UỶ ban thưỜng vụ quốc hội ban dân nguyện kỳ HỌp thứ BẢY quốc hội khoá XII



tải về 3.53 Mb.
trang9/47
Chuyển đổi dữ liệu17.08.2016
Kích3.53 Mb.
#21000
1   ...   5   6   7   8   9   10   11   12   ...   47

Trả lời: (Tại Công văn số 4128/BTC-TCDN ngày 05/4/2010)

Theo tinh thần Nghị quyết Hội nghị lần thứ 3, Hội nghị lần thứ 9 Ban Chấp hành trung ương Đảng khoá IX, Nghị quyết đại hội Đảng X; Căn cứ Luật Doanh nghiệp nhà nước, Luật Đầu tư được Quốc hội thông qua, Tổng công ty Đầu tư và kinh doanh vốn nhà nước được thành lập theo Quyết định số 151/2005/QĐ-TTg ngày 20/6/2005 của Thủ tướng Chính phủ với mục tiêu là đổi mới cơ chế quản lý vốn nhà nước đầu tư tại doanh nghiệp nhằm tách dần chức năng quản lý nhà nước về kinh tế và chức năng đại diện chủ sở hữu nhà nước tại các doanh nghiệp, đẩy mạnh cải cách hành chính trong công tác quản lý doanh nghiệp, xoá bỏ sự can thiệp hành chính của cơ quan nhà nước, nâng cao hiệu quả sử dụng vốn nhà nước.

Nhiệm vụ chính của SCIC là tiếp nhận và thực hiện quyền đại diện chủ sở hữu vốn nhà nước đầu tư tại các công ty trách nhiệm hữu hạn nhà nước một thành viên, công ty trách nhiệm hữu hạn có hai thành viên trở lên, công ty cổ phần được chuyển đổi từ các công ty nhà nước độc lập hoặc mới thành lập; thực hiện cơ cấu lại vốn nhà nước tại các doanh nghiệp, rút vốn ở những nơi Nhà nước không cần nắm giữ, tăng cường đầu tư vốn vào những lĩnh vực, ngành nghề kinh tế then chốt, quan trọng của nền kinh tế quốc dân mà Nhà nước cần nắm giữ hoặc chi phối, hoặc tư nhân và các thành phần kinh tế khác không làm...

Riêng, đối với các doanh nghiệp làm nhiệm vụ công ích, gắn với thực hiện chính sách xã hội, với ngân sách địa phương, Thủ tướng Chính phủ đã có ý kiến chỉ đạo tại công văn số 128/VPCP-KTTH ngày 08/1/2007 của Văn phòng Chính phủ: "Trước mắt tạm thời Tổng công ty Đầu tư và kinh doanh vốn nhà nước chưa tiếp nhận quyền đại diện chủ sở hữu vốn nhà nước tại các doanh nghiệp làm nhiệm vụ công ích, gắn với thực hiện chính sách xã hội, với ngân sách địa phương".

Thực tế đã có một số địa phương có kiến nghị chuyển giao lại quyền đại diện chủ sở hữu vốn nhà nước tại các doanh nghiệp cung cấp sản phẩm, dịch vụ công ích và đã được Thủ tướng Chính phủ chấp thuận tại công văn số 2576/TTg-ĐMDN ngày 23/12/2009, theo đó, Thủ tướng Chính phủ đã giao Bộ Tài chính quyết định việc chuyển quyền đại diện chủ sở hữu vốn nhà nước đối với các doanh nghiệp làm nhiệm vụ công ích gắn với thực hiện chính sách xã hội, với ngân sách địa phương từ Tổng công ty Đầu tư và kinh doanh vốn nhà nước về Uỷ ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương khi địa phương có đề nghị bằng văn bản.

Vì vậy, trường hợp Uỷ ban nhân dân tỉnh Lào Cai có nhu cầu tiếp nhận lại các doanh nghiệp có vốn nhà nước góp chủ yếu làm nhiệm vụ công ích trên địa bàn thì đề nghị làm việc với SCIC và có văn bản gửi Bộ Tài chính để xem xét, giải quyết.



76. Cử tri tỉnh Kon Tum kiến nghị: Đề nghị Chính phủ và các Bộ, ngành Trung ương tăng thời gian cho vay vốn trồng cây cao su thuộc chương trình đa dạng hóa nông nghiệp từ 04 năm lên 07 năm. Vì cây cao su sau khi trồng 07 năm mới bắt đầu thu hoạch, nên nếu thời gian cho vay 04 năm nông dân chưa có sản phẩm thu hoạch nên không có khả năng trả lãi suất và vốn.

