UỶ ban thưỜng vụ quốc hội ban dân nguyện kỳ HỌp thứ BẢY quốc hội khoá XII



tải về 3.53 Mb.
trang12/47
Chuyển đổi dữ liệu17.08.2016
Kích3.53 Mb.
#21000
1   ...   8   9   10   11   12   13   14   15   ...   47

Trả lời

An toàn vệ sinh thực phẩm có vai trò đặc biệt quan trọng trong bảo đảm sức khoẻ người tiêu dùng, an sinh xã hội, phát triển kinh tế và hội nhập quốc tế. Hậu quả của việc không đảm bảo VSATTP là gây ra ngộ độc thực phẩm cấp tính, mãn tính, bệnh truyền qua thực phẩm. Trong thời gian qua (từ năm 2000 – 2009) trung bình mỗi năm tại Việt Nam có 219.1 vụ ngộ độc thực phẩm, trong đó có 6104.4 người mắc và 59.1 người tử vong. Thống kê với 5 bệnh truyền qua thực phẩm (Tả, lỵ trực trùng, lỵ amip, tiêu chảy, thương hàn) từ năm 2000 – 2006, trong toàn quốc đã có 6.091.039 người mắc với 115 người tử vong (Niên giám thống kê bệnh truyền nhiễm, 2000 – 2006).

Nguyên nhân của ngộ độc thực phẩm, bệnh truyền qua thực phẩm là do:

1. Thực phẩm bị ô nhiễm bởi nhiều mối nguy (lý, hoá và sinh học) ngày càng tăng.

2. Điều kiện bảo quản VSATTP của các cơ sở sản xuất, chế biến và kinh doanh không đủ về cơ sở, trang thiết bị và nguyên liệu.

3. Nhận thức của người tiêu dùng, người sản xuất, chế biến còn hạn chế, thói quen không đảm bảo VSATTP còn khá phổ biến.

4. Công tác kiểm soát an toàn VSTP còn thiếu về nhân lực, vật tư và tài lực, thực thi các nhiệm vụ như tuyên truyền, thanh tra, kiểm tra và hệ thống kiểm nghiệm ATVSTP chưa đủ mạnh.

Công tác bảo đảm VSATTP đã được Đảng, Chính phủ, các Bộ, ngành và địa phương quan tâm, đã đạt được thành tích đáng ghi nhận. Hiện nay, tình hình ngộ độc thực phẩm và các bệnh truyền qua thực phẩm tại Việt Nam diễn ra khá phức tạp nhưng vẫn đang trong tầm kiểm soát. Trong năm 2009 cả nước đã xảy ra 152 vụ ngộ độc thực phẩm làm 5.212 người mắc, 4.137 người đi viện và 35 người tử vong. So với năm 2008 số vụ ngộ độc giảm 25,9%, số người mắc giảm 33,4%, số người đi viện giảm 31,3% và số người bị tử vong giảm 42,6%.

Nguyên tắc phòng chống ngộ độc thực phẩm, bệnh truyền qua thực phẩm là phải bảo đảm VSATTP đối với thực phẩm trong suốt chuỗi cung cấp thực phẩm từ trang trại đến bàn ăn. Công tác đảm bảo VSATTP là công tác liên ngành, điều này đã được qui định tại Pháp lệnh Vệ sinh an toàn thực phẩm số 12/2003/UBTVQH11. Về quyền hạn và trách nhiệm của Uỷ ban nhân dân các cấp trong công tác phòng ngừa và khắc phục ngộ độc thực phẩm, các bệnh truyền qua thực phẩm được quy định tại Điều 40, Chương III của Pháp lệnh Vệ sinh an toàn thực phẩm số 12/2003/UBTVQH11 và Điều 29, Điều 30 của Nghị định số 163/2004/NĐ-CP ngày 7/9/2004 về việc thi hành một số điều của Pháp lệnh VSATTP. Bên cạnh đó, Bộ Y tế đã ban hành Quyết định số 39/2006/QĐ - BYT ngày 13/12/2006 ban hành Quy chế điều tra ngộ độc thực phẩm trong đó hướng dẫn cụ thể 11 bước điều tra một vụ ngộ độc thực phẩm. Tuy vậy công tác đảm bảo vệ sinh an toàn thực phẩm trong thời gian qua đang có những yêu cầu mới do đặc điểm điều kiện kinh tế xã hội của nước ta, tình hình hội nhập khu vực và quốc tế nên vấn đề VSATTP không còn là vấn đề của mỗi quốc gia mà là vấn đề quan tâm của toàn cầu.

