UỶ ban thưỜng vụ quốc hội ban dân nguyện kỳ HỌp thứ BẢY quốc hội khoá XII



tải về 3.53 Mb.
trang7/47
Chuyển đổi dữ liệu17.08.2016
Kích3.53 Mb.
#21000
1   2   3   4   5   6   7   8   9   10   ...   47

Nguồn: Bản tin Reuters, các Công ty xăng dầu các nước - cập nhật đến ngày 6/4/2010.

2. Về giá điện, Theo quy định của pháp luật hiện hành, thì giá điện vẫn do Thủ tướng Chính phủ quyết định trên cơ sở phương án giá do Bộ Công Thương xây dựng sau khi có ý kiến thẩm định bằng văn bản của Bộ Tài chính, vì vậy giá điện vẫn do Nhà nước kiểm soát. Việc quyết định điều chỉnh giá điện không thuộc thẩm quyền của các doanh nghiệp. Giá điện hiện nay vẫn được bao cấp chưa tính đủ chi phí, như: Giá than bán cho điện chỉ bằng 54-59% giá than bán cho các ngành khác; giá điện 50 kwh đầu hiện vẫn giữ ổn định như năm 2009 (chỉ bằng khoảng 60% giá thành), từ kwh thứ 51 đến kwh thứ 100, mức giá bán bằng giá thành (ngành điện không có lãi).

Để tăng cường kiểm soát giá đối với ngành hàng còn mang tính độc quyền như Ngành Điện, các Bộ, ngành đang tiếp tục nghiên cứu, hoàn thiện các văn bản quản lý giá hiện hành theo hướng: Tiếp cận dần với cơ chế giá thị trường theo những nguyên tắc mà Chính phủ chỉ đạo; tăng cường thanh tra, kiểm tra yếu tố hình thành giá; đồng thời, tiếp tục hoàn thiện và tăng cường áp dụng pháp luật về cạnh tranh để hạn chế các hành vi lạm dụng vị trí độc quyền.



59. Cử tri tỉnh TP Hồ Chí Minh kiến nghị: Đề nghị Chính phủ và Bộ chấp thuận cho thành phố được thực hiện cơ chế: Thành phố căn cứ điều kiện thực tiễn và mức sống dân cư trên địa bàn để xây dựng mức thu từng loại phí, lệ phí (thuộc thẩm quyền quyết định của Hội đồng nhân dân phố) phù hợp với đặc thù của thành phố. Trường hợp vượt khung mức thu do Bộ trưởng Bộ Tài chính quy định thì kiến nghị Bộ xem xét, quyết định đối với từng loại phí, lệ phí cụ thể.

Trả lời: (Tại Công văn số 2951/BTC-PC ngày 11/3/2010)

- Điều 11 Pháp lệnh Phí, lệ phí năm 2001 quy định: “HĐND tỉnh, thành phố trực thuộc TW quyết định thu phí, lệ phí được phân cấp do UBND cùng cấp trình theo hướng dẫn của Bộ Tài chính”.

- Căn cứ quy định tại khoản 2, khoản 3 Điều 1 Nghị định số 24/2006/NĐ-CP sửa đổi, bổ sung Nghị định số 57/2002/NĐ-CP quy định chi tiết thi hành Pháp lệnh Phí và Lệ phí, HĐND cấp tỉnh quy định đối với một số khoản phí về quản lý đất đai, tài nguyên thiên nhiên; một số khoản phí gắn với chức năng quản lý hành chính nhà nước của chính quyền địa phương và quy định một số khoản lệ phí gắn với chức năng quản lý hành chính nhà nước của chính quyền địa phương, bảo đảm thực hiện chính sách phát triển kinh tế, xã hội phù hợp với đặc điểm, điều kiện cụ thể của địa phương.

Thẩm quyền quy định đối với phí, lệ phí bao gồm việc quy định mức thu, chế độ thu, nộp, quản lý và sử dụng đối với từng phí, lệ phí cụ thể.