Trả lời: (Tại Công văn số 4598/BTC-TCNH ngày 13/4/2010)

1. Về chương trình đa dạng hóa nông nghiệp:

Dự án Ða dạng hoá Nông nghiệp được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt tại Quyết định số 349/QĐ-TTg ngày 25/4/1998 được triển khai tại 6 tỉnh ở phía bắc, 8 tỉnh ở duyên hải miền Trung và 4 tỉnh ở Tây nguyên (KonTum, Gia Lai, Ðăk Lắk, Ðăk Nông) với mục tiêu chính: Ða dạng hoá thâm canh sản xuất nông nghiệp nhằm tăng cường và ổn định thu nhập của nông dân thông qua việc phát triển cao su tiểu điền.

Theo quy định tại Hợp đồng cho vay lại giữa Bộ Tài chính và Ngân hàng Nông nghiệp và phát triển nông thôn Việt Nam, Ngân hàng sẽ cho các hộ nông dân vay (sau đây gọi là chủ đầu tư) để trồng mới; phục hồi vườn cao su tiểu điền theo 3 mức: (1) cho vay ngắn hạn dưới 12 tháng, (2) cho vay trung hạn từ trên 12 tháng - dưới 60 tháng, (3) cho vay dài hạn trên 60 tháng. Tùy theo từng điều kiện cụ thể và phương án vay vốn của từng hộ nông dân, ngân hàng sẽ thẩm định và quyết định thời hạn cho vay, ví dụ:

- Cho vay vốn để phục hồi vườn cao su: căn cứ vào độ tuổi của vườn cao su, cán bộ ngân hàng sẽ thẩm định để cho vay vốn chăm sóc, phục hồi, thông thường thời gian vay vốn tối đa sau 4 năm sẽ tiến hành thu nợ theo phương pháp thu hồi dần vì các vườn cây này đã có và chỉ cần đầu tư chăm sóc cây để ra mủ, không phải trồng mới. Trường hợp các hộ dân có điều kiện và nhu cầu trả nợ trước hạn cũng sẽ được ngân hàng chấp nhận.

- Cho vay vốn để trồng mới: Do tính chất của việc trồng mới cao su là thời gian từ khi trồng đến khi người nông dân thu hoạch cao mủ cao su là 7 -8 năm, cán bộ ngân hàng sẽ thẩm định từng phương án vay vốn, khả năng tài chính của chủ đầu tư để cho vay trồng mới, thời hạn cho vay thông thường sau 7 năm mới tiến hành thu hồi nợ theo phương pháp thu hồi dần và trên cơ sở khả năng trả nợ của chủ đầu tư. Trường hợp các hộ dân có điều kiện và nhu cầu trả nợ trước hạn cũng sẽ được ngân hàng chấp thuận.

Đối với đề nghị tăng thời gian cho vay vốn trồng cây cao su của cử tri KonTum, đề nghị chủ đầu tư liên hệ với chi nhánh Ngân hàng Nông nghiệp và phát triển nông thôn Việt Nam tại địa bàn để được hướng dẫn cụ thể.

2. Cơ chế vay vốn tín dụng đầu tư của Nhà nước để đầu tư trồng cây cao su

Ngày 3/6/2009, Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định số 750/QĐ-TTg ngày 3/6/2009 phê duyệt Quy hoạch phát triển cao su đến năm 2015 và tầm nhìn đến năm 2020. Theo đó: Các tổ chức, hộ gia đình, cá nhân trồng cao su tại địa bàn khó khăn được vay vốn tín dụng đầu tư của Nhà nước từ Ngân hàng Phát triển Việt Nam theo quy định tại Nghị định số 151/2006/NĐ-CP ngày 20/12/2006 và Nghị định số 106/2008/NĐ-CP ngày 19/9/2008 của Chính phủ về sửa đổi bổ sung một số điều của Nghị định số 151/2006/NĐ-CP.

Theo quy định hiện hành của Nhà nước về tín dụng đầu tư, thời gian vay vốn tối đa là 12 năm. Đối với một số dự án đặc thù (dự án Nhóm A, trồng cây thông, cây cao su) cần có thời gian vay vốn trên 12 năm mới đủ điều kiện thực hiện thì thời hạn cho vay tối đa là 15 năm.

Vì vậy, đề nghị các hộ gia đình trồng cây cao su liên hệ với Chi nhánh Ngân hàng Phát triển Việt Nam tại địa phương để được hướng dẫn cụ thể.

77. Cử tri các tỉnh Hà Nam, Hải Phòng, Điện Biên, Đà Nẵng kiến nghị: Đề nghị Nhà nước có chính sách hỗ trợ kinh phí hoạt động cho các đoàn thể nhân dân ở thôn, làng, tổ dân phố.

Trả lời: (Tại Công văn số 4239/BTC-NSNN ngày 07/4/2010)

Đoàn thể nhân dân có nhiều hình thức, loại hình hoạt động. Có đoàn thể nhân dân được tổ chức theo 4 cấp hành chính (trung ương, tỉnh, huyện, xã), nhưng cũng có đoàn thể nhân dân chỉ có ở cấp trung ương, ngược lại có đoàn thể nhân dân chỉ tổ chức ở cấp cơ sở. Vì vậy, tuỳ theo đặc điểm, yêu cầu đòi hỏi mà các đoàn thể nhân dân mang tính chất chính trị, xã hội, nghề nghiệp khác nhau.