Bộ Y tế đang tích cực chủ động phối hợp với các Bộ, ngành và các cơ quan chức năng xây dựng Dự thảo Luật An toàn thực phẩm (đã được Quốc hội khóa XII xem xét, cho ý kiến tại Kỳ họp thứ 6) để điều chỉnh các quan hệ phát sinh có liên quan đến lĩnh vực VSATTP trong tình hình mới. Đây là cơ sở pháp lý để triển khai các biện pháp phòng ngừa ngộ độc thực phẩm, bệnh truyền qua thực phẩm. Trước mắt, các địa phương cần tiếp tục chủ động triển khai các biện pháp bảo đảm VSATTP trong địa bàn quản lý theo quy định của Pháp lệnh VSATTP, Nghị định số 163/2004/NĐ-CP để tiếp tục phòng chống ngộ độc thực phẩm và các bệnh truyền qua thực phẩm có hiệu quả hơn nữa.



29. Cử tri tỉnh Lào Cai kiến nghị: Cử tri phản ánh chính sách cho cư dân biên giới được mua hàng qua biên giới trị giá 2 triệu đồng không phải nộp thuế là chủ trương đúng, tuy nhiên cử tri đề nghị các loại hàng hóa này phải được kiểm tra chất lượng vệ sinh, an toàn thực phẩm. Bởi vì hàng hóa là hàng thực phẩm, nông sản mà cư dân mang qua biên giới có số lượng rất lớn.

Trả lời

Bộ Y tế đã đề nghị Thủ tướng Chính phủ:

- Giao Bộ Công thương chủ trì, phối hợp với các Bộ liên quan và Ủy ban nhân dân các tỉnh, thành phố có chung biên giới với các nước láng giềng xây dựng và ban hành danh mục hàng hoá không cho phép cư dân biên giới nhập khẩu, trong đó bao gồm cả hàng hoá là: động vật, thực vật, sinh vật phẩm sống phải qua kiểm dịch; sản phẩm tươi sống phải qua kiểm tra vệ sinh thực phẩm; phụ gia thực phẩm và chất hỗ trợ chế biến.

- Giao Ủy ban nhân dân các tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương triển khai việc cấm nhập khẩu đối với các sản phẩm, hàng hóa thực phẩm nhập khẩu tiểu ngạch thuộc danh mục hàng hoá không cho phép cư dân biên giới nhập khẩu, do Bộ Công thương ban hành.



30. Cử tri tỉnh Phú Thọ kiến nghị: Phản ánh trên thị trường vừa qua xuất hiện nhiều loại thuốc, biệt dược giả, có chất lượng kém, làm ảnh hưởng không nhỏ đến việc điều trị, chữa bệnh của người dân, nhiều khi còn gây nguy hại đến tính mạng của người bệnh. Đề nghị Bộ Y tế thực hiện nghiêm ngặt hơn nữa việc kiểm tra, kiểm soát nguồn đầu vào của thuốc để tránh tình trạng thuốc giả lưu thông trên thị trường.

Trả lời

Số liệu về tỷ lệ thuốc giả, thuốc kém chất lượng được phát hiện ở Việt Nam trong thời gian qua cho thấy việc kiểm soát tình hình chất lượng thuốc, thuốc giả trên thị trường vấn đang được thực hiện tốt (tỷ lệ kém chất lượng trong những năm vừa qua duy trì có tỷ lệ thấp 3% và tỷ lệ thuốc giả cũng chỉ dao động ở tỷ lệ 1%). Về công tác kiểm tra, giám sát chất lượng thuốc hiện nay tại Việt Nam, trong thời gian qua, Bộ Y tế đã thực hiện tốt các công tác tiền kiểm, hậu kiểm. Hiện nay, các thuốc được phép lưu hành trên thị trường Việt Nam (bao gồm thuốc sản xuất trong nước và nhập khẩu) đều phải qua Bộ Y tế xét duyệt trong đó có xét duyệt về tiêu chuẩn chất lượng. Theo đó, các doanh nghiệp sản xuất, kinh doanh thuốc phải tiến hành kiểm tra chất lượng thuốc theo tiêu chuẩn chất lượng đã xét duyệt trước khi xuất xưởng (tiền kiểm) và có trách nhiệm tự theo dõi diễn biến chất lượng thuốc của cơ sở lưu hành trên thị trường (hậu kiểm).