- Điểm 3 Mục III Thông tư số 97/2006/TT-BTC ngày 16/10/2006 của Bộ Tài chính hướng dẫn về phí và lệ phí thuộc thẩm quyền quyết định của HĐND tỉnh, thành phố trực thuộc TW quy định:

3. Đối với các khoản phí, lệ phí có ý nghĩa quan trọng của tỉnh, có số thu lớn, có thể quy định mức thu cụ thể được, như phí cầu, đường bộ thuộc phạm vi tỉnh quản lý, phí xây dựng... thì việc quyết định mức thu đối với từng khoản phí được phân cấp cho HĐND cấp tỉnh phải bảo đảm đúng trình tự quy định tại Điều 11 Pháp lệnh phí và lệ phí là UBND cấp tỉnh trình Hội đồng nhân dân cùng cấp quyết định. Để chính sách ban hành được kịp thời và phù hợp với hoạt động của HĐND cấp tỉnh, Bộ Tài chính hướng dẫn một số nguyên tắc cụ thể để địa phương vận dụng, như sau:



a) UBND cấp tỉnh trình HĐND cấp tỉnh quyết định khung mức thu hoặc mức thu tối đa áp dụng thống nhất trong tỉnh về từng khoản phí, lệ phí. Căn cứ vào khung mức thu hoặc mức thu tối đa đã được HĐND cấp tỉnh quyết định, UBND tỉnh sẽ quy định mức thu cụ thể cho phù hợp với điều kiện, hoàn cảnh của từng địa bàn có xuất hiện, phát sinh hoặc cần thiết phải thu phí, lệ phí.

b) Đối với một số khoản phí, lệ phí mà Chính phủ hoặc Bộ Tài chính đã có văn bản quy định, như: phí sử dụng đường bộ, phí qua cầu, phí qua phà, phí dự thi, dự tuyển (lệ phí tuyển sinh), phí đấu giá... thì mức thu được áp dụng theo quy định tại các văn bản đó cho đến khi có hướng dẫn thay thế hoặc sửa đổi, bổ sung thì thực hiện theo văn bản mới.

c) Trường hợp mức thu của khoản phí, lệ phí nào không phù hợp với điều kiện thực tế tại địa phương thì UBND cấp tỉnh có văn bản trao đổi thống nhất với Bộ Tài chính trước khi trình HĐND cấp tỉnh quyết định”.

Theo đó, đối với các loại phí và lệ phí thuộc thẩm quyền quyết định của HĐND cấp tỉnh, Bộ Tài chính không quyết định mà chỉ hướng dẫn về nguyên tắc xây dựng mức thu. Trường hợp mức thu chưa phù hợp với điều kiện thực tế của địa phương thì UBND cấp tỉnh có thể trao đổi thống nhất với Bộ Tài chính trước khi trình HĐND cấp tỉnh ban hành.



60. Cử tri tỉnh Tiền Giang kiến nghị: Hiện nay, thực hiện quy định của Chính phủ về việc miễn thu đối với các loại phí và lệ phí là phù hợp; tuy nhiên, từ việc thực hiện quy định này đã tạo nên những khó khăn cho cơ sở trong công tác vận động sự đóng góp của nhân dân (để thực hiện các công trình tại cơ sở theo phương châm “Nhà nước và nhân dân cùng làm”; vận động Quý hỗ trợ nông dân; Quỹ vì người nghèo…); vì vậy, cử tri kiến nghị Chính phủ nên xem xét quy định cụ thể từng loại quỹ được và không được vận động nhân thu tại cơ sở,giúp chính quyền địa phương tháo gỡ những khó khăn hiện nay trong công tác vận động các nguồn quỹ này.

