UỶ ban thưỜng vụ quốc hội ban dân nguyện kỳ HỌp thứ BẢY quốc hội khoá XII



tải về 4.57 Mb.
trang5/60
Chuyển đổi dữ liệu10.08.2016
Kích4.57 Mb.
#16071
1   2   3   4   5   6   7   8   9   ...   60

Trả lời: (Tại Công văn số 761/BKH-TH ngày 02/02/2010 của Bộ Kế hoạch và đầu tư)

Trong quá trình thu thập, xử lý, tính toán và công bố các chỉ tiêu thống kê kinh tế - xã hội, Tổng cục Thống kê luôn áp dụng các phương pháp theo chuẩn mực quốc tế. Ngay từ khi Đảng và Nhà nước thực hiện chính sách đổi mới kinh tế, chuyển nền kinh tế nước ta từ kế hoạch hoá tập trung sang nền kinh tế thị trường định hướng XHCN có sự quản lý của Nhà nước, Tổng cục Thống kê đã nghiên cứu đưa vào áp dụng Hệ thống tài khoản quốc gia của Thống kê Liên hợp quốc thay cho hệ thống các bảng cân đối kinh tế quốc dân (MPS) phù hợp với nền kinh tế kế hoạch hoá.

Trong hoạt động thu thập thông tin, ngành Thống kê cũng đã đổi mới để phù hợp với tiến trình phát triển của đất nước. Trước đây, việc thu thập thông tin thống kê chủ yếu dựa vào hình thức báo cáo thống kê. Đến nay, ngành Thống kê đã kết hợp sử dụng 3 hình thức thu thập thông tin thống kê đó là: Chế độ báo cáo thống kê; điều tra thống kê; khai thác thông tin từ hồ sơ đăng ký hành chính. Chất lượng và độ tin cậy của các chỉ tiêu thống kê không chỉ phụ thuộc vào các yếu tố chủ quan của ngành Thống kê như năng lực đội ngũ cán bộ, chất lượng xử lý số liệu mà còn phụ thuộc vào yếu tố khách quan từ bên ngoài như sự hợp tác của khu vực doanh nghiệp, khu vực cá thể, các tổ chức… trong việc cung cấp thông tin ban đầu cho ngành Thống kê.

Hiện nay, để đáp ứng yêu cầu phát triển của đất nước giai đoạn 2011-2020 và các năm tiếp theo, Tổng cục Thống kê đang triển khai thực hiện Đề án đổi mới đồng bộ các hệ thống chỉ tiêu thống kê, trong đó sẽ thực hiện rà soát, đổi mới hoạt động thống kê trên tất cả các lĩnh vực. Tổng cục Thống kê tin tưởng với sự chỉ đạo của Đảng và Nhà nước, với sự phối hợp của các Bộ, ngành, địa phương, cộng đồng doanh nghiệp và toàn xã hội, ngành Thống kê sẽ cung cấp thông tin ngày càng kịp thời với chất lượng cao hơn.



26. Cử tri tỉnh Hưng Yên kiến nghị: Đề nghị Chính phủ chỉ đạo các ngành, các địa phương tạo mọi điều kiện để người nông dân được hưởng lợi từ gói kích cầu của Chính phủ, để đầu tư vào giống, cây, con, mua máy móc phục vụ sản xuất nông nghiệp.

Trả lời: (Tại Công văn số 763/BKH-TH ngày 2/2/2010 của Bộ Kế hoạch và đầu tư)

Chính phủ luôn chú trọng và quan tâm chỉ đạo các bộ, ngành và địa phương tạo điều kiện để người dân nói chung và nông dân nói riêng được hưởng lợi từ chính sách kích cầu của Chính phủ. Năm 2010, tiếp tục thực hiện chính sách hỗ trợ mua máy móc thiết bị phục vụ sản xuất nông nghiệp, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số 2213/QĐ-TTg ngày 31/12/2009 sửa đổi, bổ sung một số điều của Quyết định số 497/QĐ-TTg ngày 17/4/2009 về hỗ trợ lãi suất mua máy móc, thiết bị vật tư phục vụ sản xuất nông nghiệp, vật tư xây dựng nhà ở nông thôn nhằm tạo thuận lợi hơn cho người dân. Mặt khác, trong năm 2010, Chính phủ dự kiến sẽ ban hành một số chính sách mới liên quan đến sự phát triển của khu vực nông thôn, ví dụ như chính sách về cơ giới hoá và giảm tổn thất sau thu hoạch; chính sách thu hút doanh nghiệp đầu tư vào nông thôn; chính sách tín dụng phục vụ phát triển nông nghiệp, nông thôn; đào tạo nghề cho lao động nông thôn.