Theo quy định tại tiết c và d Khoản 1 Điều 33 Luật Ngân sách nhà nước, ngân sách địa phương có trách nhiệm đảm bảo kinh phí hoạt động của các cơ quan Nhà nước, cơ quan Đảng Cộng sản Việt Nam và các tổ chức chính trị - xã hội ở địa phương; hỗ trợ cho các tổ chức chính trị xã hội- nghề nghiệp, tổ chức xã hội, tổ chức xã hội nghề nghiệp ở địa phương theo quy định của pháp luật. Vì vậy, căn cứ tính chất và đặc điểm của từng đoàn thể ở thôn, bản, tổ dân phố; khả năng ngân sách từng địa phương; đề nghị Uỷ ban nhân dân các tỉnh, thành phố có chính sách hỗ trợ kinh phí hoạt động cho các đoàn thể nhân dân ở thôn, làng, tổ dân phố cho phù hợp.

78. Cử tri tỉnh Nghệ An kiến nghị: Về chính sách tiền lương: Với cơ chế tiền lương như hiện nay 3 năm tăng 1 lần, các đơn vị khoán theo Nghị định 130/CP, Nghị định 43/CP với định mức chi trên dưới 40-50 triệu đồng/biên chế, trong đó quỹ lương chiếm khoảng 40 triệu đồng thì việc khoán chi không thực sự tạo động lực, khuyến khích cán bộ, công chức công tác. Đề nghị nghiên cứu giao khoán tổng quỹ lương với biên chế tối đa cho từng đơn vị, thủ trưởng đơn vị quyết định mức lương cho từng cán bộ, công chức.

Trả lời: (Tại Công văn số 3740/BTC-HCSN ngày 29/3/2010)

1. Về chế độ tăng lương hàng năm:

Theo quy định tại Nghị định số 204/2004/NĐ-CP ngày 14/12/2004 của Chính phủ về chế độ tiền lương đối với cán bộ, công chức, viên chức và lực lượng vũ trang, chế độ nâng bậc lương thường xuyên hàng năm được căn cứ kết quả hoàn thành nhiệm vụ của đơn vị; thời gian giữ bậc trong ngạch được quy định từ 1 đến 3 năm tuỳ theo từng loại đối tượng trong cơ quan, đơn vị.

2. Về kinh phí tự chủ theo Nghị định số 130/2005/NĐ-CP và Nghị định số 43/2006/NĐ-CP:

- Đối với cơ quan hành chính nhà nước: Các cơ quan hành chính nhà nước được quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm về sử dụng biên chế và kinh phí quản lý hành chính theo quy định tại Nghị định số 130/2005/NĐ-CP ngày 17/10/2005 của Chính phủ. Theo đó, kinh phí phân bổ được xác định trên cơ sở biên chế được cấp có thẩm quyền giao, định mức phân bổ ngân sách theo chỉ tiêu biên chế và các khoản chi hoạt động đặc thù theo chế độ quy định. Trong quá trình thực hiện, nếu cơ quan có số biên chế thực tế thấp hơn biên chế được cấp có thẩm quyền giao thì số kinh phí chênh lệch giữa biên chế thực tiễn và biên chế được giao được xác định là kinh phí quản lý hành chính tiết kiệm được. Phần kinh phí tiết kiệm này cùng với các khoản kinh phí tiết kiệm khác của cơ quan trong năm được dùng để chi thu nhập tăng thêm (ngoài tiền lương, phụ cấp theo quy định), khen thưởng, phúc lợi, trích lập quỹ dự phòng để ổn định thu nhập.

Căn cứ chế độ quy định nêu trên và định mức phân bổ ngân sách do Hội đồng nhân dân cấp tỉnh quyết định, việc phân bổ kinh phí cho từng cơ quan, đơn vị thuộc địa phương quản lý do địa phương quyết định.

- Đối với đơn vị sự nghiệp thực hiện theo quy định tại Nghị định số 43/2006/NĐ-CP: Việc phân bổ kinh phí chi sự nghiệp của các đơn vị được xác định trên cơ sở nhiệm vụ được cơ quan có thẩm quyền giao và chế độ, định mức hiện hành.

Đối với quỹ tiền lương, tiền công của đơn vị sự nghiệp: Nhà nước không giao quỹ tiền lương cho các đơn vị sự nghiệp. Tuỳ theo kết quả hoạt động tài chính trong năm, đơn vị sự nghiệp xác định tổng mức chi trả thu nhập trong năm của đơn vị, trong đó:

+ Đối với đơn vị tự bảo đảm chi phí hoạt động được quyết định tổng mức thu nhập trong năm cho người lao động sau khi đã thực hiện trích lập quỹ phát triển hoạt động sự nghiệp.

