UỶ ban thưỜng vụ quốc hội ban dân nguyện kỳ HỌp thứ BẢY quốc hội khoá XII



tải về 3.53 Mb.
trang8/47
Chuyển đổi dữ liệu17.08.2016
Kích3.53 Mb.
#21000
1   ...   4   5   6   7   8   9   10   11   ...   47

Trả lời: (Tại Công văn số 2924/BTC-HCSN ngày 11/3/2010)

Các mức chi được quy định tại Thông tư số 23/2007/TT-BTC ngày 21/3/2007 của Bộ Tài chính quy định chế độ công tác phí, chế độ chi tổ chức các cuộc hội nghị đối với các cơ quan nhà nước và đơn vị sự nghiệp công lập được nghiên cứu xây dựng căn cứ vào tính chất, điều kiện tổ chức công việc, hao phí lao động, vật chất, kỹ thuật để thực hiện công việc, đồng thời cũng đảm bảo phù hợp với khả năng cân đối của ngân sách và tình hình phát triển kinh tế - xã hội của địa phương. Thực tế thực hiện thời gian qua cho thấy, các chế độ, mức chi tại Thông tư số 23/2007/TT-BTC về cơ bản đã bao quát, đáp ứng được yêu cầu của các Bộ, cơ quan Trung ương, các cấp chính quyền địa phương, song cũng còn một số chế độ, mức chi thấp, chưa theo kịp đòi hỏi thực tiễn.

Để giải quyết vấn đề này, đồng thời nâng cao hơn nữa tính chủ động cho các Bộ, ngành, địa phương, Bộ Tài chính đã dự thảo và đang lấy ý kiến tham gia của các Bộ, ngành, địa phương về việc sửa đổi, bổ sung Thông tư số 23/2007/TT-BTC ngày 21/3/2007 nêu trên theo hướng điều chỉnh lại một số mức chi, mở rộng thẩm quyền của các Bộ, ngành và địa phương trong việc quy định và quyết định cụ thể mức chi công tác phí, chi tổ chức hội nghị phù hợp với khả năng và yêu cầu thực tế của các Bộ, cơ quan Trung ương và các địa phương.

68. Cử tri tỉnh Hòa Bình kiến nghị: Để sử dụng có hiệu quả ngân sách, đề nghị Nhà nước tăng cường giải pháp khoán kinh phí chi hành chính sự nghiệp cho các đơn vị thụ hưởng ngân sách.

Trả lời: (Tại Công văn số 3743/BTC-HCSN ngày 29/3/2010)

1. Đối với các đơn vị sự nghiệp công lập:

Chính phủ đã ban hành Nghị định số 43/2006/NĐ-CP ngày 25/4/2006 quy định quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm về thực hiện nhiệm vụ, tổ chức bộ máy, biên chế và tài chính đối với đơn vị sự nghiệp công lập.

Thực hiện Nghị định số 43/2006/NĐ-CP ngày 25/4/2006 của Chính phủ, các đơn vị sự nghiệp công lập thuộc các lĩnh vực: Giáo dục - Đào tạo, Y tế, Văn hoá - Thông tin, Thể dục Thể thao, sự nghiệp kinh tế... được giao quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm tài chính đã chủ động sử dụng kinh phí ngân sách nhà nước giao hiệu quả hơn để thực hiện nhiệm vụ; đồng thời chủ động sử dụng tài sản, nguồn nhân lực để phát triển và nâng cao chất lượng hoạt động cung cấp dịch vụ công (khám chữa bệnh, đào tạo...), tăng nguồn thu.

Nhìn chung, việc thực hiện Nghị định số 43/2006/NĐ-CP của Chính phủ thời gian qua cho thấy đã đạt được những kết quả:

(1) Thực hiện Nghị định số 43/2006/NĐ-CP của Chính phủ đã khẳng định tính đúng đắn và phù hợp với yêu cầu đổi mới cơ chế quản lý đối với các đơn vị sự nghiệp, đã tạo điều kiện cho đơn vị chủ động sử dụng nguồn lực tài chính, lao động, cơ sở vật chất để thực hiện nhiệm vụ được giao, chủ động phân bổ nguồn tài chính của đơn vị theo nhu cầu chi tiêu đối với từng lĩnh vực trên tinh thần tiết kiệm, thiết thực và hiệu quả;

(2) Trên cơ sở mở rộng các hoạt động dịch vụ, tăng nguồn thu cùng với nguồn kinh phí ngân sách nhà nước giao, các hoạt động dịch vụ đã từng bước nâng cao chất lượng; tạo điều kiện cho người dân có nhiều cơ hội được lựa chọn, tiếp cận với các dịch vụ có chất lượng ngày càng cao;

