trong quá trình hoạt động, Ủy ban chúng tôi đã tiến hành nhiều hoạt động giám sát, khảo sát có liên quan đến vấn đề này và đã trực tiếp trao đổi với Bộ Lao động, Thương binh và Xã hội. Hiện nay Bộ lao động-Thương binh và Xã hội được Chính phủ giao chủ trì soạn thảo dự án Bộ luật Lao động (sửa đổi) và vấn đề này đang được nghiên cứu, tiếp thu cho phù hợp.

Về vấn đề chế tài, hệ thống pháp luật của chúng ta đã có quy định song việc tổ chức thực hiện chưa có hiệu quả, việc bảo đảm cho pháp luật lao động được thực thi chưa như mong muốn, gây ra nhiều bức xúc cho người lao động và dư luận xã hội, Ủy ban chúng tôi đã nhiều lần đề nghị, trao đổi với Bộ Lao động-Thương binh và Xã hội để có biện pháp tăng cường và nâng cao hiệu quả hoạt động của công tác quản lí nhà nước trong lĩnh vực này; tuy nhiên việc khắc phục còn chậm.



2. Ý kiến về bố cục của Bộ luật Lao động khi sửa đổi

Các ý kiến của cử tri đề nghị cụ thể về trình tự sắp xếp các chương về: Kỷ luật lao động, trách nhiệm vật chất; Thanh tra nhà nước về lao động, xử phạt vi phạm pháp luật lao động; Công đoàn, Thỏa ước lao động tập thể; Giải quyết tranh chấp lao động.

Về vấn đề này, Ủy ban chúng tôi cùng với Ban soạn thảo dự án Bộ luật Lao động (sửa đổi) đang cùng nghiên cứu, trao đổi và cân nhắc trong quá trình xây dựng và ban hành Bộ luật Lao động (sửa đổi).

3. Về kiến về việc bổ sung thêm các nội dung qui định đối với công đoàn để phù hợp với vai trò của tổ chức công đoàn trong tình hình hiện nay cũng như các chế tài để bắt buộc doanh nghiệp phải thành lập tổ chức công đoàn

Đây là những ý kiến đang được Ban soạn thảo dự án Bộ luật Lao động và Ban soạn thảo dự án Luật Công đoàn cùng các cơ quan chức năng có liên quan nghiên cứu, xem xét, tiếp thu trong quá trình xây dựng Bộ luật Lao động (sửa đổi) và Luật Công đoàn (sửa đổi) nhằm từng bước hoàn thiện pháp luật về lao động, pháp luật về công đoàn, bảo đảm hài hòa lợi ích của người lao động và người sử dụng lao động trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.



2. Cử tri tỉnh Bắc Kạn kiến nghị: Đối với Bộ luật lao động: Về độ tuổi nghỉ hưu, cử tri đề nghị Quốc hội nên điều chỉnh độ tuổi nghỉ hưu đối với cán bộ cấp xã vì hiện nay quy định độ tuổi nghỉ hưu là 60 đối với nam và 55 đối với nữ là không phù hợp với cán bộ cấp xã ở khu vực miền núi.

Trả lời:

Ủy ban chúng tôi thấy rằng hầu hết những người đảm nhiệm các chức danh ở cấp xã hiện nay thuộc đối tượng điều chỉnh của Luật cán bộ, công chức vì vậy việc thực hiện các qui định về hưởng chế độ nghỉ hưu được thực hiện theo qui định của luật này và Luật Bảo hiểm xã hội vừa mới được Quốc hội xem xét, thông qua. Ủy ban chúng tôi ghi nhận ý kiến của cử tri và tiếp tục nghiên cứu, xem xét trong quá trình sửa đổi Bộ luật Lao động; Luật cán bộ, công chức và Luật bảo hiểm xã hội.



3. Cử tri tỉnh Khánh Hòa kiến nghị: Cử tri đề nghị xem xét, sửa đổi lại Luật Bảo hiểm xã hội (BHXH) theo hướng: khi người tham gia bảo hiểm xã hội đã đóng bảo hiểm xã hội đủ 30 năm thì không phải đóng nữa và khi nghỉ hưu vẫn nhận đủ 75% lương. Vì hiện nay, theo quy định của Luật BHXH, mức lương hưu hàng tháng của người của người lao động đủ điều kiện quy định tại Điều 50 của Luật này được tính bằng 45% mức bình quân tiền lương, tiền công tháng đóng bảo hiểm xã hội, tương ứng với 15 năm đóng bảo hiểm xã hội, sau đó cứ thêm 1 năm đóng bảo hiểm xã hội thì được tính thêm 2% đối với nam và 3% đối với nữ; mức tối đa bằng 75%. Như vậy đến 30 năm đóng bảo hiểm xã hội thì mức lương được hưởng đã bằng 75%.