+ Đối với đơn vị sự nghiệp tự bảo đảm một phần chi phí hoạt động được quyết định tổng mức thu nhập trong năm cho người lao động, nhưng tối đa không quá 3 lần quỹ tiền lương cấp bậc, chức vụ trong năm do nhà nước quy định sau khi đã thực hiện trích lập quỹ phát triển hoạt động sự nghiệp.

+ Đối với đơn vị sự nghiệp do ngân sách nhà nước bảo đảm toàn bộ kinh phí hoạt động, đơn vị xác định tổng mức chi trả thu nhập trong năm của đơn vị tối đa không quá 2 lần quỹ tiền lương cấp bậc, chức vụ do nhà nước quy định.

Việc chi trả thu nhập cho người lao động trong đơn vị được thực hiện theo nguyên tắc: Chi trả thu nhập theo kết quả hoàn thành nhiệm vụ và hiệu suất công tác. Thủ trưởng đơn vị chi trả thu nhập theo quy chế chi tiêu nội bộ của đơn vị.



79. Cử tri tỉnh Tiền Giang kiến nghị: Cử tri kiến nghị Chính phủ cho phép địa phương thực hiện hỗ trợ kinh phí đối với ngành dọc trong công tác bảo vệ an ninh, trật tự tại địa phương.

Trả lời: (Tại Công văn số 4238/TC-NSNN ngày 074/2010)

Tại điểm g Khoản 2 Điều 5 Nghị định số 60/2003/NĐ - CP ngày 06/6/2003 của Chính phủ về Quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành Luật Ngân sách nhà nước đã quy định: Uỷ ban nhân dân các cấp được sử dụng ngân sách cấp mình để hỗ trợ cho các đơn vị do cấp trên quản lý đóng trên địa bàn trong các trường hợp:

- Khi xảy ra thiên tai và các trường hợp cấp thiết khác mà địa phương cần khẩn trương huy động lực lượng để bảo đảm ổn định tình hình kinh tế - xã hội.

- Các đơn vị do cấp trên quản lý khi thực hiện chức năng của mình, kết hợp thực hiện một số nhiệm vụ theo yêu cầu của cấp dưới.

Hàng năm, căn cứ tình hình thực tế và khả năng cân đối ngân sách địa phương, đề nghị Uỷ ban nhân dân tỉnh Tiền Giang ưu tiên bố trí kinh phí đảm bảo công tác bảo vệ an ninh, trật tự tại địa phương, trong đó hỗ trợ các ngành dọc trong công tác bảo vệ an ninh, trật tự trên địa bàn theo đúng quy định tại điểm g Khoản 2 Điều 5 Nghị định số 60/2003/NĐ - CP ngày 06/6/2003 của Chính phủ về Quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành Luật ngân sách nhà nước nêu trên.

80. Cử tri tỉnh Khánh Hòa kiến nghị: Cử tri đề nghị nên quy định có cơ quan chuyên trách về việc quản lý vật giá ở Trung ương để điều hành quản lý giá cả thị trường trong nước, tránh tình trạng giá cả thị trường, nhất là những mặt hàng thiết yếu biến động, gây ảnh hưởng đến sản xuất và đời sống nhân dân.

Trả lời: (Tại Công văn số 5307/BTC-QLG ngày 28/4/2010)

Về cơ cấu tổ chức: Trước đây, khi nền kinh tế thực hiện cơ chế kế hoạch hoá tập trung, Nhà nước đã thành lập Uỷ ban Vật giá Nhà nước ở Trung ương và Uỷ ban Vật giá các tỉnh, thành phố để thực hiện nhiệm vụ quản lý giá cả của nền kinh tế. Khi đất nước chuyển sang thực hiện cơ chế kinh tế thị trường, nhiệm vụ quản lý giá đã thay đổi theo hướng: Nhà nước giảm dần việc quy định hầu hết các loại giá hàng hoá, dịch vụ trong nền kinh tế nên cơ quan chuyên trách vật giá đã được tổ chức thay đổi theo chuyển thành Ban Vật giá Chính phủ; ở các địa phương thì nhập Uỷ ban Vật giá tỉnh vào Sở Tài chính. Sau đó, Chính phủ đã quyết định chuyển Ban Vật giá Chính phủ vào Bộ Tài chính (nay được tổ chức lại thành Cục Quản lý giá thuộc Bộ Tài chính). Từ đây, Bộ Tài chính là cơ quan giúp Chính phủ thống nhất quản lý nhà nước về giá trong phạm vi cả nước, có trách nhiệm tham mưu cho Chính phủ hoặc trực tiếp ban hành cơ chế, chính sách về quản lý giá, hướng dẫn các Bộ, ngành, địa phương, doanh nghiệp trong việc chấp hành pháp luật về giá.