(3) Cơ chế tự chủ, tự chịu trách nhiệm đã tạo điều kiện cho đơn vị sự nghiệp thực hiện kiểm soát chi tiêu nội bộ, phát huy dân chủ, chủ động, sáng tạo của người lao động; nâng cao kỹ năng quản lý, từng bước giảm sự can thiệp của cơ quan quản lý cấp trên; yêu cầu về công khai, minh bạch trong công việc, nhân sự, chi tiêu tài chính được thực hiện, tạo không khí đoàn kết, phấn khởi trong nội bộ đơn vị;

(4) Thu nhập bình quân của người lao động từng bước được cải thiện, việc chi trả thu nhập cho từng người lao động trong đơn vị do Thủ trưởng đơn vị quyết định theo quy chế chi tiêu nội bộ gắn với hiệu suất công tác, đã hạn chế việc chi trả bình quân, góp phần thu hút được lao động có trình độ vào làm việc tại các đơn vị; hạn chế nạn chảy chất xám của các đơn vị sự nghiệp công.

Để sử dụng có hiệu quả ngân sách, phát huy tính tích cực của cơ chế tự chủ của Nghị định số 43/2006/NĐ-CP, trong thời gian tới cần thực hiện những giải pháp sau đây để tăng cường giao quyền tự chủ:

(1) Tiếp tục tuyên truyền nâng cao nhận thức, hướng dẫn thực hiện quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm về thực hiện nhiệm vụ, tổ chức bộ máy, biên chế đối với đơn vị sự nghiệp công lập để tạo điều kiện cho các đơn vị sự nghiệp thực hiện đồng bộ, đầy đủ với quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm về tài chính.

(2) Tiếp tục rà soát các định mức kinh tế kỹ thuật để nghiên cứu sửa đổi, bổ sung hoặc ban hành mới các tiêu chuẩn, định mức các lĩnh vực sự nghiệp được giao quản lý làm căn cứ cho các đơn vị sự nghiệp thực hiện quyền tự chủ.

(3) Xây dựng hệ thống các tiêu chí đánh giá mức độ hoàn thành và chất lượng thực hiện nhiệm vụ được giao để đánh giá đối với các đơn vị sự nghiệp và là căn cứ để từng đơn vị xây dựng hệ thống đánh giá kết quả hoạt động đối với mỗi cán bộ, công nhân viên chức.

(4) Tiếp tục nghiên cứu, hoàn thiện, sửa đổi các chính sách về giá dịch vụ sự nghiệp trên cơ sở đơn vị từng bước tính đủ tiền lương và các chi phí khác theo quy định của Nhà nước, phù hợp với khả năng thu nhập của dân cư. Đồng thời, thực hiện cơ cấu lại chi ngân sách nhà nước đối với từng lĩnh vực cung cấp dịch vụ công theo hướng ưu tiên hỗ trợ ngân sách đối với các dịch vụ công do Nhà nước đảm bảo, ưu tiên đáp ứng nhu cầu dịch vụ công cho vùng sâu, vùng xa, vùng đồng bào dân tộc ít người; thực hiện các chính sách ưu đãi đối với các đối tượng chính sách, đối tượng người có công và chính sách đối với người nghèo theo phương thức hỗ trợ trực tiếp, thay vì chế độ miễn, giảm thông qua các đơn vị sự nghiệp công lập.

2. Đối với các cơ quan hành chính:

Chính phủ ban hành Nghị định số 130/2005/NĐ-CP ngày 17/10/2005 quy định chế độ tự chủ, tự chịu trách nhiệm về sử dụng biên chế và kinh phí quản lý hành chính đối với cơ quan nhà nước.

Thực hiện Nghị định số 130/2005/NĐ-CP ngày 17/10/2005 của Chính phủ thời gian qua tại các Bộ, ngành, địa phương đã đạt được một số kết quả:

(1) Kết quả triển khai thực hiện đã khẳng định Nghị định số 130/2005/NĐ-CP của Chính phủ là phù hợp với yêu cầu thực tiễn, nâng cao trách nhiệm của thủ trưởng và tăng cường sự giám sát của cán bộ công chức trong việc sử dụng biên chế, kinh phí để hoàn thành nhiệm vụ được giao; từng bước khắc phục tình trạng cấp trên can thiệp quá sâu vào công việc của cấp dưới, cấp dưới chờ đợi sự chỉ đạo cụ thể của cấp trên; khắc phục cơ bản tình trạng các đơn vị chỉ trông chờ, ỷ lại vào ngân sách nhà nước, gắn việc sử dụng kinh phí với chất lượng và hiệu quả công việc, thúc đẩy cải cách thủ tục hành chính trong các khâu phân bổ, chấp hành và quyết toán NSNN tạo tiền đề để đổi mới cơ chế quản lý tài chính theo kết quả đầu ra.