Đối với thuốc sản xuất trong nước, các cơ sở sản xuất, kinh doanh phải đáp ứng các yêu cầu về điều kiện kinh doanh bắt buộc (GMP đối với cơ sở sản xuất, GLP đối với cơ sở kiểm nghiệm, GDP, GSP và GPP đối với các cơ sở buôn bán, tồn trữ, sử dụng. Tất cả các cơ sở đều phải được cơ quan quản lý kiểm tra về điều kiện sản xuất kinh doanh và được cấp giấy chứng nhận đủ điều kiện mới được phép hoạt động. Tất cả các thuốc trước khi được cấp phép sản xuất, lưu hành phải được Bộ Y tế (Cục Quản lý Dược) thẩm định, xét duyệt.

Đối với thuốc nước ngoài nhập khẩu, các thuốc trước khi được nhập khẩu vào thị trường Việt Nam đều được Bộ Y tế (Cục Quản lý Dược) xét duyệt về các thủ tục liên quan cũng như tiêu chuẩn chất lượng. Về mặt chất lượng, các thuốc nhập khẩu có thể đăng ký theo tiêu chuẩn của các nước tiên tiến, tiêu chuẩn Dược điển Việt Nam hoặc tiêu chuẩn cơ sở. Theo quy định hiện nay, các tiêu chuẩn cơ sở của các thuốc không được thấp hơn tiêu chuẩn Dược Điển. Thêm vào đó trong quá trình thẩm định cấp số đăng ký hay đồng ý đơn hàng nhập khẩu, nếu các chuyên gia phát hiện thấy có tiêu chuẩn chưa phù hợp hay còn nghi ngờ sẽ yêu cầu gửi thẩm định tại các Viện Kiểm nghiệm.

Tất cả các nguyên liệu làm thuốc đều phải được nhà sản xuất, kinh doanh kiểm tra chất lượng và phải đạt tiêu chuẩn chất lượng mới được đưa vào sản xuất. Tất cả các thuốc phải được sản xuất trong điều kiện cơ sở đạt tiêu chuẩn GMP. Nhà sản xuất phải tuân thủ theo quy trình sản xuất đã nghiên cứu và được Bộ Y tế chấp nhận. Thuốc phải được kiểm tra chất lượng và phải đạt tiêu chuẩn chất lượng mới được đưa ra lưu hành sử dụng.

Bên cạnh việc tiền kiểm trên và tự giám sát chất lượng thuốc lưu hành trên thị trường của các doanh nghiệp, các thuốc lưu hành trên thị trường (bao gồm cả thuốc sản xuất trong nước và nhập khẩu) được giám sát thường xuyên bởi việc lấy mẫu kiểm tra của hệ thống thanh tra, kiểm tra chất lượng thuốc (bao gồm hai Viện kiểm nghiệm thuốc đạt tiêu chuẩn GLP và các Trung tâm kiểm nghiệm dược phẩm, mỹ phẩm ở các tỉnh thành phố trong cả nước). Trong những năm qua, Bộ Y tế đã chỉ đạo hệ thống kiểm nghiệm thường xuyên lấy mẫu ngẫu nhiên kiểm tra, giám sát thị trường. Với sự tăng cường các công tác quản lý, thanh tra kiểm tra của các cơ quan quản lý, thanh tra, kiểm tra chất lượng nhà nước và với phương thức lấy mẫu đại trà, ngẫu nhiên của Hệ thống kiểm nghiệm, trong những nắm gần đây tỷ lệ thuốc không đạt chất lượng vẫn duy trì ở mức thấp khoảng 3%.

Bên cạnh việc thực hiện lấy mẫu ngẫu nhiên để giám sát chất lượng thuốc trên thị trường, Bộ Y tế đã chỉ đạo hệ thống kiểm nghiệm về việc lấy mẫu kiểm tra có trong tâm, trọng điểm; trên cơ sở đánh giá nguy cơ từ phân tích các số liệu phân nhóm các thuốc thu hồi qua các năm, sự kém ổn định của thuốc (như các thuốc kháng sinh, men sinh học,..) và trên các kết quả kiểm tra của hệ thống kiểm nghiệm, cũng như các thông tin chia sẽ từ hệ thống cảnh giác Dược của các nước ASEAN, WHO, Năm 2008, 2009, Bộ Y tế đã chỉ đạo hệ thống kiểm nghiệm thuốc nhà nước tăng cường lấy mẫu kiểm tra đối với một số loại sản phẩm, hoặc đối với các thuốc nhập khẩu từ các nước có nguy cơ cao và đã phát hiện các thuốc này có tỷ lệ thuốc không đạt chất lượng cao.