Về phân cấp quản lý giá: Theo quy định tại Pháp lệnh giá (Điều 32):

- Chính phủ thống nhất quản lý nhà nước về giá trong phạm vi cả nước.

- Cơ quan quản lý nhà nước về giá chịu trách nhiệm trước Chính phủ thực hiện quản lý nhà nước về giá.

- Các bộ, cơ quan ngang bộ trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình có trách nhiệm phối hợp với cơ quan quản lý nhà nước về giá trong việc thực hiện chức năng quản lý nhà nước về giá thuộc ngành mình theo phân cấp quản lý giá của Chính phủ.

- Uỷ ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình có trách nhiệm thực hiện chức năng quản lý nhà nước về giá tại địa phương theo phân cấp quản lý giá của Chính phủ.

Đồng thời, công tác quản lý nhà nước về giá còn được quy định cụ thể tại các Luật chuyên ngành như: Luật Điện lực, Luật Hàng không, Luật Đất đai, Luật Bảo vệ và Phát triển rừng, Luật Nhà ở, Luật Dược,…. Tại các văn bản này, Nhà nước đã quy định cụ thể thẩm quyền quản lý nhà nước về giá của Chính phủ, các Bộ, Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh đối với từng lĩnh vực cụ thể (Điều 56 Luật Đất đai quy định: Chính phủ quy định phương pháp xác định giá đất; khung giá các loại đất cho từng vùng, theo từng thời gian; Uỷ ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương xây dựng giá đất cụ thể tại địa phương trình Hội đồng nhân dân cùng cấp cho ý kiến trước khi quyết định; Điều 31 Luật Điện lực quy định: Biểu giá bán lẻ điện do Thủ tướng Chính phủ phê duyệt. Cơ quan điều tiết điện lực giúp Bộ trưởng Bộ Công nghiệp xây dựng biểu giá bán lẻ điện trình Thủ tướng Chính phủ phê duyệt…).

Như vậy, Chính phủ thống nhất quản lý nhà nước về giá trong phạm vi cả nước, thẩm quyền quản lý giá đối với từng lĩnh vực cụ thể được phân công, phân cấp cho các cơ quan chức năng. Việc phân cấp giúp cho công tác quản lý nhà nước về giá được kịp thời, sát với thực tế và nâng cao trách nhiệm của từng cấp, từng ngành trong lĩnh vực quản lý giá.

81. Cử tri tỉnh Trà Vinh kiến nghị: Việc thực hiện Quyết định 74/QĐ-TTg về giải quyết đất ở, đất sản xuất có những điểm bất hợp lý (giữa tiền mua đất và diện tích đất) cần được Chính phủ xem xét, trong thực hiện cần miễn hoặc hỗ trợ chi phí tách thửa, thuế chuyển quyền sử dụng đất và quy định 20.000.000 đồng để mua được 1.500m2 lúa 2 vụ là không thể mua được.

Trả lời: (Tại Công văn số 4236/BTC-NSNN ngày 07/4/2010)

Nhằm hỗ trợ đồng bào dân tộc thiểu số nghèo, đời sống khó khăn, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số 74/2008/QĐ-TTg ngày 09/6/2008 về một số chính sách hỗ trợ giải quyết đất ở, đất sản xuất và giải quyết việc làm cho đồng bào dân tộc thiểu số nghèo, đời sống khó khăn vùng đồng bằng sông Cửu Long giai đoạn 2008-2010; theo đó, mức hỗ trợ cho mỗi hộ để có đất sản xuất không quá 20 triệu đồng/hộ, trong đó ngân sách trung ương cấp 10 triệu đồng/hộ và được vay tín dụng với mức không quá 10 triệu đồng/hộ theo hình thức vay tín chấp trong thời gian 5 năm với lãi suất bằng 0%; diện tích đất sản xuất hỗ trợ mỗi hộ căn cứ theo mức bình quân chung của địa phương và tuỳ thuộc vào khả năng quỹ đất hiện còn tại địa phương, nhưng tối thiểu là 0,25 ha đất ruộng lúa nước 1 vụ hoặc 0,15 ha đất ruộng lúa nước 2 vụ hoặc 0,5 ha đất đồi, gò hoặc đất nuôi trồng thuỷ sản.

Vì vậy, đề nghị tỉnh căn cứ tình hình địa phương để quyết định mức hỗ trợ cụ thể; trường hợp, không thể tạo quỹ đất sản xuất để giao cho các hộ thiếu đất hoặc không có đất sản xuất, đề nghị tỉnh thực hiện chính sách hỗ trợ chuyển đổi ngành nghề theo quy định tại Khoản 3 Điều 2 của Quyết định số 74/2008/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ.