(2) Cơ chế tự chủ tự chịu trách nhiệm đã góp phần thúc đẩy các cơ quan sắp xếp lại tổ chức bộ máy, tinh giản biên chế, nâng cao hiệu suất làm việc, hoàn thành tốt hơn nhiệm vụ được giao, tiết kiệm kinh phí, tạo điều kiện tăng cường cơ sở vật chất, từng bước hiện đại hoá công nghệ quản lý, tăng thu nhập cho CBCC (thu nhập tăng thêm bình quân từ 0,1- 0,3 tiền lương cấp bậc chức vụ).

(3) Trên 80 % cơ quan trung ương đã xây dựng quy chế chi tiêu nội bộ và quy chế quản lý tài sản công, trong đó quy định phân phối thu nhập tăng thêm đối với cán bộ công chức đã gắn với hiệu suất công tác trên cơ sở đánh giá, phân loại A, B,C; đồng thời thực hiện công khai, minh bạch trong cơ quan đơn vị.

- Các giải pháp để tăng cường khoán chi hành chính trong thời gian tới:

(1) Tăng cường công tác tuyên truyền về mục đích ý nghĩa thực hiện cơ chế tự chủ, hướng dẫn các đơn vị đã thực hiện giao quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm xây dựng quy chế chi tiêu nội bộ, đảm bảo 100% đơn vị được giao khoán có quy chế chi tiêu nội bộ, trong đó tập trung hướng dẫn việc phân phối thu nhập tăng thêm gắn với năng suất, chất lượng và hiệu quả của từng cán bộ công chức trong đơn vị.

(2) Xây dựng hệ thống các tiêu chí đánh giá mức độ hoàn thành và chất lượng thực hiện nhiệm vụ được giao, để có cơ sở đánh giá đối với các cơ quan hành chính nhà nước hàng năm; đồng thời làm căn cứ để từng cơ quan xây dựng hệ thống đánh giá kết quả hoạt động đối với mỗi cán bộ, công nhân viên chức trong đơn vị.

(3) Tăng cường công tác chỉ đạo, kiểm tra đôn đốc, kịp thời hướng dẫn tháo gỡ khó khăn vướng mắc trong việc thực hiện cơ chế tự chủ, tự chịu trách nhiệm đối với cơ quan nhà nước.

Theo các quy định hiện hành, Nhà nước khuyến khích thực hiện cơ chế khoán kinh phí, giao quyền chủ động cho Thủ trưởng các đơn vị trong việc sử dụng kinh phí thực hiện nhiệm vụ.

69. Cử tri thành phố Hà Nội kiến nghị: Cử tri cho rằng hiện nay các định mức chi tiêu tài chính ở các cơ quan hành chính Nhà nước rất thấp, chưa phù hợp với thực tế. Quy định như hiện nay sẽ buộc các cơ quan hành chính thực hiện thiếu trung thực và sẽ tạo ra nếp tư duy không lành mạnh trong đội ngũ cán bộ công chức. Đề nghị Chính phủ chỉ đạo các cơ quan chưca năng nghiên cứu năng các định mức hiện hành (cử tri Quận Hai Bà Trưng).

Trả lời: (Tại Công văn số 3742/BTC-HCSN ngày 29/3/2010)

Định mức chi tiêu được xác định trên cơ sở nội dung các nhiệm vụ phải thực hiện, tình hình giá cả và khả năng ngân sách trong từng thời kỳ.

Trong thời gian vừa qua, Bộ Tài chính đã thường xuyên rà soát để sửa đổi, bổ sung nhằm hoàn thiện hệ thống định mức, tiêu chuẩn, chế độ chi tiêu ngân sách nhà nước, ví dụ như: Thông tư số 01/2010/TT-BTC ngày 06/01/2010 quy định chế độ chi tiêu đón tiếp khách nước ngoài vào làm việc tại Việt Nam, chi tiêu tổ chức các hội nghị, hội thảo quốc tế tại Việt Nam và chi tiêu tiếp khách trong nước (thay thế Thông tư số 57/2007/TT-BTC ngày 11/6/2007); Thông tư số 219/2009/TT-BTC ngày 19/11/2009 quy định một số định mức chi tiêu áp dụng cho các dự án/chương trình (thay thế cho Quyết định số 61/2006/QĐ-BTC ngày 2/11/2006 của Bộ trưởng Bộ Tài chính ban hành một số định mức chi tiêu áp dụng cho các dự án, chương trình sử dụng nguồn vốn ODA), .v.v.

Đến nay, về cơ bản hệ thống định mức, tiêu chuẩn, chế độ chi tiêu ngân sách nhà nước tương đối đầy đủ và được xây dựng, tổ chức thực hiện theo hướng mức chi tối đa hoặc theo khung mức chi; trên cơ sở đó các Bộ, địa phương, đơn vị được chủ động quyết định mức chi cụ thể cho phù hợp điều kiện thực tế.