Về hỗ trợ đầu tư vào khâu giống: Ngân sách nhà nước đầu tư cho chương trình giống tăng mạnh qua các năm. Đầu tư cho chương trình giống kế hoạch 2010 là trên 600 tỷ đồng. Các tổ chức, cá nhân đầu tư phát triển sản xuất giống gốc, giống siêu nguyên chủng, nguyên chủng, giống đầu dòng, giống mới sử dụng công nghệ cao… được vay vốn tín dụng đầu tư phát triển của nhà nước theo quy định. Ngoài ra, Chính phủ đã chỉ đạo Quỹ phát triển khoa học và công nghệ quốc gia, Quỹ phát triển khoa học và công nghệ địa phương dành kinh phí cho các dự án thử nghiệm về sản xuất, chế biến giống. Bên cạnh đó, Chính phủ cũng chỉ đạo các Ngân hàng thương mại quốc doanh tạo điều kiện thuận lợi cho các tổ chức, cá nhân vay vốn đầu tư sản xuất, chế biến giống.

27. Cử tri tỉnh Sơn La kiến nghị: Đề nghị Chính phủ xem xét cấp vốn bổ sung theo Tờ trình 46/TT - UBND ngày 10/4/2009 của Ủy ban nhân dân tỉnh Sơn La về việc đầu tư trung tâm cụm xã trọng điểm vùng cao, biên giới giai đoạn 2009 - 2010 trên địa bàn tỉnh Sơn La.

Trả lời: (Tại Công văn số 1022/BKH-TH ngày 10/02/2010 của Bộ Kế hoạch và đầu tư

Ngày 20/10/2008, Văn phòng Chính phủ có văn bản số 7003/VPCP-ĐP thông báo ý kiến của Thủ tướng Chính phủ đồng ý tiếp tục thực hiện 290 trung tâm cụm xã dở dang và 35 trung tâm cụm xã đầu tư mới.

Hiện nay, theo báo cáo của UBND tỉnh Sơn La, tỉnh Sơn La còn 12 trung tâm cụm xã dở dang với nhu cầu vốn đầu tư 40 tỷ đồng. Trong kế hoạch 2009, ngân sách trung ương đã bố trí 4 tỷ đồng từ dự toán ngân sách trung ương hỗ trợ có mục tiêu cho tỉnh Sơn La; trong quá trình điều hành thực hiện kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội năm 2009, ngân sách Trung ương tiếp tục ứng trước 20 tỷ đồng kế hoạch năm 2010 để tỉnh triển khai đầu tư các trung tâm cụm xã dở dang.

Trong kế hoạch năm 2010, ngân sách trung ương chưa bố trí vốn cho việc đầu tư các trung tâm cụm xã dở dang nói trên. Vì vậy, đề nghị UBND tỉnh Sơn La chủ động sử dụng nguồn vốn đã tạm ứng trong năm 2009 và lồng ghép với các nguồn vốn hợp pháp khác trên địa bàn để tiếp tục đầu tư các trung tâm cụm xã dở dang. Bộ Kế hoạch và Đầu tư sẽ phối hợp với các Bộ, ngành trung ương để tổng hợp nhu cầu và báo cáo Thủ tướng Chính phủ hỗ trợ thêm cho tỉnh khi có điều kiện.



28. Cử tri tỉnh Hà Tĩnh kiến nghị: Việc đầu tư kinh doanh hạ tầng cụm công nghiệp, trung tâm công nghiệp, điểm công nghiệp nhìn chung hiệu quả mang lại không cao, do vậy chưa thu hút được doanh nghiệp đầu tư kinh doanh hạ tầng mà chủ yếu trông chờ vào ngân sách nhà nước. Để thu hút các nhà đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng, đề nghị Chính phủ và các Bộ, ngành Trung ương có chính sách ưu đãi, hỗ trợ lãi suất vốn vay đối với những doanh nghiệp đầu tư phát triển hạ tầng các cụm công nghiệp - trung tâm công nghiệp, làng nghề nhằm thu hút các doanh nghiệp đầu tư sản xuất kinh doanh.