Trả lời

Luật Bảo hiểm xã hội mới được Quốc hội thông qua ngày 29/6/2006 và có hiệu lực thi hành từ ngày 1/1/2007 (đối với bảo hiểm xã hội bắt buộc). Nhiều vấn đề cần phải được tổng kết trong thực tiễn, ý kiến của cử tri nêu lên cũng là vấn đề đã được đưa ra trao đổi, thảo luận trong quá trình xây dựng, soạn thảo và ban hành Luật Bảo hiểm xã hội. Sắp tới, Chính phủ sẽ tiến hành sơ kết, đánh giá 3 năm thực hiện Luật Bảo hiểm xã hội. Trên cơ sở đó sẽ đề xuất những vấn đề cần được sửa đổi, bổ sung. Ý kiến của cử tri sẽ được tổng hợp và nghiên cứu, xem xét.



4. Cử tri tỉnh Quảng Nam kiến nghị: Đề nghị Đảng, Nhà nước nghiên cứu sửa đổi bổ sung Luật Thi đua - khen thưởng cho phù hợp để chống bệnh thành tích trong công tác xét, bình xét thi đua , khen thưởng hiện nay.

Trả lời:

Đây là những vấn đề liên quan đến thẩm quyền, chức năng, nhiệm vụ của các chủ thể sáng kiến pháp luật, trình dự án luật, sửa đổi, bổ sung luật và thẩm quyền, trách nhiệm trong qui trình lập pháp. Trong đó, Ủy ban về các vấn đề xã hội cũng có quyền sáng kiến pháp luật, thẩm tra các dự án luật này. Ủy ban chúng tôi ghi nhận kiến nghị này và sẽ cùng với các cơ quan có trách nhiệm xem xét, nghiên cứu trong quá trình thực hiện chức năng, nhiệm vụ khi bàn đến hai vấn đề này mà ý kiến cử tri đã nêu trên.


ỦY BAN KINH TẾ
1. Cử tri tỉnh Hòa Bình kiến nghị: Việc đầu tư của Nhà nước còn nhiều bất cập, hiệu quả đầu tư thấp do chưa hợp lý trong công tác quy hoạch, đề nghị Chính phủ sớm nghiên cứu xây dựng và trình Quốc hội ban hành Luật Quy hoạch và Kế hoạch.

Trả lời (Tại công văn số 1283/UBKT12 ngày 26/1/2010)

Tại mục III.8 của Nghị quyết số 20/2008/NQ-QH12 ngày 3/6/2008 của Quốc hội khóa XII, kỳ họp thứ 3 có khẳng định:

“8. Căn cứ vào nghị quyết của Quốc hội về quy hoạch sử dụng đất của cả nước đến năm 2010 và kế hoạch sử dụng đất 5 năm 2006-2010, tăng cường kiểm tra, đôn đốc việc triển khai quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất trên thực địa, kế hoạch chi tiết sử dụng các loại đất, quản lý chặt chẽ và triệt để tiết kiệm diện tích đất trồng lúa để đảm bảo an ninh lương thực; kiên quyết thu hồi diện tích đất được giao nhưng không sử dụng, sử dụng không hiệu quả, không đúng mục đích”.

Thực hiện Nghị quyết trên, Chính phủ, Bộ TNMT, UBND các cấp đã tích cực triển khai việc lập, xét duyệt, thực hiện quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất của các vùng, các địa phương trong cả nước, bước đầu đã có những kết quả tích cực. Theo báo cáo của Bộ TNMT, đến nay đã có 63/63 tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương hoàn thành việc lập quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất đến năm 2010 (đạt 100%), 531/681 huyện, quận, thị xã, thành phối thuộc tỉnh hoàn thành (đạt 77,97%), 7.567/11.074 xã, phường, thị trấn hoàn thành đạt (68,41%). Việc lập, thẩm định xét duyệt quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất đã đi vào nề nếp. Quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất đã phát huy hiệu quả trong công tác quản lý đất đai. Tuy nhiên, một số địa phương chưa quan tâm đến công tác lập quy hoạch, kế hoạch sử đụng đất nên việc lập còn chậm trễ, không bố trí đủ cán bộ, không đầu tư kinh kinh phí… Công tác xét duyệt quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất các cấp, nhất là cấp huyện, xã còn chậm. Hầu hết các quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất của các cấp địa phương đã được xét duyệt trước ngày Luật Đất đai 2003 có hiệu lực nhưng chưa được điều chỉnh phù hợp với tình hình thực tế.