Về việc miễn giảm thuế chuyển quyền sử dụng đất: Từ ngày 01/01/2009, Luật thuế chuyển quyền sử dụng đất đã được bãi bỏ; các đối tượng phát sinh thu nhập từ chuyển quyền sử dụng đất phải nộp thuế thu nhập cá nhân; theo đó người bán đất phải nộp thuế, người mua đất không phải nộp thuế.



82. Cử tri các tỉnh Sóc Trăng, Bạc Liêu kiến nghị: Đề nghị Chính phủ cho thí điểm và cơ chế bảo hiểm vật nuôi cây trồng (lúa gạo, con tôm, cá tra, cá basa), đối với vùng đồng bằng sông Cửu Long. Đây là vùng trọng điểm và có tỷ lệ hộ nông dân trồng lúa và nuôi thủy sản cao nhất cả nước, là vùng nguyên liệu chủ lực của sản xuất thủy sản đông lạnh xuất khẩu. Tuy nhiên, trong thời gian qua bà con nông dân gặp nhiều khó khăn trong sản xuất do nhiều nguyên nhân như dịch bệnh, con giống không đảm bảo, nuôi không đúng quy hoạch, kỹ thuật...

Trả lời: (Tại Công văn số 4108/BTC-QLBH ngày 05/4/2010)

Thực hiện Nghị quyết số 26-NQ/TW, ngày 5 tháng 8 năm 2008 Hội nghị lần thứ bảy Ban Chấp hành Trung ương khoá X về nông nghiệp, nông dân, nông thôn: “…Thí điểm bảo hiểm nông nghiệp, bảo đảm mức sống tối thiểu cho cư dân nông thôn” và chương trình công tác của Chính phủ, hiện nay Bộ Tài chính đang xây dựng Đề án thí điểm bảo hiểm nông nghiệp giai đoạn 2010-2012 để trình Bộ Chính trị quyết định một số chủ trương lớn trong việc thực hiện bảo hiểm nông nghiệp. Trên cơ sở ý kiến chỉ đạo của Bộ Chính trị, Bộ Tài chính sẽ hoàn chỉnh Đề án trình Thủ tướng Chính phủ xem xét ban hành các cơ chế chính sách liên quan, đồng thời trình Thủ tướng Chính phủ cho phép thí điểm thực hiện tại một số địa phương đối với một số sản phẩm bảo hiểm cây trồng, vật nuôi.

Trong Đề án, Bộ Tài chính dự kiến lựa chọn một số sản phẩm lúa gạo, con tôm, cá tra, cá basa để thực hiện thí điểm tại một số địa phương, trong đó có các tỉnh Đồng bằng sông Cửu Long như An Giang, Đồng Tháp (bảo hiểm cây lúa); Bến Tre, Sóc Trăng, Trà Vinh, Bạc Liêu, Cà Mau (bảo hiểm con tôm, cá tra, cá basa). Tuy nhiên, việc lựa chọn địa bàn và cây trồng, vật nuôi cần có người dân, chính quyền địa phương và quyết định phê duyệt của Thủ tướng Chính phủ. Khi có quyết định chính thức, Bộ Tài chính sẽ phối hợp với Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, Uỷ ban nhân dân các tỉnh để thực hiện thí điểm.

Bảo hiểm nông nghiệp là một nghiệp vụ rất cần thiết đối với Việt Nam chúng ta- một nước nông nghiệp và có nhiều rủi ro về thiên tai, dịch bệnh…cần được bảo hiểm. Tuy nhiên, bảo hiểm nông nghiệp là một nghiệp vụ mới, địa bàn rộng, sản xuất phân tán chủ yếu theo quy mô hộ gia đình, thiên tai, dịch bệnh phức tạp, vì vậy việc tiến hành cần được triển khai thí điểm, trên cơ sở đó sẽ đánh giá, rút kinh nghiệm để điều chỉnh cơ chế chính sách cho phù hợp.

Một vấn đề nữa hết sức quan trọng là cần có sự phối hợp chặt chẽ giữa Bộ Tài chính, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, Uỷ ban nhân dân các tỉnh, thành phố dưới sự chỉ đạo của các cấp uỷ đảng để triển khai thực tế. Đồng thời cần tuyên truyền rộng rãi chính sách của Đảng và Nhà nước đến các đối tượng được bảo hiểm, các doanh nghiệp cũng như các tổ chức, cá nhân để tạo sự đồng thuận trong việc thực thi chính sách.

83. Cử tri tỉnh Khánh Hòa kiến nghị: Quỹ chăm sóc người cao tuổi hình thành hai cấp (Trung ương và cấp tỉnh) chưa hợp lý, đề nghị Trung ương nên quy định có ở cấp huyện (thị xã, thành phố) và xã (phường, thị trấn) để cùng vận động và trang trải cho hoạt động của người cao tuổi ở từng cấp.