Trả lời: (Tại công văn số 762/BKH-TH ngày 2/2/2010 của Bộ Kế hoạch và đầu tư)

Theo quy định hiện hành, ngân sách trung ương xem xét hỗ trợ một phần vốn đầu tư xây dựng hạ tầng kỹ thuật các khu công nghiệp, cụm công nghiệp và tiểu thủ công nghiệp tại các địa phương có điều kiện kinh tế - xã hội khó khăn, khả năng thu hút đầu tư và phát triển công nghiệp hạn chế, nhằm thu hút các nhà đầu tư và giải quyết khó khăn thời gian đầu của các địa phương này.

- Điều kiện và mức hỗ trợ các khu công nghiệp tại các địa phương có điều kiện kinh tế - xã hội khó khăn thực hiện theo Quyết định số 43/2009/QĐ-TTg ngày 19/03/2009 của Thủ tướng Chính phủ.

- Các địa phương thuộc Vùng Tây Nguyên và Trung Du miền núi Bắc Bộ được hỗ trợ vốn từ ngân sách trung ương xây dựng hạ tầng cụm công nghiệp và tiểu thủ công nghiệp theo các Quyết định số 25/2008/QĐ-TTg và 27/2008/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ.

Ngoài ra, doanh nghiệp phát triển hạ tầng cơ sở làng nghề ở nông thôn có thể được xem xét vay vốn tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước với lãi suất ưu đãi theo quy định tại Quyết định số 132/2001/QĐ-TTg ngày 07/9/2001 của Thủ tướng Chính phủ về cơ chế tài chính thực hiện chương trình phát triển đường giao thông nông thôn, cơ sở hạ tầng nuôi trồng thuỷ sản, cơ sở hạ tầng làng nghề ở nông thôn và Thông tư số 156/2009/TT-BTC ngày 03/8/2009 của Bộ Tài chính hướng dẫn cơ chế vay vốn tín dụng đầu tư phát triển của nhà nước thực hiện Chương trình kiên cố hoá kênh mương, đầu tư các dự án đường giao thông nông thôn, cơ sở hạ tầng nuôi trồng thuỷ sản, cơ sở hạ tầng làng nghề ở nông thôn.

29. Cử tri tỉnh Bà Rịa-Vũng Tàu kiến nghị: Thời gian gần đây, xuất hiện một loạt các Tập đoàn kinh tế Nhà nước, nắm trong tay các nguồn lực khổng lồ của xã hội, đã kinh doanh đa nghề và được hưởng nhiều lợi thế. Các tập đoàn kinh tế đang độc quyền nhiều lĩnh vực của nền kinh tế, nên các doanh nghiệp vừa và nhỏ không thể cạnh tranh nổi, rất dễ dẫn đến phá sản. Đề nghị Chính phủ cần nghiên cứu, chỉ đạo cho các Tập đoàn chỉ được hoạt động sản xuất kinh doanh trong một số lĩnh vực có tính chất đảm bảo an ninh, quốc phòng và có tính cạnh tranh cao trên thị trường Quốc tế.

Trả lời: (Tại công văn số 759/BKH-TH ngày 2/2/2010 của Bộ Kế hoạch và đầu tư)

Nhà nước chỉ nắm giữ 100% vốn hoặc cổ phần chi phối đối với một số ít doanh nghiệp nhà nước hoạt động trong những ngành, lĩnh vực liên quan đến những hoạt động bí mật, an toàn, an ninh quốc gia; các lĩnh vực liên quan đến bảo vệ tài nguyên quốc gia và một số ngành nghề quan trọng khác. Các ngành nghề cụ thể này được thể hiện trong Quyết định số 38/2007/QĐ-TTg ngày 20/3/2007 của Thủ tướng Chính phủ quy định về tiêu chí, danh mục phân loại doanh nghiệp 100% vốn nhà nước, bao gồm: Sản xuất, cung ứng vật liệu nổ; Sản xuất, cung ứng hoá chất độc; Sản xuất, cung ứng chất phóng xạ; Sản xuất, sửa chữa vũ khí, khí tài, trang bị chuyên dùng cho quốc phòng, an ninh; trang thiết bị, tài liệu kỹ thuật và cung ứng dịch vụ bảo mật thông tin bằng kỹ thuật nghiệp vụ mật mã; Các doanh nghiệp được giao thực hiện nhiệm vụ quốc phòng, an ninh đặc biệt và các doanh nghiệp đóng tại các địa bàn chiến lược quan trọng, vùng sâu, vùng xa kết hợp kinh tế với quốc phòng theo quyết định của Thủ tướng Chính phủ; Truyền tải hệ thống điện quốc gia; sản xuất điện quy mô lớn có ý nghĩa đặc biệt quan trọng về kinh tế - xã hội, quốc phòng, an ninh; Quản lý, khai thác đường sắt quốc gia, đô thị; các cảng hàng không; cảng biển có quy mô lớn; Điều hành bay; điều hành vận tải đường sắt quốc gia, đô thị; Bảo đảm an toàn hàng hải; Bưu chính công ích; Phát thanh, truyền hình; Xổ số kiến thiết; Xuất bản, báo chí; In, đúc tiền; Sản xuất thuốc lá điếu; Quản lý, khai thác hệ thống công trình thủy lợi, thủy nông liên tỉnh, liên huyện, kè đá lấn biển; Quản lý, duy tu công trình đê điều, phân lũ và phòng chống thiên tai; Trồng và bảo vệ rừng đầu nguồn, rừng phòng hộ, rừng đặc dụng; Tín dụng chính sách, phục vụ phát triển kinh tế - xã hội.