Trả lời: (Tại Công văn số 4238/BTC-NSNN ngày 074/2010)

Ngày 01/11/2007 Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Chỉ thị số 24/2007/CT-TTg về tăng cường chấn chỉnh việc thực hiện các quy định của pháp luật về phí, lệ phí, chính sách huy động và sử dụng các khoản đóng góp của nhân dân. Theo đó, Chủ tịch Uỷ ban nhân dân các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương có trách nhiệm chỉ đạo thực hiện:

- Bãi bỏ ngay những khoản thu phí, lệ phí không có tên trong Danh mục chi tiết phí, lệ phí ban hành kèm theo Nghị định số 24/2006/NĐ-CP ngày 06/3/2006 sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 57/2002/NĐ-CP ngày 03/6/2002 của Chính phủ quy định chi tiết thi hành Pháp lệnh Phí, lệ phí. Đối với các khoản phí, lệ phí có tên trong Danh mục chi tiết phí, lệ phí, nhưng chưa có văn bản của cấp có thẩm quyền hướng dẫn thì chưa được phép thu, không được vận dụng mức thu của các khoản phí, lệ phí khác có tính chất tương tự để thu. Trường hợp địa phương đã tổ chức thu thì phải dừng ngay.

- Thực hiện miễn thu các khoản phí, lệ phí theo nội dung quy định tại Danh mục các loại phí, lệ phí được miễn ban hành theo Chỉ thị 24/2007/CT-TTg, gồm: Phí an ninh, trật tự; Phí phòng, chống thiên tai; Lệ phí hộ tịch, hộ khẩu, chứng minh nhân dân; Lệ phí địa chính.

- Đối với các khoản huy động đóng góp tự nguyện để xây dựng cơ sở hạ tầng, huy động đóng góp mang tính xã hội, từ thiện, phải thực hiện theo đúng nguyên tắc tự nguyện. Hội đồng nhân dân, Uỷ ban nhân dân các cấp không được ra văn bản bắt buộc đóng góp, không được giao chỉ tiêu huy động cho cấp dưới, không gắn việc huy động đóng góp với việc cung cấp các dịch vụ công mà người dân địa phương được hưởng.

Như vậy, việc vận động sự đóng góp của nhân dân để thực hiện các công trình tại cơ sở theo phương châm “Nhà nước và nhân dân cùng làm”, Quỹ hỗ trợ nông dân, Quỹ vì người nghèo phải trên cơ sở tự nguyện. Căn cứ vào tình hình thực tế tại địa phương để vận động nhân dân theo nguyên tắc tự nguyện, theo đúng tinh thần Chỉ thị số 24/2007/CT-TTg ngày 01/11/2007 của Thủ tướng Chính phủ nêu trên.



61 . Cử tri tỉnh Phú Thọ kiến nghị: Đề nghị Chính phủ có văn bản hướng dẫn cụ thể về việc chi thù lao cho Tổ quản lý - Thanh lý tài sản, do hiện nay, khi thực hiện chưa biết rõ đơn vị nào thực hiện chi tiền thù lao cho Tổ thanh lý - quản lý tài sản. Đồng thời cũng chưa có văn bản nào quy định rõ việc sử dụng, quản lý các loại phiếu thu, phiếu chi, hóa đơn giá trị gia tăng khi bán tài sản có liên quan đến hoạt động của Tổ quản lý - thanh lý tài sản.

Trả lời: (Tại Công văn số 3741/BTC-HCSN ngày 29/3/2010)