Hiện nay thời hạn quy hoạch sử dụng đất đến 2010 và kế hoạch sử dụng đất giai đoạn 2005-2010 sắp hết, Chính phủ đang chỉ đạo Bộ TNMT tiến hành lập quy hoạch sử dụng đất của cả nước giai đoạn 2011-2020 và kế hoạch sử dụng đất của cả nước giai đoạn 2011-2015. Để chuẩn bị cho việc trình Quốc hội thông qua quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất của cả nước, Chính phủ sẽ có Báo cáo tổng kết về tình hình thực hiện quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất của cả nước và địa phương đến năm 2010 báo cáo trươc Quốc hội.

Trong thời kỳ của quy hoạch sử dụng đất 2000-2010, Ủy ban thường vụ Quốc hội đã tiến hành thực hiện chuyên đề giám sát “việc thực hiện quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất theo Luật Đất đai” từ tháng 12/2005 đến tháng 4/2006. Kết quả giám sát đã báo cáo Quốc hội khóa XI xem xét, cho ý kiến vào kỳ họp tháng 5/2006.

Về ý kiến đề nghị của cử tri, UBKT xin tiếp thu và nêu ý kiến với Quốc hội trong khi xây dựng chương trình giám sát của Quốc hội trong kỳ quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất tới.

2. Cử tri tỉnh Phú Yên kiến nghị: Đề nghị Quốc hội tiến hành giám sát việc quy hoạch sử dụng đất của cả nước đến năm 2010 và kế hoạch sử dụng đất của cả nước đến năm 2010 và kế hoạch sử dụng đất 5 năm 2006-2010 theo Nghị quyết số 20/2008/NQ-QH12

Trả lời (Tại công văn số 1282/UBKT12 ngày 26/1/2010)

Quy hoạch, kế hoạch là công tác quan trọng trong nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. Hiện nay trong quản lý Nhà nước có nhiều loại quy hoạch, kế hoach như: quy hoạch, kế hoạch phát triển kinh tế xã hội, quy hoạch kế hoạch sử dụng đất đai, quy hoạch đô thị, quy hoạch khoáng sản, quy hoạch phát triển các ngành, lĩnh vực… Mỗi loại quy hoạch, kế hoạch được điều chỉnh bằng các luật khác nhau, có những loại quy hoạch, kế hoạch chưa được quy định rõ trong các văn bản pháp luật dẫn đến không thống nhất, đồng bộ trong công tác lập, thẩm định, phê duyệt quy hoạch, kế hoạch. Nhiều loại quy hoạch, kế hoạch chưa phát huy hiệu lực cao trong thực tế do mâu thuẫn, chồng chéo với các quy hoạch. kế hoạch khác, gây khó khăn cho việc thực hiện nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội, quốc phòng, an ninh, lãng phí nguồn nhân lực do chi phí tốn kém trong công tác lập, thẩm định, phê duyệt quy hoạch, kế hoạch. Do đó, ý kiến đề nghị của cử tri nêu trên là xác đáng.

Trong thời gian qua, nhiều cơ quan của Chính phủ, Quốc hội đã nghiên cứu, đánh giá về công tác quy hoạch, kế hoạch. Đã có nhiều ý kiến cho rằng cần có luật về quy hoạch, kế hoạch chung để đảm bảo sự thống nhất quản lý nhà nước tỏng công tác quy hoạch, kế hoạch, đảm bảo sự thống nhất giữa các loại quy hoạch, kế hoạch, tránh lãng phí, tốn kém và đảm bảo quy hoạch, kế hoạch có hiệu lực thi hành cao.

Hiện nay, việc có cần thiết phải có luật chung về quy hoạch, kế hoạch để điều chỉnh các việc lập, thẩm định, phê duyệt và thực hiện các loại quy hoạch, kế hoạch hay không đang được các cơ quan của Chính phủ, Quốc hội xem xét, thảo luận, nếu thấy hợp lý sẽ trình Quốc hội ban hành trong thời gian tới.