Các doanh nghiệp nêu trên phải được củng cố về mặt tổ chức, kiện toàn bộ máy quản lý, áp dụng những chuẩn mực về quản trị doanh nghiệp hiện đại và hiệu quả cao, chủ yếu sẽ chuyển sang hoạt động theo mô hình công ty trách nhiệm hữu hạn.

30. Cử tri tỉnh Bình Định, Hà Tĩnh kiến nghị:Đề nghị Chính phủ tiếp tục chỉ đạo các Bộ, ngành và các địa phương thực hiện quyết liệt các chính sách, giải pháp tạo mọi điều kiện thuận lợi để phát triển sản xuất kinh doanh, góp phần kìm chế giảm phát có hiệu quả, đồng thời giải quyết tốt các vấn đề về môi trường và an sinh xã hội.

Trả lời: (tại Công văn số 768/BKH-TH ngày 2/2/2010 của Bộ Kế hoạch và đầu tư)

Trước những ảnh hưởng bất lợi của cuộc khủng hoảng tài chính thế giới năm 2008 và suy thoái kinh tế thế giới năm 2009, ngày 06/4/2009 Bộ Chính trị đã ra Kết luận về tình hình kinh tế - xã hội quý I năm 2009 và các giải pháp chủ yếu đến hết năm 2009. Quốc hội đã ban hành Nghị quyết 32/2009/QH12 ngày 19/6/2009, theo đó Quốc hội nhất trí điều chỉnh mục tiêu tổng quát của kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội năm 2009 là: “tập trung cao độ mọi nỗ lực ngăn chặn suy giảm kinh tế, phấn đấu duy trì tốc độ tăng trưởng kinh tế hợp lý, bền vững, giữ vững ổn định kinh tế vĩ mô, chủ động phòng ngừa lạm phát trở lại, đảm bảo an sinh xã hội, quốc phòng, an ninh, giữ vững ổn định chính trị, trật tự an toàn xã hội, trong đó mục tiêu hàng đầu là ngăn chặn suy giảm kinh tế”.

Nhờ sự chỉ đạo, lãnh đạo nhạy bén, kịp thời của Đảng, Quốc hội, Chính phủ đã bám sát thực tiễn, đánh giá đúng tình hình, xác định đúng mục tiêu, chuyển hướng kịp thời, quyết sách nhanh nhạy, tổ chức, chỉ đạo điều hành quyết liệt thực hiện các mục tiêu, nhiệm vụ đã đề ra. Chính phủ tập trung thực hiện nhiệm vụ trọng tâm là chủ động phòng chống suy giảm, khôi phục đà tăng trưởng, giữ vững ổn định kinh tế vĩ mô, bảo đảm an sinh xã hội.