1. Về chi thù lao cho Tổ quản lý, thanh lý tài sản: Hiện nay chi hoạt động của Tổ quản lý, thanh lý tài sản của doanh nghiệp, hợp tác xã lâm vào tình trạng phá sản được quy định tại Thông tư liên tịch số 19/2008/TTLT-BTC-BTP ngày 19/02/2008 của Bộ Tài chính, Bộ Tư pháp hướng dẫn việc lập, quản lý, sử dụng và quyết toán kinh phí bảo đảm hoạt động của cơ quan thi hành án dân sự và Tổ quản lý, thanh lý tài sản của doanh nghiệp, hợp tác xã lâm vào tình trạng phá sản, trong đó quy định rõ mức chi tiền thù lao cho Tổ trưởng và thành viên Tổ: Mức chi tối đa 25.000 đồng/người/buổi; trường hợp làm ngoài giờ, ngày nghỉ được thanh toán theo chế độ làm đêm, làm thêm giờ theo Thông tư liên tịch số 08/2005/TTLT-BNV-BTC ngày 05 tháng 01 năm 2005 của Bộ Nội vụ, Bộ Tài chính hướng dẫn thực hiện chế độ làm trả lương vào ban đêm, làm thêm giờ đối với cán bộ, công chức, viên chức. Nguồn kinh phí chi cho hoạt động của Tổ được lấy từ nguồn thu của doanh nghiệp, hợp tác xã phá sản. Trong khi chưa thu được tiền từ xử lý tài sản của doanh nghiệp, hợp tác xã phá sản, cơ quan thi hành án dân sự thực hiện ứng trước kinh phí hoạt động cho Tổ quản lý, thanh lý tài sản từ nguồn dự toán kinh phí được cấp có thẩm quyền giao cho cơ quan thi hành án dân sự.

2. Về sử dụng hoá đơn khi bán tài sản có liên quan đến hoạt động của Tổ quản lý, thanh lý tài sản: Điểm 1.9 mục VI phần B Thông tư số 120/2002/TT-BTC ngày 30/12/2002 của Bộ Tài chính hướng dẫn Nghị định số 89/2002/NĐ-CP ngày 07 tháng 11 năm 2002 của Chính phủ về việc in, phát hành, sử dụng, quản lý hoá đơn quy định: "Đối với các hoạt động bán đấu giá tài sản: Hội đồng giải thể doanh nghiệp, phá sản, cơ quan thi hành án được sử dụng hoá đơn để bán tài sản, hàng hoá thu tiền. Căn cứ công văn đề nghị, cơ quan thuế bán hóa đơn cho các tổ chức bán tài sản, hàng hoá sử dụng. Số hoá đơn sử dụng được đóng dấu của tổ chức bán hàng vào phía trên bên trái hoá đơn và thực hiện thanh, quyết toán số hoá đơn theo quy định với cơ quan thuế nơi bán hoá đơn".

62. Cử tri tỉnh Hà Giang kiến nghị: Đề nghị Trung ương xem xét ưu tiên bố trí phương tiện (xe ô tô con gầm cao) cho các huyện vùng cao. Vì địa bàn rộng, phức tạp đi lại khó khăn.

Trả lời: (Tại Công văn số 5423/BTC-QLCS ngày 29/4/2010)

Tại khoản 3 Điều 1 Quyết định số 184/2007/QĐ-TTg ngày 30/11/2007 của Thủ tướng Chính phủ về việc sửa đổi, bổ sung một số điều của Quy định tiêu chuẩn, định mức và chế độ quản lý, sử dụng phương tiện đi lại trong các cơ quan nhà nước, đơn vị sự nghiệp công lập, công ty nhà nước ban hành kèm theo Quyết định số 59/2007/QĐ-TTg ngày 07/5/2007 của Thủ tướng Chính phủ quy định:

2. Đối với cơ quan hành chính, đơn vị sự nghiệp hoạt động trên địa bàn miền núi, vùng sâu, vùng xa, vùng hải đảo, vùng đặc biệt khó khăn, việc trang bị xe ô tô phục vụ công tác được thực hiện như sau:

a) Đối với cơ quan, đơn vị mới thành lập được trang bị 01 xe ô tô từ nguồn xe điều chuyển; trường hợp không có xe điều chuyển thì được mua mới 01 xe ô tô với giá mua tối đa 550 triệu đồng/xe, nếu phải mua xe 2 cầu thì giá mua tối đa 800 triệu đồng/xe.

b) Đối với cơ quan, đơn vị mà xe ô tô hiện có đã đủ điều kiện thanh lý hoặc bị hư hỏng mà việc sửa chữa để tiếp tục sử dụng không hiệu quả, không đảm bảo an toàn khi vận hành thì thực hiện thanh lý, nếu không có điều kiện thuê được xe ô tô phục vụ công tác và không điều chuyển được thì được mua mới để thay thế xe ô tô đã thanh lý theo quy định tại điểm a khoản này.”