Với hệ thống định mức, tiêu chuẩn, chế độ chi tiêu ngân sách nhà nước nêu trên, kết hợp với việc thực hiện chế độ tự chủ, tự chịu trách nhiệm về sử dụng biên chế và kinh phí quản lý hành chính đối với các cơ quan nhà nước theo quy định tại Nghị định số 130/2005/NĐ-CP ngày 17/10/2005 của Chính phủ đã tạo điều kiện cho các cơ quan hành chính nhà nước chủ động trong việc sử dụng biên chế và kinh phí quản lý hành chính được giao để hoàn thành nhiệm vụ, góp phần đẩy mạnh việc thực hiện tiết kiệm, chống lãng phí trong việc sử dụng kinh phí, tài sản công.

Tuy nhiên, trong điều kiện kinh tế - xã hội phát triển nhanh thì còn một số định mức, tiêu chuẩn, chế độ chi tiêu ngân sách nhà nước chưa đáp ứng được kịp thời yêu cầu thực tế.

Bộ Tài chính đang và sẽ tiếp tục thực hiện rà soát để kịp thời sửa đổi, bổ sung định mức, tiêu chuẩn, chế độ chi tiêu ngân sách nhà nước để đáp ứng tốt hơn đòi hỏi thực tiễn, tạo quyền tự chủ hơn nữa cho các cơ quan hành chính, góp phần nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý Nhà nước, gắn với tiến trình cải cách hiện đại hoá nền hành chính Nhà nước.

70. Cử tri tỉnh Vĩnh Phúc kiến nghị: Đề nghị xóa bỏ việc ban hành xổ số vì có như vậy mới chấm dứt triệt để được nạn đánh bạc ăn theo số đề…

Trả lời: (Tại Công văn số 4895/BTC-TCNH ngày 20/4/2010)

Hoạt động kinh doanh xổ số là hoạt động dịch vụ tài chính được Chính phủ cho phép triển khai thực hiện từ năm 1962 nhằm huy động sự đóng góp của nhân dân để thực hiện các mục tiêu về phát triển y tế, giáo dục và phúc lợi xã hội công cộng của các địa phương.

Trong các năm qua, hoạt động xổ số đã có những bước phát triển đáng kể, đã đáp ứng một phần nhu cầu vui chơi, giải trí lành mạnh của một bọ phận dân cư trong xã hội theo phương châm “ ích nước, lợi nhà”. Nguồn thu từ hoạt động xổ số đã được sử dụng để đầu tư các công trình trường học, trạm xá, trung tâm văn hoá, nhà tình nghĩa cho người nghèo, không nơi nương tựa,…tại các địa phương. Hoạt động xổ số cũng đã góp phần tạo việc làm cho khoảng gần 300.000 lao động, đặc biệt là đối với những đối tượng có hoàn cảnh khó khăn.

Với kết quả đóng góp như trên, hoạt động xổ số đã được Nhà nước khẳng định là ngành nghề kinh doanh đặc biệt, có điều kiện trong nền kinh tế quốc dân. Đồng thời để tạo hành lang pháp lý cho hoạt động kinh doanh xổ số ngày 01/3/2007 Chính phủ ban hành Nghị định số 30/2007/NĐ-CP về kinh doanh xổ số, nhằm bảo đảm cho hoạt động kinh doanh xổ số đi vào nề nếp, hạn chế tối đa các ảnh hưởng tiêu cực đối với xã hội.

Mặc dù hoạt động xổ số kiến thiết ở nước ta thời gian qua đã có những tiến bộ, tuy nhiên vẫn còn bộc lộ một số mặt hạn chế, tồn tại nhất định như loại hình sản phẩm xổ số còn thủ công, lạc hậu; cơ cấu các loại hình xổ số chưa hợp lý, dễ bị số đề lợi dụng; công tác tuyên truyền của các Công ty xổ số chưa được thường xuyên và hiệu quả,..

Để hạn chế tệ nạn số đề lợi dụng xổ số kiến thiết để hoạt động, thời gian qua, Bộ Tài chính đã tích cực phối hợp chặt chẽ với các Bộ, ngành liên quan và UBND các tỉnh, thành phố chỉ đạo các cơ quan chức năng trên địa bàn và Công ty XSKT triển khai đồng bộ các biện pháp đấu tranh với tệ nạn số đề như:

(i) Phối hợp với Bộ Công an đẩy mạnh triển khai Đề án phòng chống tệ nạn xã hội và hoạt động số đề, cờ bạc bất hợp pháp trên địa bàn từng địa phương.

(ii) Hiện đại hoá phương thức quay số mở thưởng xổ số từ thiết bị lồng cầu thủ công sang bằng thiết bị điện tử chuyên dùng.

(iii) Kiểm soát chặt chẽ việc đưa tin kết quả xổ số với liều lượng phù hợp trên các phương tiện thông tiện đại chúng tại địa phương.