Ngay từ Quý II năm 2008, Chính phủ đã quyết liệt chỉ đạo triển khai thực hiện 8 nhóm giải pháp nhằm kiềm chế lạm phát, giữ vững ổn định kinh tế vĩ mô, bảo đảm an sinh xã hội và tăng trưởng bền vững (Nghị quyết 10/2008/NQ-CP ngày 17/4/2008). Trước những diễn biến nhanh của tình hình kinh tế thế giới, Chính phủ tiếp tục đề ra 4 giải pháp cấp bách nhằm ngăn chặn suy giảm kinh tế, duy trì tăng trưởng kinh tế, bảo đảm an sinh xã hội (Nghị quyết 30/2008/NQ-CP ngày 11/12/2008) để tập trung mọi nỗ lực để chủ động ngăn chặn suy giảm kinh tế, thúc đẩy sản xuất, kinh doanh, đẩy mạnh xuất khẩu, kích cầu đầu tư và tiêu dùng, bảo đảm an sinh xã hội. Các nhóm giải pháp đó đã được các ngành, các cấp triển khai thực hiện trong thực tế và được sửa đổi, bổ sung cho phù hợp với tình hình diễn biến của kinh tế thế giới, trong đó đặc biệt là đã: (i) thực hiện có hiệu quả các gói kích cầu đầu tư và tiêu dùng, tập trung ngăn chặn suy giảm kinh tế, khôi phục đà tăng trưởng hợp lý; (ii) đẩy mạnh sản xuất kinh doanh, phát triển thị trường trong nước, mở rộng thị trường xuất khẩu; (iii) chuyển chính sách tài chính, tiền tệ từ thắt chặt sang thực hiện chính sách tài chính tích cực, chính sách tiền tệ thận trọng, linh hoạt; bảo đảm ổn định kinh tế vĩ mô, kích thích tăng trưởng và phòng ngừa lạm phát; (iv) chăm lo đời sống nhân dân, đẩy mạnh xoá đói giảm nghèo và giải quyết việc làm; (v) bám sát thực tiễn, nâng cao năng lực chỉ đạo điều hành của chính phủ, tạo đồng thuận trong toàn xã hội để thực hiện thắng lợi nhiệm vụ năm 2009.

Nhờ đó, nước ta đã thực hiện được mục tiêu tổng quát là ngăn chặn suy giảm kinh tế, duy trì tăng trưởng hợp lý, ổn định kinh tế vĩ mô và bảo đảm an sinh xã hội. Các lĩnh vực kinh tế - xã hội đã đạt những kết quả tích cực, quan trọng: Tăng trưởng GDP đạt khoảng 5,32%, trong đó khu vực công nghiệp và xây dựng tăng 5,52%, dịch vụ tăng 6,63%, nông, lâm nghiệp và thủy sản tăng 1,83%. Huy động vốn đầu tư toàn xã hội cho đầu tư phát triển tăng 15,3% so với năm 2008, bằng 42,8% GDP. Lạm phát được kiềm chế. An sinh xã hội được quan tâm đặc biệt và triển khai thực hiện có hiệu quả, nhất là Chương trình giảm nghèo nhanh và bền vững ở 62 huyện nghèo; tỷ lệ hộ nghèo tiếp tục giảm...

Bên cạnh đó, Chính phủ đã quan tâm giải quyết các các vấn đề xã hội, môi trường để đảm bảo quá trình phát triển bền vững cùng với thực hiện tốt hơn chính sách an sinh xã hội. Chính phủ đã đề ra nhiều chính sách nhằm thực hiện thành công Chiến lược bảo vệ môi trường quốc gia đến năm 2010 và định hướng đến năm 2020, định hướng Phát triển bền vững ở Việt Nam (Chương trình Nghị sự 21), tiếp tục hoàn thiện luật pháp, chính sách về bảo vệ môi trường, giám sát chặt chẽ việc phòng ngừa, ngăn chặn, không để phát sinh thêm các ô nhiễm mới, xử lý triệt để những điểm ô nhiễm môi trường nghiêm trọng. Thực hiện cơ chế gắn bảo vệ môi trường ngay từ đầu và trong suốt quá trình xây dựng, thực hiện các chiến lược quy hoạch, kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội, xây dựng cơ chế phòng tránh, khắc phục hậu quả thiên tai, ứng phó và giảm nhẹ thiên tai do biến đổi khí hậu. Nhà nước khuyến khích và hỗ trợ áp dụng kỹ thuật sản xuất sạch hơn trên cơ sở tự nguyện và phát huy nội lực của các cơ sở sản xuất nhằm thực hiện mục tiêu bảo vệ môi trường và lợi ích kinh tế. Đẩy mạnh tăng cường quản lý nhà nước về bảo vệ môi trường và nâng cao nhận thức của cơ sở sản xuất - kinh doanh về lợi ích mang lại từ áp dụng kỹ thuật sản xuất sạch hơn.