Trả lời: (Tại Công văn số 5066/BTC-NSNN ngày 22/4/2010)

Theo Điều 1 Quyết định số 47/2006/QĐ-BTC ngày 13/9/2006 của Bộ Trưởng Bộ Tài chính về việc ban hành Quy chế quản lý và sử dụng tài chính Quỹ chăm sóc người cao tuổi thì Quỹ chăm sóc người cao tuổi thành lập ở các cấp theo quy định.

Theo quy định tại Nghị định số 148/2007/NĐ-CP ngày 25/9/2007 của Chính phủ về tổ chức, hoạt động của quỹ xã hội, quỹ từ thiện và Thông tư số 09/2008/TT-BNV ngày 31/12/2008 của Bộ Nội vụ hướng dẫn thực hiện một số Điều của Nghị định số 148/2007/NĐ-CP ngày 25/9/2007 của Chính phủ: Quỹ xã hội, quỹ từ thiện có phạm vi hoạt động toàn quốc, liên tỉnh; tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương liên huyện thuộc tỉnh; huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh; xã, phường, thị trấn.

Theo Điều 7, Luật Người cao tuổi được Quốc hội thông qua ngày 23/11/2009 quy định: Quỹ chăm sóc và phát huy vai trò người cao tuổi là quỹ xã hội, từ thiện. Việc thành lập, hoạt động và quản lý Quỹ chăm sóc và phát huy vai trò người cao tuổi được thực hiện theo quy định của pháp luật.

Như vậy, theo quy định tại các văn bản nêu trên, việc thành lập Quỹ chăm sóc người cao tuổi không quy định ở hai cấp (Trung ương và cấp tỉnh) như cử tri nêu. Việc thành lập Quỹ chăm sóc người cao tuổi không nhất thiết gắn với địa giới hành chính mà được thành lập ở các cấp (Trung ương, tỉnh, huyện, xã) và liên tỉnh, liên huyện.

BỘ Y TẾ
Tại Công văn số 874/BYT-VPB1 ngày 9/2/2010 của Bộ Y tế về việc trả lời kiến nghị của cử tri tại kỳ họp thứ 6, Quốc hội khoá XII:

1. Cử tri các tỉnh Bắc Giang, Thanh Hóa kiến nghị: Chính phủ đã có Quyết định số 1402/2007/QĐ-TTg về việc đầu tư phát triển Trung tâm Y tế dự phòng tuyến huyện giai đoạn 2007 - 2010; Quyết định số 950/2008/QĐ-TTg về đầu tư các Trạm Y tế vùng khó khăn giai đoạn 2008 - 2010. Đề nghị Chính phủ, Bộ Y tế quan tâm đầu tư Trung tâm Y tế dự phòng tỉnh và các Trung tâm Y tế dự phòng cấp huyện, phát triển hoạt động y tế cộng đồng, tăng cường chăm sóc sức khỏe ban đầu cho nhân dân.

Trả lời

Hiện nay, Chính phủ đang tập trung ưu tiên đầu tư nâng cấp bệnh viện đa khoa tuyến huyện và bệnh viện đa khoa khu vực liên huyện (theo Quyết định 225/2005/QĐ-TTg ngày 15 tháng 9 năm 2005 và Quyết định 47/2008/QĐ-TTg ngày 02 tháng 4 năm 2008 của Thủ tướng Chính phủ) và đầu tư cho các bệnh viện chuyên khoa lao, tâm thần, ung bướu, nhi và một số bệnh viện đa khoa tuyến tỉnh thuộc vùng miền núi, khó khăn (theo Quyết định số 930/QĐ-TTg ngày 30/6/2009) từ nguồn vốn trái phiếu Chính phủ.

Trong những năm qua Bộ Y tế cũng đã đề nghị và được Thủ tướng Chính phủ đồng ý bổ sung, tăng nguồn vốn hỗ trợ đầu tư y tế cho các địa phương, trong đó có phần vốn để ưu tiên đầu tư cho Trung tâm y tế dự phòng tuyến huyện và trạm y tế xã (năm 2008 được 950 tỷ đồng; năm 2009 được 750 tỷ đồng và năm 2010 được 500 tỷ đồng). Trên cơ sở thông báo vốn hàng năm của Thủ tướng Chính phủ và Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Bộ Y tế đã có văn bản gửi Chủ tịch Ủy ban nhân dân các tỉnh về việc phân bổ và sử dụng nguồn hỗ trợ đầu tư y tế; trong đó đề nghị ưu tiên đầu tư theo Quyết định số 1402/2007/QĐ-TTg về việc đầu tư phát triển Trung tâm Y tế dự phòng tuyến huyện giai đoạn 2007 - 2010; Quyết định số 950/2008/QĐ-TTg về đầu tư các Trạm Y tế vùng khó khăn giai đoạn 2008 - 2010. Tuy nhiên, nhiều địa phương chưa thực sự ưu tiên đầu tư cho Trung tâm Y tế dự phòng huyện và Trạm Y tế xã như đã được hướng dẫn.