(iv) Tăng cường kiểm soát thị trường xổ số, thông qua việc khống chế lượng vé phát hành của Công ty XSKT cho phù hợp với nhu cầu tham gia giải trí của người dân.

Để nâng cao ý nghĩa và hiệu quả của hoạt động xổ số, đảm bảo cho hoạt động xổ số phát triển ổn định, thời gian tới Bộ Tài chính tiếp tục tập trung vào các công việc chủ yếu sau:

- Tiếp tục hoàn thiện hệ thống chính sách quản lý đối với hoạt động kinh doanh xổ số; Xây dựng chiến lược về tổ chức và quản lý thị trường xổ số đến năm 2015 và định hướng đến năm 2020 để xác định mục tiêu và các giải pháp tổ chức, quản lý hoạt động xổ số trong thời gian tới. Trong đó cần tập trung vào việc tổ chức lại các doanh nghiệp xổ số theo hướng tinh gọn, hiệu quả.

- Thực hiện đổi mới các loại hình sản phẩm xổ số, phương thức kinh doanh theo hướng hiện đại hoá hoạt động xổ số, thông qua việc ứng dụng và đưa các loại hình sản phẩm xổ số hiện đại (xổ số điện toán) vào hoạt động kinh doanh để hạn chế lợi dụng của tệ nạn số đề, ăn theo hoạt động xổ số.

- Tăng cường công tác tuyên truyền, vận động người dân đấu tranh, bài trừ tệ nạn số đề lợi dụng xổ số để hoạt động trên nhiều phương tiện thông tin đại chúng.

- Tăng cường công tác kiểm tra, giám sát, phát hiện và xử lý nghiêm các sai phạm của doanh nghiệp xổ số. Việc quản lý giám sát sẽ có sự kết hợp giữa Trung ương và địa phương, trong đó UBND các tỉnh, thành phố với vai trò là đại diện chủ sở hữu của Công ty xổ số kiến thiết, vừa là cơ quan quản lý nhà nước trên địa bàn có vai trò hết sức quan trọng trong việc này.

- Chỉ đạo các Công ty xổ số kiến thiết phối hợp chặt chẽ với lực lượng công an trong công tác đấu tranh, phòng chống việc lợi dụng xổ số để tổ chức hoạt động số đề bất hợp pháp trên địa bàn.



71. Cử tri thành phố Cần Thơ kiến nghị: Vừa qua, Bộ Tài Chính có Thông tư hướng dẫn chủ đầu tư các công trình xây dựng cơ bản (ký hợp đồng với các nhà thầu) cho tạm ứng vốn ngân sách tối thiểu 20% nhưng không có mức tối đa. Nhiều nhà thầu đã lợi dụng chủ trương này để tạm ứng đến 70%-75% mà không có (hoặc không đủ) khối lượng quyết toán. Đề nghị bộ nên sửa đổi ngay quy định này nhằm chấm dứt tình trạng chiếm dụng vốn Nhà nước.

Trả lời: (Tại Công văn số 3447/BTC-ĐT ngày 22/3/2010)

Về mức tạm ứng vốn để thực hiện hợp đồng xây dựng công trình được quy định tại Điều 24 của Nghị định số 99/2007/NĐ-CP ngày 13/6/2007 của Chính phủ về Quản lý chi phí đầu tư xây dựng công trình. Tại Điểm 5, Thông tư số 130/TT-BTC ngày 02/11/2007 sửa đổi, bổ sung một số điểm của Thông tư số 27/TT-BTC ngày 03/4/2007 hướng dẫn về quản lý, thanh toán vốn đầu tư và vốn sự nghiệp có tính chất đầu tư thuộc nguồn vốn ngân sách nhà nước của Bộ Tài chính đã hướng dẫn thực hiện theo đúng quy định tại Điều 24 của Nghị định số 99/2007/NĐ-CP ngày 13/6/2007 của Chính phủ.

Qua thực tế kiểm soát thanh toán và kiểm tra tình hình sử dụng vốn ngân sách cho đầu tư ở các đơn vị trong cả nước, Bộ Tài chính đã phát hiện nhược điểm của quy định trên đây; nên tại Điểm 10, Công văn số 12.950/BTC-ĐT ngày 14/9/2009 về việc tham gia ý kiến dự thảo Nghị định về hợp đồng trong hoạt động xây dựng, Bộ Tài chính đã đề nghị sửa Điều quy định về mức tạm ứng vốn đối với hợp đồng xây dựng sử dụng vốn nhà nước như sau: "Mức tạm ứng tối đa bằng 50% giá trị hợp đồng trừ trường hợp hợp đồng nhập khẩu thiết bị phải mở LC".