Hệ thống an sinh xã hội được phát triển với những chính sách cụ thể nhằm phòng ngừa và khắc phục rủi ro trong kinh tế thị trường và rủi ro xã hội khác cho mọi người, không ngừng nâng cao chất lượng cuộc sống của nhân dân. Chính phủ đã tập trung chỉ đạo các cấp, các ngành tiếp tục thực hiện các chương trình, chính sách xoá đói giảm nghèo như: Chương trình 134, chương trình 135, chương trình 30a và nhiều chương trình quốc gia khác hỗ trợ đồng bào dân tộc thiểu số, các xã đặc biệt khó khăn, cấp miễn phí thẻ bảo hiểm y tế và miễn giảm chi phí khám chữa bệnh cho người nghèo, trong năm 2009 đã có 37,6 nghìn ngôi nhà cho người nghèo và đối tượng chính sách được xây mới và sửa chữa với tổng trị giá 400 tỷ đồng, cấp thẻ bảo hiểm y tế và khám chữa bệnh miễn phí cho 5 triệu lượt người thuộc diện chính sách. Đặc biệt, khi nền kinh tế thế giới đi vào khủng hoảng những năm vừa qua, nhiều doanh nghiệp phải thu hẹp quy mô sản xuất, kéo theo đó là nhiều người lao động bị mất việc làm. Trước tình hình đó, Chính phủ đã đề ra hàng loạt các chính sách nhằm bảo đảm an sinh xã hội, trong đó phải kể đến như: Điều chỉnh lương hưu, trợ cấp bảo hiểm xã hội và trợ cấp hàng tháng đối với cán bộ xã đã nghỉ việc, thực hiện từ 01/10/2008 (Nghị định 101/2008/NĐ-CP, ngày 12/9/2008); Điều chỉnh chế độ trợ cấp, phụ cấp ưu đãi người có công với cách mạng, thực hiện từ 01/10/2008 (Nghị định 105/2008/NĐ-CP, ngày 16/9/2008); Tiếp tục thực hiện trợ cấp khó khăn cho người hưởng lương từ ngân sách nhà nước có thu nhập thấp (hệ số lương dưới 3,0), đã được thực hiện từ 01/10/2008 (Quyết định 81/QĐ-TTg, ngày 15/01/2009); Qui định mức lương tối thiểu vùng đối với người lao động làm việc ở công ty, doanh nghiệp, hợp tác xã, tổ hợp tác, trang trại, hộ gia đình, cá nhân và các tổ chức khác của Việt Nam có thuê lao động, thực hiện từ 01/01/2009 (Nghị định 110/2008/NĐ-CP, ngày 10/10/2008) và qui định mức lương tối thiểu vùng đối với lao động Việt Nam làm việc cho doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, cơ quan, tổ chức nước ngoài, tổ chức quốc tế và cá nhân người nước ngoài tại Việt Nam, thực hiện từ 01/01/2009 (Nghị định 111/2008/NĐ-CP, ngày 10/10/2008); Chương trình giảm nghèo nhanh và bền vững đối với 62 huyện nghèo (Nghị quyết 30a/2008/NQ-CP, ngày 27/12/2008); Tổ chức triển khai bảo hiểm thất nghiệp theo luật BHXH, thực hiện từ 01/01/2009 (Nghị định 127/2008/NĐ-CP, ngày 12/12/2008); Hỗ trợ đối với người lao động mất việc làm trong doanh nghiệp gặp khó khăn do suy giảm kinh tế (Quyết định 30/2009/QĐ-TTg, ngày 23/02/2009); Chính sách hỗ trợ hộ nghèo về nhà ở (Quyết định 167/2008/QĐ-TTg, ngày 12/12/2008); Hỗ trợ lãi suất vốn vay mua máy móc thiết bị, vật tư phục vụ sản xuất nông nghiệp và vật liệu xây dựng nhà ở khu vực nông thôn, thực hiện từ 14/4/2009 (Quyết định 497/QĐ-TTg, ngày 06/5/2009); Hỗ trợ lãi suất đối với các khoản vay tại Ngân hàng Chính sách xã hội, thực hiện từ ngày 06/5/2009 (Quyết định 579/QĐ-TTg, ngày 06/5/2009).

Tóm lại, trong thời gian qua, trước tình hình kinh tế suy thoái, Chính phủ đã chủ động, tích cực chỉ đạo các bộ, ngành triển khai các giải pháp kinh tế vĩ mô và giải pháp vi mô về khuyến khích sản xuất và an sinh xã hội, nhờ đó mà mà nền kinh tế đã sớm vượt qua khủng hoảng và tiếp tục phát triển. Trong thời gian tới, Chính phủ sẽ tiếp tục chỉ đạo sát sao hơn các ngành và các cấp chính quyền địa phương triển khai các giải pháp phục hồi và phát triển kinh tế.