Hiện nay, Bộ Y tế cùng với các Bộ, ngành liên quan đang tiến hành triển khai thực hiện các quy định mới tại Luật Chất lượng sản phẩm, hàng hóa, trong đó có việc kiểm tra chất lượng hàng hóa lưu thông trên thị trường. Theo đó, bên cạnh việc lấy mẫu ngẫu nhiên để giám sát thị trương, các đoàn kiểm tra, kiểm soát viên chất lượng sẽ có thẩm quyền và tập trung vào kiểm tra xác định nguồn gốc, điều kiện bảo quản và tập trung vào lấy các mẫu thuốc có dấu hiệu nghi ngờ chất lượng, các thuốc có nguy cơ cao về nguồn gốc cũng như độ ổn định. Với phương thức kiểm tra, kiểm soát mới này, sẽ kịp thời phát hiện mẫu thuốc không đạt chất lượng, hiệu quả của công tác kiểm tra, kiểm soát sẽ cao hơn.



31. Cử tri các tỉnh Thái Bình, Gia Lai kiến nghị: Hiện tại việc cấp phát thuốc điều trị bệnh rất chậm và thiếu (nhất là đối với khám bảo hiểm y tế), cử tri kiến nghị hàng năm Bộ nên giao cho một đơn vị đấu thầu tập trung cấp quốc gia hoặc Bộ thông báo đầy đủ giá kê khai, kê khai lại các loại thuốc đang lưu hành trên thị trường, các bệnh viên được phép mua thấp hơn hoặc bằng giá đó ở bất kỳ công ty kinh doanh thuốc nào để thuận lợi cho việc cung cấp thuốc tại bệnh viện của mình. Đề nghị nghiên cứu lại quy định đấu thầu thuốc hiện hành là không hợp lý. Giá thuốc cao hơn rất nhiều so với giá thuốc thị trường, gây thiệt hại cho quỹ bảo hiểm y tế.

Trả lời

- Về kiến nghị triển khai đấu thầu thuốc quốc gia, Bộ Y tế đang chỉ đạo các Vụ, Cục thuộc Bộ Y tế phối hợp với các Bộ, ngành liên quan nghiên cứu, triển khai đề án thí điểm đấu thầu thuốc quốc gia một số thuốc có tỷ trọng, tần suất sử dụng lớn.

- Về công khai, minh bạch giá thuốc, hiện nay Bộ Y tế (Cục Quản lý Dược) định kỳ cập nhật giá thuốc kê khai lại và hàng năm công bố giá thuốc trúng thầu 12 tháng trước trên Trang thông tin điện tử (website) của Cục Quản lý Dược (địa chỉ http://www.dav.gov.vn) để các Sở Y tế, các đơn vị tham khảo khi tiến hành đấu thầu thuốc.

- Về quy trình đấu thầu thuốc, Liên Bộ Y tế, Tài chính, Công thương đã ban hành Thông tư liên tịch số 10/2007/TTLT – BYT – BTC – BCT ngày 10/8/2007 hướng dẫn đấu thầu thuốc tại một số cơ sở y tế. Thông tư 10 đã phát huy hiệu quả trong công tác đấu thầu thuốc và tăng tính chủ động của các cơ sở khám chữa bệnh. Tuy nhiên, một số nội dung của Thông tư này không còn phù hợp với thực tế, cần sửa đổi và bổ sung. Các khó khăn, bất cập trong thực tế triển khai thực hiện đã được Bộ Y tế lấy ý kiến của các bệnh viện, các Sở Y tế và các doanh nghiệp. Bộ Y tế đang chỉ đạo các Vụ, Cục thuộc Bộ Y tế phối hợp với các Bộ, ngành liên quan nghiên cứu, triển khai việc sửa đổi Thông tư này để ban hành trong thời gian sớm nhất.