Hiện nay, Bộ Xây dựng đã tiếp thu ý kiến trên đưa vào dự thảo Nghị định về hợp đồng trong hoạt động xây dựng thay thế Chương V- Hợp đồng trong hoạt động xây dựng công trình của Nghị định 99/2007/NĐ-CP, đang trình Chính phủ xem xét ban hành.



72. Cử tri tỉnh Hà Tĩnh kiến nghị: Một khoản nợ phải thu, tài sản không cần dùng còn tồn đọng sau cổ phần hóa (bàn giao các Công ty mua bán nợ) và tiền bán phần vốn Nhà nước (bàn giao vể Tổng công ty đầu tư và kinh doanh vốn Nhà nước), đề nghị Bộ giao cho Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố và các Công ty có quy chế phối hợp để xử lý dứt điểm.

Trả lời: (Tại Công văn số 4127/BTC-TCDN ngày 05/4/2010)

1/ Về xử lý những tài sản không cần dùng, ứ đọng, chờ thanh lý, các khoản công nợ không có khả năng thu hồi loại khỏi giá trị doanh nghiệp cổ phần hóa và việc quản lý tiền thu từ cổ phần hoá, Nghị định số 109/2007/NĐ-CP ngày 26/6/2007 của Chính phủ về chuyển doanh nghiệp 100% vốn nhà nước thành công ty cổ phần đã quy định cụ thể:

- Những tài sản không cần dùng, ứ đọng, chờ thanh lý, các khoản công nợ không có khả năng thu hồi loại khỏi giá trị doanh nghiệp khi cổ phần hoá các công ty nhà nước độc lập, công ty mẹ của Tập đoàn kinh tế, Tổng công ty nhà nước (kể cả Ngân hàng Thương mại nhà nước) và các công ty trách nhiệm hữu hạn do Nhà nước nắm giữ 100% vốn điều lệ thuộc các Bộ, cơ quan ngang Bộ, cơ quan thuộc Chính phủ, Ủy ban nhân dân các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương sẽ thực hiện chuyển giao cho Công ty Mua bán nợ và Tài sản tồn đọng của doanh nghiệp (Điều 14, Điều 15).

- Số tiền thu từ cổ phần hóa các doanh nghiệp nêu trên được sử dụng để thanh toán chi phí cổ phần hóa và chi giải quyết chính sách đối với lao động dôi dư khi thực hiện cổ phần hóa doanh nghiệp theo chế độ nhà nước quy định. Phần còn lại được chuyển về Quỹ hỗ trợ sắp xếp doanh nghiệp tại Tổng công ty Đầu tư và Kinh doanh vốn nhà nước (Điều 45).

2/ Về trách nhiệm của các cơ quan liên quan trong việc tổ chức thực hiện cổ phần hoá doanh nghiệp nói chung và việc xử lý các vấn đề liên quan đến quyết toán, quản lý tiền thu từ cổ phần hoá, việc bàn giao tài sản không cần dùng, ứ đọng, chờ thanh lý, các khoản công nợ không có khả năng thu hồi nói riêng đã được quy định như sau:

a. Về tiền thu từ cổ phần hoá và quản lý phần vốn Nhà nước góp tại doanh nghiệp:

- Tại khoản 2 Điều 54 Nghị định 109/2007/NĐ-CP quy định trách nhiệm của Chủ tịch Uỷ ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương: Hướng dẫn, kiểm tra, giám sát quá trình cổ phần hóa các đơn vị thuộc phạm vi quản lý; Quyết toán số tiền thu từ cổ phần hóa; thống nhất với Tổng công ty Đầu tư và kinh doanh vốn nhà nước trong việc lựa chọn người đại diện phần vốn nhà nước góp và triển khai công tác chuyển giao quyền đại diện chủ sở hữu vốn nhà nước tại các doanh nghiệp thuộc đối tượng chuyển giao.

- Tại khoản 4 Điều 54 Nghị định 109/2007/NĐ-CP quy định trách nhiệm của Hội đồng quản trị Tổng công ty Đầu tư và Kinh doanh vốn nhà nước: Phối hợp với các Bộ, ngành, Ủy ban nhân dân các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương kiểm tra, đôn đốc các doanh nghiệp nộp tiền thu từ cổ phần hóa về Quỹ hỗ trợ sắp xếp doanh nghiệp tại Tổng công ty Đầu tư và Kinh doanh vốn nhà nước; tổ chức triển khai cổ phần hoá các doanh nghiệp thuộc đối tượng chuyển giao.



b. Về nợ và tài sản được loại ra khỏi giá trị doanh nghiệp cổ phần hoá:

Tại Thông tư số 38/2006/TT-BTC ngày 10/5/2006 của Bộ Tài chính hướng dẫn trình tự, thủ tục và xử lý tài chính đối với hoạt động mua, bán, bàn giao, tiếp nhận, xử lý nợ và tài sản tồn đọng của doanh nghiệp cũng quy định rõ trách nhiệm của các cơ quan, như:

- Trách nhiệm của cơ quan đại diện chủ sở hữu;

- Trách nhiệm của doanh nghiệp;

- Trách nhiệm của Công ty Mua, bán nợ và tài sản tồn đọng của doanh nghiệp.