31. Cử tri thành phố Hồ Chí Minh, và các tỉnh Vĩnh Phúc, Cần Thơ, Bạc Liêu, Cần Thơ kiến nghị: Cử tri cho rằng việc triển khai thực hiện Dự án Bô-xit ở Tây Nguyên cần đặc biệt quan tâm đến môi trường sinh thái, lao động nước ngoài và an ninh quốc phòng, vì đây là một vấn đề nhạy cảm; đề nghị chỉ đạo chặt chẽ các Bộ, ngành liên quan và các địa phương nơi thực hiện Dự án cần tổ chức đánh giá đầy đủ về tác động môi trường, đồng thời thực hiện tốt công tác bồi thường, giải phóng mặt bằng, di dân tái định cư, bảo đảm đời sống nơi ở mới tốt hơn nơi ở cũ, đặc biệt quan tâm đến việc bảo tồn, phát triển phong tục, tập quán và giữ gìn bản sắc của đồng bào dân tộc trong quá trình bố trí tái định cư.

Trả lời (Tại Công văn số 1510/BCT-KH ngày 5/2/2010 của Bộ Công thương)

1. Về tác động đến môi trường sinh thái của các dự án bô xit

Vấn đề môi trường lớn nhất khi triển khai các dự án bô xit được nhiều người quan tâm là bùn thải-bùn đỏ trong quá trình sản xuất alumin.

Thực hiện ý kiến chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ tại Thông báo số 17/TB-VPCP ngày 13 tháng 01 năm 2009, Bộ Công Thương đã phối hợp với Liên hiệp các hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam tổ chức Hội thảo khoa học với chủ đề “Vai trò của công nghiệp khai thác bô xit - sản xuất alumin-nhôm đối với phát triển kinh tế-xã hội Tây Nguyên và những yếu tố ảnh hưởng đến môi trường, văn hoá khu vực” (tổ chức ngày 9 tháng 4 năm 2009 tại Hà Nội). Qua các báo cáo trình bày tại hội thảo về những giải pháp bảo vệ môi trường và hoàn thổ đã áp dụng tại Úc và Trung Quốc của các Tập đoàn nước ngoài như Alcoa, Chalco và báo cáo bổ sung của Tập đoàn Công nghiệp Than - Khoáng sản Việt Nam (TKV) cho thấy:

Kết quả phân tích bùn đỏ của dự án khai thác bô xit Tây Nguyên đã có kết luận tin cậy về thành phần bùn đỏ không có chất gây độc hại cho môi trường, không có chất phóng xạ và không thuộc loại chất thải nguy hiểm. Tuy nhiên, trong phần dung dịch bùn đỏ còn lượng kiềm dư nhất định, độ PH≥ 12,5. Lượng kiềm này có thể thẩm thấu, gây tác hại cho đất xung quanh và làm ô nhiễm nguồn nước. Vì vậy, phải xử lý huyền phù bùn đỏ theo tiêu chuẩn xử lý chất thải nguy hiểm.

Như vậy, việc khai thác và chế biến bô xit Tây Nguyên không thể tránh khỏi gây ra những tác động môi trường nhất định. Tuy nhiên, kinh nghiệm thực tế của thế giới cho thấy những tác động môi trường này hoàn toàn có thể kiểm soát và khống chế tới mức an toàn cần thiết. Vấn đề quan trọng là cần tăng cường công tác quản lý, kiểm tra và giám sát các giải pháp bảo vệ môi trường ngay trong quá trình xây dựng, cũng như trong suốt quá trình vận hành các dự án alumin.

Hiện nay, công nghệ thải và chứa cách ly bùn đỏ đã đạt hiệu quả gần như an toàn tuyệt đối đối với môi trường và đang được ứng dụng rộng rãi trên thế giới. Phương pháp thải ướt bùn đỏ dự kiến áp dụng cho dự án alumin Tân Rai và Nhân Cơ đã được áp dụng thành công ở một số nước (Úc, Trung Quốc) với các giải pháp giảm thiểu ô nhiễm đồng bộ, như chống thấm hồ bùn đỏ, thu hồi nước từ hồ bùn đỏ, kiểm tra nguồn nước và tái tạo sinh thái hồ bùn đỏ. TKV cam kết sẽ thực hiện nghiêm túc và đầy đủ các giải pháp trên.