Đồng thời, tại khoản 4 Điều 12 Quy định ban hành kèm theo Quyết định số 59/2007/QĐ-TTg quy định:

4. Việc mua mới xe ôtô quy định tại các khoản 1, khoản 2 và khoản 3 Điều này bố trí trong dự toán ngân sách nhà nước được giao và do Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang Bộ, Thủ trưởng cơ quan thuộc Chính phủ, Thủ trưởng cơ quan khác ở Trung ương quyết định sau khi có ý kiến thống nhất bằng văn bản của Bộ Tài chính đối với các cơ quan, đơn vị thuộc Trung ương quản lý; Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp tỉnh quyết định sau khi có ý kiến thống nhất bằng văn bản của Thường trực Hội đồng nhân dân cùng cấp đối với các cơ quan, đơn vị thuộc địa phương quản lý.”

Căn cứ các quy định trên đây, Thủ trưởng Bộ, ngành (đối với cơ quan, đơn vị thuộc trung ương), Chủ tịch UBND cấp tỉnh (đối với cơ quan, đơn vị thuộc địa phương) quyết định việc mua xe ô tô 2 cầu (gầm cao) để bố trí cho các cơ quan hành chính, đơn vị sự nghiệp hoạt động trên địa bàn miền núi, vùng sâu, vùng xa, vùng hải đảo, vùng đặc biệt khó khăn. Như vậy, chế độ trang bị xe ô tô hiện hành đã phù hợp với đề nghị của cử tri.



63. Cử tri tỉnh Hà Giang kiến nghị: Đề nghị Chính phủ xem xét có chủ trương, chính sách để các tỉnh, thành phố được thành lập quỹ hỗ trợ phát triển Hợp tác xã nhăm tạo điều kiện thuận lợi cho các Hợp tác xã thiếu vốn được vay vốn phát triển và mở rộng sản xuất kinh doanh.

Trả lời: (Tại Công văn số 4597/BTC-TCNH ngày 13/4/2010)

1. Về chính sách đối với Quỹ Hỗ trợ phát triển hợp tác xã:

Trong những năm qua, Nhà nước đã ban hành nhiều cơ chế, chính sách tạo điều kiện để các thành phần kinh tế, hộ gia đình, cá nhân được vay vốn phát triển và mở rộng sản xuất kinh doanh.Với đặc điểm của nền kinh tế Việt Nam (hơn 60% dân số làm nông nghiệp), do vậy việc phát triển kinh tế tập thể nói chung và phát triển kinh tế hợp tác xã nói riêng có ý nghĩa quan trọng cả về khía cạnh kinh tế và khía cạnh xã hội. Trong những năm qua, Đảng, Nhà nước đã ban hành nhiều cơ chế, chính sách tạo điều kiện thuận lợi đối với hoạt động Quỹ Hỗ trợ phát triển hợp tác xã, cụ thể:

- Ngày 26/11/2003, Luật Hợp tác xã đã được Quốc hội thông qua, theo quy định tại mục a, khoản 1, điều 3 đã xác định rõ chính sách của Nhà nước đối với Hợp tác xã là: Ban hành và thực hiện các chính sách, các chương trình hỗ trợ phát triển HTX về đào tạo cán bộ, phát triển nguồn nhân lực; đất đai; tài chính; tín dụng; xây dựng Quỹ hỗ trợ phát triển HTX.