PHẦN II

CHÍNH PHỦ, CÁC BỘ, NGÀNH
CHÍNH PHỦ
Thừa ủy quyền của Thủ tướng Chính phủ, các bộ đã trả lời các kiến nghị của cử tri tại kỳ họp thứ 6, Quốc hội khóa XII.

1. Cử tri các tỉnh Thanh Hoá, Quảng Nam, Cần Thơ, Vĩnh Long kiến nghị: Chính phủ tăng cường kích cầu nông thôn, tập trung vào đầu tư kết cấu hạ tầng giao thông, thuỷ lợi, hệ thống điện, trường học, trạm xá. Tăng cường hỗ trợ vốn khoa học công nghệ, giúp nông dân mở rộng diện tích, đẩy mạnh thâm canh, hình thành các vùng chuyên canh sản xuất hàng hoá; hỗ trợ đầu tư cụm công nghiệp, làng nghề, công nghiệp chế biến nông, lâm, thuỷ sản để tăng việc làm, thu nhập cho lao động nông thôn.

Trả lời: (Tại Công văn số 755, 756, 757/BKH-TH ngày 2/2/2010 và công văn số 1048/BKH-TH ngày 11/02/2010 của Bộ Kế hoạch và đầu tư)

Đảng và Nhà nước luôn chú trọng đến đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng, đặc biệt là ở khu vực nông thôn. Trong kế hoạch 2010, lĩnh vực nông nghiệp và phát triển nông thôn được Chính phủ tăng cường đầu tư nhiều hơn. Chi đầu tư xây dựng cơ bản lĩnh vực nông, lâm, ngư nghiệp và thuỷ lợi năm 2010 từ ngân sách nhà nước là 23.945 tỷ đồng, tăng 16,2% so với năm 2009. Bên cạnh đó, tại Quyết định số 124/QĐ-TTg ngày 18/01/2010, Thủ tướng Chính phủ đã giao kế hoạch vốn trái phiếu Chính phủ năm 2010 là 56 nghìn tỷ đồng, trong đó ưu tiên đầu tư cho các công trình giao thông, thuỷ lợi, y tế, kiên cố hoá trường lớp học, đường ô tô tới trung tâm xã.

Bên cạnh đó, các tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương được vay vốn tín dụng đầu tư phát triển của nhà nước với lãi suất 0% để đầu tư xây dựng một số cơ sở hạ tầng nông nghiệp, nông thôn theo quy định tại Quyết định số 132/2001/QĐ-TTg ngày 07/9/2001 của Thủ tướng Chính phủ về cơ chế tài chính thực hiện chương trình phát triển đường giao thông nông thôn, cơ sở hạ tầng nuôi trồng thuỷ sản, cơ sở hạ tầng làng nghề ở nông thôn.

Mặt khác, tiếp tục thực hiện chính sách hỗ trợ mua máy móc, thiết bị phục vụ sản xuất nông nghiệp, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số 2213/QĐ-TTg ngày 31/12/2009 sửa đổi, bổ sung một số điều của Quyết định số 497/QĐ-TTg ngày 17/4/2009 về hỗ trợ lãi suất mua máy móc, thiết bị vật tư phục vụ sản xuất nông nghiệp, vật tư xây dựng nhà ở nông thôn nhằm tạo thuận lợi hơn cho người dân. Trong năm 2010, Chính phủ cũng dự kiến ban hành một số chính sách mới liên quan đến vấn đề phát triển nông thôn, ví dụ như chính sách về cơ giới hoá và giảm tổn thất sau thu hoạch; chính sách thu hút doanh nghiệp đầu tư vào nông thôn; chính sách tín dụng phục vụ phát triển nông nghiệp, nông thôn; chính sách về đào tạo nghề cho lao động nông thôn.



2. Cử tri tỉnh Cần Thơ kiến nghị: Trong bối cảnh suy giảm kinh tế vừa qua, đối tượng chịu tác động nhiều nhất vẫn là các doanh nghiệp vừa và nhỏ. Nguyên nhân là do các doanh nghiệp này có quy mô sản xuất kinh doanh nhỏ, năng lực về tài chính thấp, phân tán ở nhiều nơi, thiếu sự tập trung, gắn kết với nhau… nên khi xảy ra khủng hoảng kinh tế, nếu không có sự hỗ trợ kịp thời từ phía nhà nước thì các doanh nghiệp rất dễ bị sụp đổ, phá sản, kéo theo nhiều hậu quả của xã hội như làm gia tăng tình trạng mất việc làm, làm đảo lộn môi trường sản xuất, kinh doanh, phát sinh tệ nạn xã hội… Cử tri đề nghị Chính phủ cần nghiên cứu, có giải pháp tăng cường hơn nữa việc hỗ trợ cho các doanh nghiệp nhỏ và vừa.