Căn cứ vào các quy định trên, Uỷ ban nhân dân các tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương chỉ đạo và đôn đốc các đơn vị chức năng có thể xây dựng quy chế phối hợp với đơn vị liên quan (doanh nghiệp thực hiện cổ phần hoá, Công ty Mua bán nợ và tài sản tồn đọng của doanh nghiệp, Tổng công ty Đầu tư và kinh doanh vốn nhà nước) để thực hiện quản lý, xử lý có hiệu quả các khoản nợ, tài sản loại trừ khỏi giá trị doanh nghiệp cũng như tiền thu từ cổ phần hoá theo quy định.



73. Cử tri tỉnh Hà Tĩnh kiến nghị: Đề nghị Bộ có hướng dẫn cơ chế trích ngân sách các cầp hàng năm cho công tác duy tư, bảo dưỡng, sửa chữa và quản lý đường giao thông nông thôn.

Trả lời: (Tại Công văn số 4240/BTC-NSNN ngày 074/2010)

Theo quy định của Luật Ngân sách Nhà nước, việc duy tu bảo dưỡng và sửa chữa cầu đường và các công trình giao thông khác do địa phương quản lý thuộc nhiệm vụ chi của ngân sách địa phương (chi sự nghiệp kinh tế); vì vậy, hàng năm căn cứ nhu cầu kinh phí cho công tác duy tu, bảo dưỡng, sửa chữa và quản lý đường giao thông nông thôn; khả năng ngân sách địa phương và vốn huy động hợp pháp khác; địa phương có trách nhiệm bố trí kinh phí để thực hiện nhiệm vụ duy tu, bảo dưỡng, sửa chữa và quản lý đường giao thông nông thôn cho phù hợp.

Đề nghị Uỷ ban nhân dân tỉnh căn cứ vào khả năng ngân sách địa phương hàng năm để bố trí kinh phí cho công tác duy tu, bảo dưỡng, sửa chữa và quản lý đường giao thông nông thôn cho hợp lý.

74. Cử tri tỉnh Phú Thọ kiến nghị: Đề nghị Chính phủ có Chính sách hỗ trợ cao hơn đối với cán bộ đi học, đặc biệt là cán bộ đi học ở các xã nghèo, các xã đặc biệt khó khăn, các xã vùng sâu, vùng xa; cán bộ là nữ để động viên, khuyến khích cán bộ, công chức tích cực học tập nâng cao trình độ. Hiện nay mức hỗ trợ cho các đối tượng đi học tại Thông tư 51/TT-BTC rất thấp, không có các khoản hỗ trợ về tiền nghỉ, tiền ăn…cho cán bộ công chức, đặc biệt là cán bộ công chức các xã vùng sâu, vùng xa, vùng cao mà đối tượng này tuy có lương nhưng thường là lương thấp, không đủ để trang trải cho việc học tập nâng cao trình độ, do vậy việc chiêu sinh đào tạo cho đối tượng này gặp rất nhiều khó khăn.

Trả lời: (Tại Công văn số 5169/BTC-HCSN ngày 26/4/2010)

- Theo quy định tại Thông tư số 51/2008/TT-BTC ngày 16/6/2008 của Bộ Tài chính hướng dẫn quản lý và sử dụng kinh phí đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức Nhà nước, cán bộ, công chức được cơ quan cử đi học được hỗ trợ các khoản sau:

+ Hỗ trợ tài liệu học tập.

+ Hỗ trợ một phần tiền ăn: Cơ sở đào tạo sử dụng nguồn kinh phí đào tạo, bồi dưỡng cán bộ công chức được cấp cơ thẩm quyền giao dự toán hàng năm để xem xét, quyết định hỗ trợ một phần tiền ăn cho học viên trong thời gian học tập trung nhưng tối đa không quá 25.000 đồng/1người/1 ngày đối với cấp Trung ương và cấp tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương; không quá 15.000 đồng/1 người/1 ngày đối với cấp huyện, cấp xã.

+ Chi phí đi lại và tiền thuê chỗ nghỉ:

Cơ quan, đơn vị cử cán bộ đi học căn cứ địa điểm và khả năng ngân sách, sử dụng từ nguồn kinh phí chi thường xuyên và nguồn kinh phí khác của mình để hỗ trợ cho cán bộ công chức được cử đi học các khoản sau đây: Chi phí đi lại từ cơ quan đến nơi học tập (một lượt đi và về; nghỉ lễ, Tết), thanh toán tiền thuê chỗ nghỉ cho cán bộ công chức trong những ngày đi học tập trung tại cơ sở đào tạo (trong trường hợp cơ sở đào tạo xác nhận không bố trí được chỗ nghỉ).