- Chỉ thị số 43-CT/TW ngày 08/9/2004 của Ban Bí thư về lãnh đạo Đại hội III Liên minh HTX Việt Nam (nhiệm kỳ 2005-2009) đã giao: Các ban cán sự Đảng, Đảng đoàn ở các Bộ, ngành liên quan và các cấp uỷ đảng tăng cường phối hợp, tạo điều kiện thuận lợi để Liên minh các HTX Việt Nam thực hiện tốt nhiệm vụ phát triển kinh tế tập thể , nhất là làm tốt công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ quản lý HTX; xây dựng quản lý Quỹ hỗ trợ phát triển hợp tác xã.

- Ngày 01/7/2005, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 88/2005/NĐ-CP về một số chính sách hỗ trợ, khuyến khích phát triển hợp tác xã tại Điều 7 quy định:Thành lập Quỹ Hỗ trợ phát triển hợp tác xã theo quy định tại điểm a, khoản 1, điều 3 Luật Hợp tác xã năm 2005.

- Theo quy định tại Quyết định số 246/2006/QĐ-TTg ngày 27/10/2006 của Thủ tướng Chính phủ. Quỹ Phát triển hợp tác xã là tổ chức tài chính Nhà nước, có chức năng hỗ trợ các hoạt động đổi mới phát triển sản phẩm; đổi mới phát triển công nghệ, kỹ thuật, phát triển thị trường, mở rộng tiêu thụ sản phẩm; xây dựng và nhân rộng các mô hình hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã mới, các mô hình hợp tác xã điển hình tiên tiến… đối tượng hỗ trợ là tất cả các hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã trên cả nước. Giao Liên minh Hợp tác xã Việt Nam quản lý và điều hành Quỹ Hỗ trợ phát triển hợp tác xã.



2. Kết quả triển khai chính sách đối với Quỹ Hỗ trợ phát triển hợp tác xã: Theo báo cáo từ Liên minh các hợp tác xã Việt Nam, hiện nay cả nước đã có 14 Quỹ được thành lập; hầu hết các Quỹ mới được thành lập trong năm 2009; quy mô vốn nhỏ (dưới 10 tỷ đồng) một số Quỹ chưa được tỉnh cấp vốn. Tuy nhiên, thông qua hoạt động của các Quỹ trong thời gian qua đã giúp các hợp tác xã khắc phục khó khăn về vốn, đẩy mạnh đầu tư phát triển sản xuất kinh doanh, tăng năng lực cạnh tranh, giải quyết công ăn việc làm, tăng thu nhập cho hàng vạn xã viên và người lao động.

3. Về kiến nghị của Đoàn đại biểu Quốc hội tỉnh Hà Giang:

- Theo báo cáo từ Liên minh Hợp tác xã Hà Giang, ngày 23/9/2009 Liên minh HTX tỉnh đã có Tờ trình số 18 TTr-LMHTX trình UBND tỉnh Hà Giang về chủ trương xin thành lập Quỹ Hỗ trợ phát triển Hợp tác xã tại tỉnh. Ngày 05/10/2009, UBND tỉnh Hà Giang đã có Thông báo số 123/TB-UBND thông báo kết luận phiên họp UBND tỉnh tháng 9/2009, theo đó: Căn cứ tình hình thực tế, UBND tỉnh chưa nhất trí thành lập Quỹ Hỗ trợ phát triển hợp tác xã tỉnh. Giao Liên minh HTX rà soát đánh giá tình hình và hiệu quả hoạt động của các HTX hiện nay; trên cơ sở đó đề xuất với tỉnh phương án, cơ chế chính sách mới để phát triển HTX trên địa bàn tỉnh.