- Về giá thuốc trúng thầu, trong những năm qua, việc thực hiện Thông tư liên tịch số 10/2007/TTLT–BYT–BTC và các văn bản liên quan đến công tác đầu thầu đã giúp giá thuốc trúng thầu tại các cơ sở khám chữa bệnh cơ bản được giữ ổn định trong vòng 6 tháng hoặc 12 tháng, góp phần ổn định thị trường dược phẩm trong những năm gần đây, đặc biệt trong tình trạng suy thoái kinh tế toàn cầu làm ảnh hưởng không nhỏ tới hoạt động cung ứng thuốc của các doanh nghiệp dược (chỉ số giá tiêu dùng dược phẩm y tế những năm gần đây luôn thấp hơn chỉ số giá tiêu dùng chung của xã hội). Tuy nhiên, trong thực tế triển khai áp dụng các hướng dẫn tại Thông tư 10/2007/TTLT – BYT - BTC của các đơn vị, do các yếu tố chủ quan và khách quan khác nhau, còn có một số tồn tại, bất cập (một số trường hợp cá biệt giá một số mặt hàng thuốc trúng thầu cao hơn giá thị trường) đang được Bộ Y tế xem xét để tìm giải pháp khắc phục khi xây dựng văn bản hướng dẫn mới về đấu thầu thuốc thay thế cho Thông tư liên tịch số 10/2007/TTLT – BYT - BTC.

32. Cử tri tỉnh Kiên Giang, Nghệ An, Khánh Hòa kiến nghị: Đề nghị Bộ Y tế có giải pháp hiệu quả trong việc quản lý giá cả và chất lượng một số mặt hàng y dược đang lưu thông trên thị trường để bảo vệ quyền lợi cho người tiêu dùng.

Trả lời:

Trong thời gian qua, Bộ Y tế đã tiến hành hàng loạt các biện pháp nhằm quản lý giá thuốc và chất lượng dược phẩm trên thị trường trong nước, như:

1. Các biện pháp về quản lý giá thuốc:

a) Tăng cường triển khai thực hiện và kiểm tra việc thực hiện các quy định về kê khai giá thuốc, quản lý giá thuốc theo hướng dẫn tại Thông tư liên tịch số 11/2007/TTLT-BYT-BTC-BCT ngày 31/8/2007 hướng dẫn thực hiện quản lý giá thuốc dùng cho người.

b) Định kỳ công bố giá thuốc kê khai, kê khai lại của các cơ sở kinh doanh thuốc lên trang thông tin điện tử của Cục Quản lý dược để các Sở Y tế, doanh nghiệp, bệnh viện, và người dân biết để tham khảo, giám sát.

c) Tập trung quản lý giá thuốc trong các cơ sở y tế công lập:

- Triển khai thực hiện công tác đấu thầu thuốc của các bệnh viện công lập theo đúng hướng dẫn tại Thông tư liên tịch số 10/2007/TTLT-BYT-BTC ngày 10/8/2007 hướng dẫn đấu thầu mua thuốc trong các cơ sở công lập.

- Triển khai Quyết định số 24/2008/QĐ-BYT ban hành quy định về tổ chức, hoạt động của nhà thuốc bệnh viện (Quy định về thặng số bán lẻ đối với các thuốc bán tại nhà thuốc bệnh viện).

d) Triển khai thực hiện Kế hoạch dự trữ lưu thông thuốc quốc gia phục vụ công tác phòng và chữa bệnh cho nhân dân ban hành kèm theo Quyết định số 110/2005/QĐ-TTg ngày 16/5/2005 của Thủ tướng Chính phủ nhằm mục tiêu:

- Dự trữ một số thuốc chủ yếu và thuốc chuyên khoa đặc trị bảo đảm nhu cầu sử dụng tại cơ sở khám, chữa bệnh nhà nước.

- Dự trữ thuốc thiết yếu và thuốc biệt dược nhằm cân bằng cung - cầu, góp phần bình ổn giá thuốc trên thị trường.

e) Tiến hành qui hoạch, sắp xếp lại hệ thống lưu thông cung ứng thuốc:

- Triển khai Đề án “Quy hoạch phát triển hệ thống lưu thông phân phối, cung ứng thuốc giai đoạn đến 2015 tầm nhìn 2020”.

- Tiêu chuẩn hóa hệ thống bán lẻ thuốc thông qua triển khai nguyên tắc Thực hành tốt nhà thuốc GPP và triển khai Thông tư số 03/2009/TT–BYT ngày 1/6/2009 qui định tổ chức, quản lý và hoạt động của chuỗi nhà thuốc GPP góp phần giảm các tầng lớp trung trong phân phối thuốc.

f) Tăng nguồn cung ứng thuốc phòng và chữa bệnh cho người nhằm đảm bảo cân bằng cung cầu thị trường dược phẩm, tạo sự ổn định cho thị trường: áp dụng các quy định về nhập khẩu song song, gia công thuốc, tăng cường cấp phép số đăng ký và giấy phép nhập khẩu thuốc chưa có số đăng ký.

g) Phối hợp với Thanh tra Bộ Y tế, Cục Quản lý thị trường và các đơn vị liên quan tăng cường thanh tra, kiểm tra và xử lý nghiêm các trường hợp vi phạm về giá thuốc.