Căn cứ mức chi tối đa quy định nêu trên, tình hình thực tế và khả năng ngân sách địa phương, Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh quyết định mức chi cụ thể để áp dụng đối với cơ quan đơn vị trực thuộc trên địa bàn.

- Đối với việc đào tạo cán bộ là nữ:

Thời gian vừa qua Thủ tướng Chính phủ đã phê duyệt một số Đề án liên quan đến chính sách hỗ trợ đào tạo, bồi dưỡng liên quan đến phụ nữ như: Quyết định số 664/QĐ-TTg ngày 02/6/2008 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Đề án "Đào tạo, bồi dưỡng cán bộ chủ chốt Hội Liên hiệp phụ nữ cấp quận, huyện và xã, phường, thị trấn giai đoạn 2008-2012"; Quyết định số 295/QĐ-TTg ngày 26/2/2010 phê duyệt Đề án "Hỗ trợ phụ nữ học nghề tạo việc làm giai đoạn 2010-2015" trong đó quy định rõ một số chính sách đối với lao động nữ đi học nghề như: Mức hỗ trợ học nghề từ 2.000.000 đồng đến 3.000.000 đồng/người/khoá học; hỗ trợ tiền ăn mức 15.000 đồng/ngày thực học/người; hỗ trợ tiền đi lại theo giá vé giao thông công cộng với mức tối đa không quá 200.000 đồng/người/khoá học đối với người học nghề xa nơi cư trú từ 15 km trở lên...

75. Cử tri tỉnh Lào Cai kiến nghị: Theo quy định Tổng công ty Đầu tư và kinh doanh vốn nhà nước là đại diện chủ sở hữu phần vốn nhà nước tại các công ty cổ phần, Công ty TNHH một thành viên chuyển đổi công ty nhà nước độc lập, trừ các công ty trực tiếp phục vụ quốc phòng, an ninh và thực hiện nhiệm vụ công ích thiết yếu của các Bộ, UBND tỉnh. Thực tế, tại các tỉnh miền núi như Lào Cai, các doanh nghiệp đều có quy mô rất nhỏ, một số đóng tại địa bàn các xã vùng cao, nếu Tổng công tư Đầu ty và Kinh Doanh vốn nhà nước là đại diện chủ sở hữu, việc kiểm tra, giám sát hoặc tham gia các quyền và nghĩa vụ của chủ sở hữu đối với doanh nghiệp, việc quyết định các phương án đầu tư, kinh doanh sẽ không kịp thời, không chặt chẽ. Đề nghị nghiên cứu có quy định phân cấp đối với các doanh nghiệp có quy mô nhỏ và những doanh nghiệp có hoạt động công ích giao cho UBND tỉnh là đại diện chủ sở hữu để thuận lợi cho công tác quản lý điều hành tại địa phương nhằm đáp ứng nhiệm vụ chính trị và thực hiện những nội dung phục vụ công ích xã hội.


Каталог: content -> vankien -> Lists -> DanhSachVanKien -> Attachments
Attachments -> KỲ HỌp thứ TÁm quốc hội khoá XII (20/10/2010 26/11/2010)
Attachments -> Đa dạng sinh họC Ở việt nam
Attachments -> PHẦn I các bộ, ngàNH, CƠ quan thuộc chính phủ trả LỜi cáC Ý kiếN, kiến nghị CỦa cử tri
Attachments -> CHÍnh phủ Số: 62/bc-cp cộng hòa xã HỘi chủ nghĩa việt nam độc lập Tự do Hạnh phúc Hà Nội, ngày 5 tháng 5 năm 2008 BÁo cáO
Attachments -> BỘ giao thông vận tảI 1/ Cử tri tỉnh Đắk Lắc kiến nghị
Attachments -> QUỐc hội khóa XI uỷ ban về các vấn đề xã hội
Attachments -> QUỐc hội số: CỘng hoà XÃ HỘi chủ nghĩa việt nam
Attachments -> 210/bc-btnmt cộng hoà XÃ HỘi chủ nghĩa việt nam
Attachments -> KỲ HỌp thứ TÁm quốc hội khoá XII (20/10/2010 26/11/2010) TẬp hợP Ý kiếN, kiến nghị CỦa cử tri
Attachments -> Ủy ban thưỜng vụ quốc hội số: 365/bc-ubtvqh12

tải về 3.53 Mb.

Chia sẻ với bạn bè của bạn:
1   ...   4   5   6   7   8   9   10   11   ...   47




Cơ sở dữ liệu được bảo vệ bởi bản quyền ©hocday.com 2024
được sử dụng cho việc quản lý

    Quê hương