Ngoài ra, trong những năm vừa qua Bộ Y tế cũng đã tích cực huy động nguồn vốn hỗ trợ đầu tư từ các Dự án vốn vay ODA và nguồn vốn viện trợ không hoàn lại, như Dự án hỗ trợ đầu tư y tế dự phòng vay từ nguồn vốn ODA và vốn viện trợ không hoàn lại, với tổng mức đầu tư là 37,34 triệu USD (vốn vay ODA là 27,2 triệu USD, vốn viện trợ không hoàn lại là 10,14 triệu USD) để hỗ trợ đầu tư cho 45 Trung tâm Y tế dự phòng tỉnh và 04 Viện Khu vực, Dự án phòng, chống các bệnh truyền nhiễm tiểu vùng Sông Mêkông với nguồn vốn viện trợ không hoàn lại là 15,45 triệu USD hỗ trợ đầu tư cho 15 Trung tâm Y tế dự phòng tỉnh và 04 Viện khu vực, Dự án viện trợ không hoàn lại của Quỹ toàn cầu cho phòng, chống Sốt rét, với ngân sách năm 2009 khoảng 8 triệu USD cho 29 tỉnh và 03 Viện và một số dự án khác như Phòng, chống HIV/AIDS ở Việt Nam,…

Dự kiến nhu cầu đầu tư theo Quyết định số 1402/QĐ-TTg khoảng 8.000 tỷ đồng và theo Quyết định số 950/QĐ-TTg khoảng 6.500 tỷ đồng. Với nhu cầu về vốn đầu tư lớn như vậy, trong khi chưa đưa được nội dung đầu tư cho các Trung tâm y tế dự phòng vào chương trình đầu tư bằng nguồn vốn trái phiếu Chính phủ, Bộ Y tế đã đề nghị Quốc hội và Chính phủ tiếp tục duy trì hỗ trợ đầu tư y tế có mục tiêu cho các địa phương để có nguồn đầu tư cho Trung tâm Y tế dự phòng theo Quyết định số 1402/2007/QĐ-TTg về việc đầu tư phát triển Trung tâm Y tế dự phòng tuyến huyện giai đoạn 2007 - 2010; Quyết định số 950/2008/QĐ-TTg về đầu tư các Trạm Y tế vùng khó khăn giai đoạn 2008 - 2010. Đồng thời, đề nghị Thủ tướng Chính phủ tiếp tục chỉ đạo Ủy ban nhân dân các tỉnh quan tâm cân đối, sử dụng nguồn vốn đầu tư phát triển của địa phương, nguồn vốn từ Xổ số kiến thiết và các nguồn vốn hợp khác để đầu tư cho lĩnh vực y tế dự phòng tại địa phương.

2. Cử tri tỉnh Cao Bằng kiến nghị: Các phương tiện để làm việc của cán bộ y tế thôn bản chưa được đầu tư để đáp ứng với yêu cầu sơ cứu cho bệnh nhân. Cử tri đề nghị: những thôn bản cách trung tâm xã từ 5 km trở lên cần được trang bị một túi thuốc để thực hiện công tác sơ cứu cho bệnh nhân kịp thời.


Каталог: content -> vankien -> Lists -> DanhSachVanKien -> Attachments
Attachments -> KỲ HỌp thứ TÁm quốc hội khoá XII (20/10/2010 26/11/2010)
Attachments -> Đa dạng sinh họC Ở việt nam
Attachments -> PHẦn I các bộ, ngàNH, CƠ quan thuộc chính phủ trả LỜi cáC Ý kiếN, kiến nghị CỦa cử tri
Attachments -> CHÍnh phủ Số: 62/bc-cp cộng hòa xã HỘi chủ nghĩa việt nam độc lập Tự do Hạnh phúc Hà Nội, ngày 5 tháng 5 năm 2008 BÁo cáO
Attachments -> BỘ giao thông vận tảI 1/ Cử tri tỉnh Đắk Lắc kiến nghị
Attachments -> QUỐc hội khóa XI uỷ ban về các vấn đề xã hội
Attachments -> QUỐc hội số: CỘng hoà XÃ HỘi chủ nghĩa việt nam
Attachments -> 210/bc-btnmt cộng hoà XÃ HỘi chủ nghĩa việt nam
Attachments -> KỲ HỌp thứ TÁm quốc hội khoá XII (20/10/2010 26/11/2010) TẬp hợP Ý kiếN, kiến nghị CỦa cử tri
Attachments -> Ủy ban thưỜng vụ quốc hội số: 365/bc-ubtvqh12

tải về 3.53 Mb.

Chia sẻ với bạn bè của bạn:
1   ...   5   6   7   8   9   10   11   12   ...   47




Cơ sở dữ liệu được bảo vệ bởi bản quyền ©hocday.com 2024
được sử dụng cho việc quản lý

    Quê hương