Thực hiện kết luận của Bộ Chính trị tại Thông báo 245-TB/TW ngày 24 tháng 4 năm 2009, Thủ tướng Chính phủ đã có ý kiến chỉ đạo tại công văn số 650/TTg-KTN ngày 29 tháng 4 năm 2009, giao nhiệm vụ cho Bộ Công Thương và Bộ Tài nguyên và Môi trường chủ trì, phối hợp với các Bộ, ngành và địa phương liên quan kiểm tra, giám sát các giải pháp bảo vệ môi trường, cụ thể như sau:

- Thẩm định thiết kế kỹ thuật hồ bùn đỏ của dự án Tân Rai và Nhân Cơ, đảm bảo an toàn lâu dài đối với môi trường.

- Phối hợp với chính quyền địa phương theo dõi, giám sát chặt chẽ việc thực hiện các giải pháp môi trường đối với hai dự án Tân Rai và Nhân Cơ.

- Lập và trình duyệt báo cáo đánh giá môi trường chiến lược.

Hiện nay, các nhiệm vụ trên đang được các đơn vị triển khai thực hiện.

2. Về vấn đề người lao động nước ngoài

Theo báo cáo của TKV, sự tham gia của lao động nước ngoài và Việt Nam đối với dự án Tân Rai như sau:



a) Giai đoạn xây dựng dự án

- Phần xây dựng mỏ bôxit và khai thác quặng bô xit: Toàn bộ sẽ do lao động Việt Nam thực hiện.

- Phần xây dựng nhà máy tuyển quặng bô xit: Toàn bộ sẽ do lao động Việt Nam thực hiện.

- Phần xây dựng Nhà máy sản xuất alumin (gói thầu EPC): chủ yếu do lao động của nhà thầu Chalieco (Trung Quốc) thực hiện, một phần do lao động Việt Nam thực hiện. Số lượng lao động Trung Quốc tại công trường nhà máy alumin hiện nay (tính đến hết ngày 31 tháng 12 năm 2009) khoảng 768 người, lao động Việt Nam khoảng 500 người.



b) Giai đoạn vận hành dự án

Toàn bộ lao động là người Việt Nam. Trong trường hợp cần thiết, thời gian đầu vận hành nhà máy alumin có thể thuê thêm chuyên gia nước ngoài hướng dẫn (người Trung Quốc hoặc nước khác). Thực tế nhiều dự án EPC đã và đang thực hiện theo hình thức này (như lọc dầu Dung Quất, một loạt nhà máy điện…), giai đoạn đầu thuê một số chuyên gia nước ngoài hướng dẫn vận hành, sau một năm, khi các cán bộ và công nhân Việt Nam đã tự vận hành được thì không phải thuê chuyên gia nước ngoài nữa.

Tại công văn số 650/TTg-KTN ngày 29 tháng 4 năm 2009, Thủ tướng Chính phủ đã giao nhiệm vụ cho Bộ Công an phối hợp với các địa phương kiểm tra, giám sát chủ đầu tư (TKV) thực hiện đúng quy định hiện hành về lao động người nước ngoài làm việc tại Việt Nam và bảo đảm an ninh, trật tự trong khu vực.


Каталог: content -> vankien -> Lists -> DanhSachVanKien -> Attachments
Attachments -> KỲ HỌp thứ TÁm quốc hội khoá XII (20/10/2010 26/11/2010)
Attachments -> Đa dạng sinh họC Ở việt nam
Attachments -> PHẦn I các bộ, ngàNH, CƠ quan thuộc chính phủ trả LỜi cáC Ý kiếN, kiến nghị CỦa cử tri
Attachments -> CHÍnh phủ Số: 62/bc-cp cộng hòa xã HỘi chủ nghĩa việt nam độc lập Tự do Hạnh phúc Hà Nội, ngày 5 tháng 5 năm 2008 BÁo cáO
Attachments -> BỘ giao thông vận tảI 1/ Cử tri tỉnh Đắk Lắc kiến nghị
Attachments -> QUỐc hội khóa XI uỷ ban về các vấn đề xã hội
Attachments -> QUỐc hội số: CỘng hoà XÃ HỘi chủ nghĩa việt nam
Attachments -> 210/bc-btnmt cộng hoà XÃ HỘi chủ nghĩa việt nam
Attachments -> KỲ HỌp thứ TÁm quốc hội khoá XII (20/10/2010 26/11/2010) TẬp hợP Ý kiếN, kiến nghị CỦa cử tri
Attachments -> Ủy ban thưỜng vụ quốc hội số: 365/bc-ubtvqh12

tải về 4.57 Mb.

Chia sẻ với bạn bè của bạn:
1   2   3   4   5   6   7   8   9   ...   60




Cơ sở dữ liệu được bảo vệ bởi bản quyền ©hocday.com 2024
được sử dụng cho việc quản lý

    Quê hương