- Hiện nay, không có văn bản pháp lý nào quy định các địa phương không được thành lập Quỹ Hỗ trợ phát triển hợp tác xã, việc huy động các nguồn lực tại địa phương để hỗ trợ phát triển khu vực hợp tác xã theo đúng chủ trương của Đảng và Nhà nước cần được ủng hộ, tuy nhiên cần tránh sự chồng chéo về chức năng, phân tán và lãng phí về nguồn lực, khi hình thành nhiều quỹ tại địa phương cho từng mục tiêu, từng lĩnh vực cụ thể. Vì vậy, đề nghị Liên minh hợp tác xã Hà Giang nghiên cứu, thực hiện.

64. Cử tri tỉnh Điện Biên kiến nghị: Theo quy định quỹ thi đua, khen thưởng từ 1-1,2% quỹ lương. Đối với UBND cấp huyện ngoài việc chi khen thưởng các đối tượng không nằm trong quỹ lương như tập thể, cá nhân công tác tại các Ban Đảng, Đoàn thể, các đơn vị lực lượng vũ trang nhân dân… Trong khi đó, ở một số ngành có quỹ lương lớn nhưng việc chi khen thưởng chiếm tỷ lệ nhỏ (như ngành Giáo dục). Đề nghị có quy định phù hợp trong việc giao kinh phí khen thưởng.

Trả lời: (Tại Công văn số 4149/BTC-NSNN ngày 06/4/2010)

Theo quy định tại Khoản 2 Điều 66 Nghị định số 121/2005/NĐ-CP ngày 30/9/2005 của Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Thi đua khen thưởng và Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật thi đua, khen thưởng; quy định tại Khoản b, Điểm 1, Mục II tại Thông tư số 73/2006/TT-BTC ngày 15/08/2006 của Bộ Tài chính hướng dẫn việc trích lập, quản lý và sử dụng quỹ thi đua, khen thưởng theo Nghị định số 121/2005/NĐ-CP ngày 30/9/2005 của Chính phủ: Căn cứ vào dự toán chi ngân sách nhà nước được cấp trên giao và mức trích lập Quỹ thi đua, khen thưởng quy định tại Khoản 2 Điều 66 Nghị định số 121/2005/NĐ-CP ngày 30/9/2005 của Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Thi đua khen thưởng và Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật thi đua, khen thưởng; Ủy ban Nhân dân các cấp ở địa phương trình Hội đồng Nhân dân cùng cấp quyết định dự toán chi ngân sách cho nhiệm vụ trích Quỹ thi đua, khen thưởng trong dự toán ngân sách hàng năm. Mức tối đa bằng 1% chi ngân sách thường xuyên của ngân sách cấp mình thuộc các tỉnh đồng bằng, thành phố và mức tối đa bằng 1,5% chi ngân sách thường xuyên của ngân sách cấp mình thuộc các tỉnh miền núi, trung du, Tây Nguyên, vùng sâu, vùng xa. Như vậy, đối với tỉnh Điện Biên, căn cứ kết quả thi đua, khen thưởng hàng năm và khả năng cân đối ngân sách, Chủ tịch Uỷ ban nhân dân các cấp quyết định phân bổ mức Quỹ thi đua, khen thưởng cho các đơn vị dự toán trực thuộc trong dự toán chi ngân sách nhà nước hàng năm cho phù hợp, tối đa bằng 1,5% chi ngân sách thường xuyên của ngân sách cấp mình.



65. Cử tri tỉnh Cao Bằng kiến nghị: Cử tri kiến nghị, thực hiện Luật Ngân sách sửa đổi năm 2009 và một số văn bản hướng dẫn dưới Luật tại địa phương còn nhiều bất cập, do một số nhiệm vụ chi thuộc trách nhiệm của địa phương, nên một số chế độ chính sách do Trung ương ban hành cử tri tại tỉnh được hưởng chưa kịp thời (ví dụ: phụ cấp đứng lớp của giáo viên được hưởng theo mức lương cơ bản 350.000đ và 450.000đ, trong khi mức lương cơ bản đã tăng lên 650.000đ từ tháng 5/2009; một số chế độ chính sách đối với cán bộ không chuyên trách tại xã, phường và thôn bản…), cử tri đề nghị Chính phủ xem xét, nghiên cứu và điều chỉnh lại để nhân dân các tỉnh khó khăn về thu ngân sách không bị thiệt thòi.