2. Các biện pháp nâng cao chất lượng thuốc lưu hành trên thị trường

- Chỉ đạo hệ thống kiểm nghiệm thuốc nhà nước tăng cường lấy mẫu có định hướng và tập trung vào các loại thuốc có nguy cơ cao để kiểm tra và phát hiện các mẫu thuốc không đạt chất lượng như các thuốc kháng sinh, men sinh học, các thuốc đông y, thuốc từ dược liệu sản xuất trong nước và nhập khẩu... đồng thời xử phạt nghiêm khắc các trường hợp vi phạm.

- Tiếp tục hoàn thiện hệ thống văn bản quy phạm pháp luật nhằm tạo ra hành lang pháp lý đầy đủ hoạt động kiểm tra, giám sát chất lượng thuốc như: (1) Sửa đổi quy chế quản lý chất lượng thuốc, quy chế lấy mẫu thuốc, đồng thời xây dựng kế hoạch lấy mẫu hằng năm dựa trên các tiêu chí lấy mẫu nhằm tăng cường giám sát chất lượng thuốc có định hướng; (2) Sửa đổi, bổ sung một số nội dung của Nghị định số 45/2005/NĐ-CP ngày 6/4/2005 của Chính phủ quy định về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực y tế, trong đó quy định rõ xử phạt hành chính, nghiêm khắc các hình thức vi phạm.

- Triển khai đồng bộ 5 tiêu chuẩn thực hành tốt GPs (GMP, GLP, GSP, GDP, GPP) theo lộ trình của Bộ Y tế đề ra nhằm đảm bảo chất lượng thuốc từ khâu sản xuất cho đến tận tay người sử dụng.

- Thành lập 3 trung tâm thử tương đương sinh học, đánh giá sinh khả dụng và 3 trung tâm kiểm nghiệm khu vực; đầu tư, nâng cao năng lực của hệ thống kiểm tra chất lượng thuốc để phục vụ công tác giám sát thị trường.

- Tăng cường hối hợp liên ngành giữa cơ quan Công An, Bộ đội biên phòng, Hải quan, quản lý Thị trường, Y tế, Thanh tra các cấp để tăng cường kiểm tra, phát hiện và xử lý các trường hợp vi phạm về chất lượng thuốc. Phối hợp triển khai phương án số 52/BCĐ-QLTT ngày 22/10/2008 của Ban chỉ đạo 127 TW về việc kiểm tra chống hàng giả, hàng kém chất lượng đối với các mặt hàng dược phẩm, mỹ phẩm và thực phẩm công nghiệp.

- Phối hợp với Đài truyền hình Trung ương (kênh O2TV) và các cơ quan thông tin đại chúng đẩy mạnh công tác tuyên truyền, giáo dục ý thức cộng đồng cùng tham gia vào công tác giám sát chất lượng thuốc cũng như phát hiện thuốc giả. Xây dựng kênh thông tin để kịp thời tiếp nhận, xử lý các thông tin phản hồi từ doanh nghiệp và nhân dân về các trường hợp nghi ngờ chất lượng để kịp thời lấy mẫu và xử lý.

- Đẩy mạnh công tác hợp tác quốc tế trong việc phối hợp chia sẻ, tiếp nhận, trao đổi thông tin về các thuốc kém chất lượng, các vụ việc thuốc giả.



33. Cử tri tỉnh Lào Cai kiến nghị: Cử tri phản ánh hiện nay định mức cấp thuốc cho các Trạm y tế xã thấp, vì vậy các Trạm y tế xã chưa làm tốt việc chăm sóc sức khỏe ban đầu cho nhân dân, cử tri đề nghị tăng định mức cấp thuốc cho Trạm y tế xã để công tác chăm sóc sức khỏe cho nhân dân được tốt hơn.

Trả lời

Hiện nay, đa số các Trạm y tế xã đã triển khai thực hiện khám chữa bệnh cho nhân dân theo chính sách bảo hiểm y tế và người bệnh có thẻ BHYT được đảm bảo quyền lợi về khám chữa bệnh theo chế độ BHYT.