Trả lời: (Tại Công văn số 1048/BKH-TH ngày 11/2/2010 của Bộ Kế hoạch và đầu tư)

Trước những tác động bất lợi của khủng hoảng tài chính và suy thoái kinh tế thế giới vừa qua, với sự chỉ đạo, lãnh đạo nhạy bén, kịp thời của Đảng, sự giám sát của Quốc hội, Chính phủ đã bám sát thực tiễn, đánh giá đúng tình hình và ban hành hàng loạt các cơ chế, chính sách, giải pháp cụ thể nhằm hỗ trợ các doanh nghiệp vượt qua khó khăn, như: (1) Thực hiện chính sách miễn, giảm, giãn thuế; (2) Thực hiện chính sách hỗ trợ lãi suất; (3) Thực hiện chính sách bảo lãnh tín dụng; (4) Thực hiện kích cầu đầu tư và tiêu dùng; (5) Thực hiện Chương trình hỗ trợ đối với lao động mất việc làm trong doanh nghiệp gặp khó khăn do suy giảm kinh tế.



Những chính sách trên đã góp phần quan trọng trong việc ngăn chặn suy giảm và duy trì tăng trưởng kinh tế của nước ta trong năm qua. Nhằm tiếp tục khuyến khích, trợ giúp phát triển doanh nghiệp nhỏ và vừa đáp ứng các yêu cầu mới về hội nhập và phát triển, ngày 30/6/2009, Chính phủ ban hành Nghị định số 56/2009/NĐ-CP về trợ giúp phát triển doanh nghiệp nhỏ và vừa thay thế Nghị định số 90/2001/NĐ-CP ngày 23/10/2001 của Chính phủ về trợ giúp phát triển doanh nghiệp nhỏ và vừa. Để triển khai và tổ chức thực hiện tích cực, đồng bộ các cơ chế và chính sách trợ giúp phát triển DNNVV quy định tại Nghị định số 56/2009/NĐ-CP, thời gian tới Chính phủ tập trung một số định hướng, giải pháp chính sau:

(1) Tăng cường khả năng tiếp cận nguồn vốn tín dụng và huy động các nguồn lực hỗ trợ tài chính cho DNNVV: Chính phủ ban hành các cơ chế, chính sách mang tính dài hạn và bền vững hơn nhằm mở rộng nguồn vốn tín dụng cho DNNVV như phát triển các sản phẩm, dịch vụ phù hợp với DNNVV, dành một số dự án hỗ trợ kỹ thuật từ nguồn ODA để nâng cao năng lực cho các tổ chức tín dụng, tăng cường cung cấp các dịch vụ hỗ trợ tư vấn tài chính cho DNNVV; hoàn thiện cơ chế thành lập và quản lý hoạt động của quỹ bảo lãnh tín dụng doanh nghiệp nhỏ và vừa phù hợp với điều kiện ở địa phương; thành lập Quỹ phát triển DNNVV nhằm tăng cường nguồn lực và nâng cao hiệu quả thực hiện các chương trình trợ giúp phát triển DNNVV.

(2) Tiếp tục tháo gỡ khó khăn về mặt bằng sản xuất: Để giúp DNNVV thuận lợi hơn khi thuê mặt bằng sản xuất, ủy ban nhân dân địa phương tiến hành rà soát, bổ sung quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất, tổ chức thu hồi, bồi thường giải phóng mặt bằng tạo quy đất cho DNNVV thuê hoặc dành quỹ đất xây dựng các khu, cụm công nghiệp phù hợp với nhu cầu và khả năng của các DNNVV. Đồng thời, Chính phủ có chính sách khuyến khích xây dựng các khu, cụm công nghiệp dành cho đối tượng DNNVV.

(3) Hỗ trợ nâng cao năng lực cạnh tranh cho các DNNVV: Chính phủ có những giải pháp cụ thể nhằm trợ giúp DNNVV: đổi mới, nâng cao năng lực công nghệ, trình độ kỹ thuật; phát triển nguồn nhân lực cho DNNVV; xúc tiến mở rộng thị trường, tham gia cung ứng sản phẩm, dịch vụ công.