Ngoài ra, các Trạm y tế xã còn được bảo đảm kinh phí cho các hoạt động thường xuyên theo Thông tư số 119/2002/TTLT-BTC-BYT ngày 27/12/2002, trong đó có tiền mua thuốc, vật tư tiêu hao phục vụ khám chữa bệnh cho nhân dân; các Trạm y tế xã miền núi, vùng khó khăn được trợ giá, hỗ trợ tiền thuốc thông thường tính theo định mức tiền/đầu dân; một số Trạm y tế xã được hỗ trợ ban đầu tủ thuốc BAMAKO (theo Dự án) để quay vòng phục vụ nhu cầu khám chữa bệnh đối với các Trạm y tế xã.

34. Cử tri tp Hà Nội, Tp. Hồ Chí Minh, và các tỉnh Đồng Tháp, Bình Thuận, Lâm Đồng, Long An, Phú Thọ, Tây Ninh, Quảng Bình kiến nghị: Cử tri phản ánh hiện nay các cơ sở khám, chữa bệnh ở trung ương đều quá tải; các thủ tục khám, chữa bệnh còn nhiều rắc rối khiến người dân mỗi lần đi khám bệnh mất nhiều thời gian chờ đợi, trong khi đó công tác khám, chữa bệnh ở cơ sở không đáp ứng yều cầu. Đề nghị Bộ Y tế nghiên cứu và chỉ đạo ngành y tế cấp rà soát các thủ tục hành chính, giảm phiền hà cho người dân, đồng thời có chính sách phù hợp nhằm thu hút bác sỹ có trình độ chuyên môn về công tác tại cơ sở.

Trả lời

Thực hiện Nghị quyết Trung ương 4 khóa VII và Nghị quyết 46-NQ/TW ngày 23/2/2005 của Bộ Chính trị, thời gian qua công tác chăm sóc sức khỏe nhân dân đã đạt được những thành tựu quan trọng. Tuy nhiên, ngành y tế phải đối mặt với nhiều khó khăn, thách thức: Tình trạng thiếu nhân lực y tế phổ biến ở nhiều địa phương, nhất là vùng sâu, vùng xa, vùng khó khăn; phân bố nhân lực y tế không đều giữa các vùng, miền, giữa nông thôn và thành thị, đặc biệt là miền núi, vùng sâu, vùng xa thiếu cán bộ y trầm trọng; khoảng cách chất lượng dịch vụ khám chữa bệnh, khả năng tiếp cận dịch vụ y tế chất lượng cao của người dân giữa các vùng miền khác biệt rõ rệt.

Nhằm khắc phục tình trạng trên, Bộ Y tế đã đưa ra nhiều giải pháp, trong đó có 1 giải pháp quan trọng là thực hiện Đề án:“Cử cán bộ chuyên môn luân phiên từ bệnh viện tuyến trên về hỗ trợ các bệnh viện tuyến dưới nhằm nâng cao chất lượng khám, chữa bệnh” (Đề án 1816), với 3 mục tiêu:

- Nâng cao chất lượng khám, chữa bệnh của bệnh viện tuyến dưới, đặc biệt là miền núi, vùng sâu, vùng xa thiếu cán bộ y tế.

- Giảm tình trạng quá tải cho các bệnh viện tuyến trên, đặc biệt là các bệnh viện tuyến Trung ương.

- Chuyển giao công nghệ kỹ thuật và đào tạo cán bộ tại chỗ nhằm nâng cao tay nghề cho cán bộ y tế tuyến dưới.

Sau hơn một năm thực hiện, được sự quan tâm chỉ đạo của Đảng, Nhà nước, Quốc hội và Chính phủ; sự phối hợp chặt chẽ của các Bộ, Ngành, địa phương; sự cố gắng vượt bậc của đội ngũ cán bộ công chức, viên chức ngành y tế, Đề án 1816 đã thu được những kết quả tốt, 3 mục tiêu của Đề án cơ bản đã đạt được; trong năm 2009, đã có 1846 lượt cán bộ tuyến trên được cử đi luân phiên cho y tế cơ sở của những vùng khó khăn, vùng sâu, vùng xa; đã có 1.023 kỹ thuật thuộc 26 chuyên ngành được chuyển giao; khám và điều trị được trên 210 ngàn lượt bệnh nhân và phẫu thuật được gần 5000 ca, nhiều ca bệnh hiểm nghèo được cứu sống; đặc biệt giảm trung bình 30% tỷ lệ chuyển tuyến không hợp lý của các bệnh viện tuyến dưới.

Để tiếp tục thực hiện Đề án 1816 trên cơ sở phát huy những thành quả đạt được, khắc phục những hạn chế, bất cập trong tổ chức triển khai, duy trì tính bền vững và hiệu quả của Đề án, trong thời gian tới Bộ Y tế sẽ chỉ đạo các đơn vị tập trung thực hiện một số công việc sau:

- Kiện toàn, phát huy vai trò lãnh đạo của Ban chỉ đạo các cấp trong việc thực hiện Đề án 1816.