(4) Hoàn thiện và củng cố hệ thống trợ giúp phát triển DNNVV: Kiện toàn và tăng cường hiệu quả hoạt động của Hội đồng khuyến khích phát triển DNNVV. Trong năm 2010, Chính phủ sẽ ban hành Quyết định sửa đổi bổ sung nhiệm vụ, kiện toàn tổ chức và đổi mới hoạt động của Hội đồng và các bộ phận giúp việc cho Hội đồng này. Tại địa phương, Sở Kế hoạch và Đầu tư được giao làm đầu mối thực hiện chức năng, nhiệm vụ về trợ giúp phát triển DNNVV. Đối với địa phương có tổng số doanh nghiệp trên 3.000 có thể thành lập mới một đơn vị trực thuộc Sở hoặc UBND địa phương sẽ giao thêm chức năng, nhiệm vụ và bổ sung biên chế cho một đơn vị của Sở.

3. Cử tri tỉnh Cần Thơ kiến nghị: Luật Thống kê: thời gian qua có khá nhiều văn bản hướng dẫn của nhiều Bộ, ngành. Tuy nhiện, qua thực tiễn một số năm áp dụng, cử tri đề nghị với Chính phủ :

- Chỉ đạo tổng kết, đánh giá việc chấp hành Luật sau 6 năm thực hiện để có những đánh giá đúng đắn những mặt tích cực, những tồn tại, hạn chế để kịp thời bổ sung, sửa chữa;

- Đề nghị đặc biệt quan tâm củng cố bộ máy tổ chức thống kê cấp xã, phường. Đây là khâu yếu nhất (do thiếu sự đào tạo và luôn có sự thay đổi). Do đó, Tổng cục Thống kê cần sớm ban hành các chế độ báo cáo cấp xã, phường và quản lý theo ngành dọc, có như thế mới đảm bảo việc đào tạo, nâng cao chất lượng đội ngũ này;

- Hoàn thiện hệ thống chỉ tiêu thống kê quốc gia nhằm đáp ứng tốt hơn nhu cầu lãnh đạo, quản lý, điều hành của Đảng, Nhà nước và chính quyền các cấp, bảo đảm tính xuyên suốt từ Trung ương xuống địa phương. Nâng cao vai trò quản lý nhà nước về thống kê, hiệu quả thẩm định của hệ thống tổ chức thống kê tập trung đối với hoạt động của thống kê Bộ, ngành. Hệ thống thông tin thống kê cũng cần bảo đảm phản ánh đầy đủ, toàn diện các hoạt động kinh tế - xã hội cùng với các thay đổi về tự nhiên của đất nước…

Trả lời: (Tại Công văn số 1048/BKH-TH ngày 11/2/2010 của Bộ Kế hoạch và đầu tư)

1. Về đề nghị Chính phủ chỉ đạo tổng kết, đánh giá việc chấp hành Luật Thống kê sau 6 năm thực hiện:

- Tổng kết, đánh giá việc chấp hành Luật Thống kê là một trong những nội dung của Đề án đổi mới đồng bộ các hệ thống chỉ tiêu thống kê mà Thủ tướng Chính phủ đã giao Tổng cục Thống kê thực hiện.

- Tổng cục Thống kê có kế hoạch tiến hành tổng kết, đánh giá việc chấp hành Luật Thống kê trong năm 2010 để đánh giá một cách toàn diện 6 năm thi hành Luật và phân tích những ưu điểm, hạn chế nhằm sửa đổi, bổ sung phù hợp với tình hình thực tế. Nội dung tổng kết chủ yếu gồm: Khái quát chung về tình hình thực hiện các văn bản luật về thống kê; ý nghĩa và tác dụng của Luật Thống kê trong việc chấp hành chế độ báo cáo, chương trình điều tra, các bảng phân loại thống kê; Những mặt được, mặt chưa được; Những khó khăn, hạn chế và nguyên nhân; Đưa ra những đề xuất và kiến nghị cho việc sửa đổi, bổ sung Luật cũng như những giải pháp tăng cường hiệu lực của Luật Thống kê.

2. Về đề nghị củng cố bộ máy tổ chức thống kê cấp xã, phường và sớm ban hành các chế độ báo cáo cấp xã, phường và quản lý theo ngành dọc:

- Điều 22 của Nghị định số 40/2004/NĐ-CP ngày 13/02/2004 của Chính phủ đã quy định công tác thống kê xã, phường, thị trấn như sau:

(1) UBND xã, phường, thị trấn có trách nhiệm tổ chức công tác thống kê và bố trí người có đủ tiêu chuẩn chuyên môn, nghiệp vụ làm công tác thống kê theo chức danh quy định hiện hành về cán bộ, công chức xã, phường, thị trấn.