- Tiếp tục phổ biến, quán triệt đến tất cả cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức trong toàn ngành về chủ trương triển khai việc thực hiện nghĩa vụ xã hội của cán bộ y tế, cụ thể trong giai đoạn hiện nay là thực hiện Đề án 1816; các đơn vị được giao nhiệm vụ cử cán bộ đi luân phiên đảm bảo số lượng, chất lượng cán bộ. Thực hiện tốt công tác khảo sát, đánh giá nhu cầu tuyến dưới để xây dựng kế hoạch hỗ trợ thiết thực, hiệu quả.

- Đảm bảo tính bền vững, hiệu quả của việc cử cán bộ từ Trung ương luân phiên hỗ trợ bệnh viện địa phương, đẩy mạnh việc thực hiện luân phiên cán bộ từ bệnh viện tỉnh xuống hỗ trợ các bệnh viện huyện, đưa bác sĩ từ huyện xuống khám chữa bệnh tại xã.

- Tiếp tục thực hiện các nghiên cứu về quá trình thực hiện Đề án 1816, đưa ra bằng chứng khoa học, để đánh giá mặt mạnh, mặt tồn tại, rút ra những bài học kinh nghiệm, tiếp tục điều chỉnh, bổ sung và hoàn thiện Đề án 1816, phát hiện mô hình điển hình, nhân rộng trên toàn quốc.

- Xây dựng cơ chế chính sách để tiến tới luật hóa về nghĩa vụ và trách nhiệm của cán bộ y tế đối với xã hội, đồng thời xây dựng chính sách chế độ đối với cán bộ đi luân phiên. Xây dựng và thực hiện các chế độ chính sách liên quan Đề án 1816 đối với đơn vị cử đi luân phiên, nhận cán bộ đến luân phiên và cán bộ được cử đi luân phiên. Đẩy mạnh phong trào thi đua học tập tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh, thực hiện tốt Đề án 1816 và quy tắc ứng xử của cán bộ y tế.

Đề án 1816 là một giải pháp quan trọng, có tính đột phát trong việc nâng cao chất lượng khám, chữa bệnh ở tuyến y tế cơ sở, góp phần đảm bảo công bằng trong chăm sóc sức khỏe nhân dân, xóa đói giảm nghèo. Với ý nghĩa và tầm quan trọng của Đề án, Đề án 1816 sẽ được triển khai thực hiện lâu dài.



35. Cử tri TP Hồ Chí Minh kiến nghị: Đề nghị, cần tăng cường quản lý nhà nước để thuốc bảo hiểm y tế phải đến đúng người bệnh.

Каталог: content -> vankien -> Lists -> DanhSachVanKien -> Attachments
Attachments -> KỲ HỌp thứ TÁm quốc hội khoá XII (20/10/2010 26/11/2010)
Attachments -> Đa dạng sinh họC Ở việt nam
Attachments -> PHẦn I các bộ, ngàNH, CƠ quan thuộc chính phủ trả LỜi cáC Ý kiếN, kiến nghị CỦa cử tri
Attachments -> CHÍnh phủ Số: 62/bc-cp cộng hòa xã HỘi chủ nghĩa việt nam độc lập Tự do Hạnh phúc Hà Nội, ngày 5 tháng 5 năm 2008 BÁo cáO
Attachments -> BỘ giao thông vận tảI 1/ Cử tri tỉnh Đắk Lắc kiến nghị
Attachments -> QUỐc hội khóa XI uỷ ban về các vấn đề xã hội
Attachments -> QUỐc hội số: CỘng hoà XÃ HỘi chủ nghĩa việt nam
Attachments -> 210/bc-btnmt cộng hoà XÃ HỘi chủ nghĩa việt nam
Attachments -> KỲ HỌp thứ TÁm quốc hội khoá XII (20/10/2010 26/11/2010) TẬp hợP Ý kiếN, kiến nghị CỦa cử tri
Attachments -> Ủy ban thưỜng vụ quốc hội số: 365/bc-ubtvqh12

tải về 3.53 Mb.

Chia sẻ với bạn bè của bạn:
1   ...   8   9   10   11   12   13   14   15   ...   47




Cơ sở dữ liệu được bảo vệ bởi bản quyền ©hocday.com 2024
được sử dụng cho việc quản lý

    Quê hương