(2) Công tác thống kê xã, phường, thị trấn chịu sự quản lý, chỉ đạo trực tiếp của UBND xã, phường, thị trấn và sự hướng dẫn về chuyên môn nghiệp vụ của Phòng Thống kê cấp huyện.

(3) Cán bộ, công chức xã, phường, thị trấn làm công tác thống kê có trách nhiệm giúp ủy ban nhân dân xã, phường, thị trấn: Tổ chức thực hiện công tác thống kê phục vụ yêu cầu quản lý của xã, phường, thị trấn; Thực hiện các cuộc điều tra và chế độ báo cáo thống kê của Nhà nước.

(4) Cán bộ, công chức làm công tác thống kê xã, phường, thị trấn được bố trí trong phạm vi số lượng cán bộ, công chức xã, phường, thị trấn theo quy định và được hưởng chế độ, quyền lợi như các chức danh chuyên môn tại xã, phường, thị trấn theo quy định hiện hành.

- Điều 3 của Nghị định số 92/2009/NĐ-CP ngày 22 tháng 10 năm 2009 của Chính phủ về chức danh, số lượng, một số chế độ, chính sách đối với cán bộ, công chức ở xã, phường, thị trấn và những hoạt động không chuyên trách ở cấp xã đã quy định trong công chức cấp xã có chức danh Văn phòng - Thống kê. Hiện nay, các xã, phường, thị trấn đều có chức danh này. Tuy nhiên, trong thực tế công chức văn phòng - thống kê thường tập trung thời gian làm công tác văn phòng, thời gian dành cho công tác thống kê không nhiều.

- Thực hiện Đề án đổi mới đồng bộ các hệ thống chỉ tiêu thống kê do Thủ tướng Chính phủ giao, Tổng cục Thống kê đang triển khai xây dựng Hệ thống chỉ tiêu thống kê cấp tỉnh, huyện, xã để sớm ban hành và áp dụng. Đồng thời, Tổng cục Thống kê cũng đang nghiên cứu để bố trí ổn định biên chế công chức thống kê cấp xã.

3. Về đề nghị hoàn thiện Hệ thống chỉ tiêu thống kê quốc gia:

- Cùng với tiến trình đồng bộ hóa các hệ thống chỉ tiêu thống kê (thực hiện Đề án do Thủ tướng Chính phủ giao), Tổng cục Thống kê đã phối hợp với các Bộ, ngành tiến hành rà soát, đánh giá việc thực hiện hệ thống chỉ tiêu thống kê quốc gia (ban hành theo Quyết định số 305/2005/TTg ngày 24/11/2005 của Thủ tướng Chính phủ), hệ thống chỉ tiêu thống kê của các Bộ, ngành, địa phương. Qua đó, nghiên cứu, đề xuất các hệ thống chỉ tiêu thống kê mới phù hợp, đồng bộ, khả thi hơn.



Đến nay, qua nhiều lần rà soát, cập nhật, điều chỉnh, nhiều lần lấy ý kiến của các Bộ, ngành, địa phương, cơ quan trung ương của các hiệp hội, đoàn thể, Hệ thống chỉ tiêu thống kê quốc gia đã được cập nhật, bổ sung và trình Thủ tướng Chính phủ xem xét, phê duyệt. Dự thảo Hệ thống chỉ tiêu thống kê quốc gia mới gồm 353 chỉ tiêu được kết cấu thành 21 nhóm phản ánh các lĩnh vực của đời sống kinh tế, xã hội, môi trường, cụ thể:

(1) Đất đai, khí hậu, đơn vị hành chính

10 chỉ tiêu

(2) Dân số

18 chỉ tiêu

(3) Lao động, việc làm và bình đẳng giới

21 chỉ tiêu

(4) Doanh nghiệp, cơ sở kinh tế, hành chính, sự nghiệp

14 chỉ tiêu

(5) Đầu tư và xây dựng

14 chỉ tiêu

(6) Tài khoản quốc gia

17 chỉ tiêu

(7) Tài chính công

12 chỉ tiêu

(8) Tiền tệ, chứng khoán, bảo hiểm và kinh doanh bất động sản

29 chỉ tiêu

(9) Nông, lâm nghiệp và thuỷ sản

26 chỉ tiêu

(10) Công nghiệp

07 chỉ tiêu

(11) Thương mại

18 chỉ tiêu

(12) Giá cả

10 chỉ tiêu

(13) Giao thông vận tải

14 chỉ tiêu

(14) Thông tin, truyền thông và công nghệ thông tin

14 chỉ tiêu

(15) Khoa học và công nghệ

11 chỉ tiêu

(16) Giáo dục và đào tạo

30 chỉ tiêu

(17) Y tế và chăm sóc sức khỏe

22 chỉ tiêu

(18) Văn hóa, thể thao và du lịch

14 chỉ tiêu

(19) Mức sống dân cư

19 chỉ tiêu

(20) Trật tự, an toàn xã hội và tư pháp

09 chỉ tiêu

(21) Bảo vệ môi trường

24 chỉ tiêu

Song song với Hệ thống chỉ tiêu thống kê quốc gia, Tổng cục Thống kê cũng đang tập trung tích cực xây dựng và hoàn thiện các hệ thống chỉ tiêu thống kê cấp tỉnh, cấp huyện, cấp xã để đồng thời đưa vào áp dụng. Bên cạnh đó, Tổng cục Thống kê cũng tăng cường phối hợp với các Bộ, ngành trong việc xây dựng và hoàn thiện các hệ thống chỉ tiêu thống kê của các Bộ, ngành.

Tổng cục Thống kê đang gấp rút xây dựng và thực hiện Đề án đổi mới đồng bộ các hệ thống chỉ tiêu thống kê theo sự chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ. Ngoài các hệ thống chỉ tiêu được đồng bộ hóa thì phương pháp thống kê và các điều kiện khác phục vụ thực hiện các hệ thống chỉ tiêu thống kê cũng sẽ được tăng cường và hoàn thiện, đảm bảo tính thống nhất xuyên suốt từ trung ương đến địa phương, đáp ứng tốt hơn sự chỉ đạo, điều hành của các cấp lãnh đạo Đảng và Nhà nước cũng như nhu cầu ngày càng cao của các đối tượng sử dụng thông tin khác.



4. Cử tri thành phố Cần Thơ kiến nghị: Gần đây, quan hệ giữa Việt Nam - Trung Quốc phát sinh nhiều diễn biến phức tạp, gây bất lợi về phía chúng ta, song dường như Chính phủ có biểu hiện không kiên quyết. Các dự án lớn do nhà thầu Trung Quốc thi công không đảm bảo tiến độ, năng lực tài chính yếu kém (cụ thể như Dự án cầu Cần Thơ và nhiều dự án khác…) nhưng không thấy phía Việt Nam có biện pháp gì chấn chỉnh. Xin cho biết lý do?

Каталог: content -> vankien -> Lists -> DanhSachVanKien -> Attachments
Attachments -> KỲ HỌp thứ TÁm quốc hội khoá XII (20/10/2010 26/11/2010)
Attachments -> Đa dạng sinh họC Ở việt nam
Attachments -> PHẦn I các bộ, ngàNH, CƠ quan thuộc chính phủ trả LỜi cáC Ý kiếN, kiến nghị CỦa cử tri
Attachments -> CHÍnh phủ Số: 62/bc-cp cộng hòa xã HỘi chủ nghĩa việt nam độc lập Tự do Hạnh phúc Hà Nội, ngày 5 tháng 5 năm 2008 BÁo cáO
Attachments -> BỘ giao thông vận tảI 1/ Cử tri tỉnh Đắk Lắc kiến nghị
Attachments -> QUỐc hội khóa XI uỷ ban về các vấn đề xã hội
Attachments -> QUỐc hội số: CỘng hoà XÃ HỘi chủ nghĩa việt nam
Attachments -> 210/bc-btnmt cộng hoà XÃ HỘi chủ nghĩa việt nam
Attachments -> KỲ HỌp thứ TÁm quốc hội khoá XII (20/10/2010 26/11/2010) TẬp hợP Ý kiếN, kiến nghị CỦa cử tri
Attachments -> Ủy ban thưỜng vụ quốc hội số: 365/bc-ubtvqh12

tải về 4.57 Mb.

Chia sẻ với bạn bè của bạn:
1   2   3   4   5   6   7   8   9   ...   60




Cơ sở dữ liệu được bảo vệ bởi bản quyền ©hocday.com 2024
được sử dụng cho việc quản lý

    Quê hương