Trả lời: (Tại Công văn số 4235/BTC-NSNN ngày 074/2010)

Theo quy định tại Khoản 7 Điều 20 Luật Ngân sách nhà nước năm 2002, Chính phủ có nhiệm vụ: Quy định hoặc phân cấp cho các cơ quan nhà nước có thẩm quyền quy định các định mức phân bổ và các chế độ, tiêu chuẩn, định mức chi ngân sách nhà nước để làm căn cứ xây dựng, phân bổ và quản lý ngân sách nhà nước thực hiện thống nhất trong cả nước. Đối với các chính sách, chế độ do cơ quan Trung ương có thẩm quyền ban hành sẽ có các giải pháp thực hiện phù hợp. Thực hiện các quy định trên của Luật Ngân sách nhà nước, việc đảm bảo nguồn kinh phí thực hiện các nhiệm vụ này được quy định:

- Kinh phí đảm bảo chế độ đối với giáo viên và cán bộ quản lý giáo dục công tác tại vùng có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn (Nghị định số 61/2006/NĐ-CP ngày 20/6/2006 của Chính phủ) được tổng hợp nhu cầu tiền lương mới hàng năm; các địa phương sử dụng nguồn ngân sách địa phương theo quy định; ngân sách trung ương sẽ bổ sung phần còn thiếu để địa phương thực hiện.

- Đối với cán bộ không chuyên trách cấp xã, thôn, bản và tổ dân phố được thực hiện theo quy định tại Nghị định số 121/2003/NĐ-CP ngày 23/10/2003 và Nghị định số 92/2009/NĐ-CP ngày 22/10/2009 của Chính phủ về chức danh, số lượng, một số chế độ, chính sách đối với cán bộ, công chức ở xã, phường, thị trấn và những người hoạt động không chuyên trách ở cấp xã; mức phụ cấp cho các cán bộ không chuyên trách do Hội đồng nhân dân tỉnh quyết định nhưng tối đa không quá lương tối thiểu; ngân sách trung ương hỗ trợ bằng 2/3 lương tối thiểu.

Đối với các chế độ, chính sách nêu trên, sau khi có báo cáo nhu cầu và nguồn kinh phí thực hiện của Uỷ ban nhân dân tỉnh; Bộ Tài chính sẽ thẩm định, bổ sung phần kinh phí từ ngân sách trung ương cho ngân sách địa phương để địa phương thực hiện chế độ theo quy định (năm 2007: 118.012 triệu đồng để thực hiện cải cách tiền lương theo Nghị định số 93/2006/NĐ-CP và Nghị định số 94/2006/NĐ-CP; năm 2008: 307.727 triệu đồng để thực hiện chế độ phụ cấp, trợ cấp đối với giáo viên, cán bộ quản lý thị trường, cán bộ y tế từ 01/1/2004 đến 31/12/2007, thực hiện cải cách tiền lương theo Nghị định số 166/2007/NĐ-CP, Nghị định số 184/2007/NĐ-CP và một số chế độ phụ cấp khác; năm 2009: 218.327 triệu đồng để thực hiện cải cách tiền lương theo Nghị định số 33/2009/NĐ-CP, Nghị định số 34/2009/NĐ-CP, kinh phí thực hiện phụ cấp giáo viên, chế độ đối với cấp uỷ viên các cấp và một số chế độ khác).

Trường hợp, do chưa xác định được nhu cầu và nguồn kinh phí thực hiện cụ thể; Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh có văn bản đề nghị, Bộ Tài chính sẽ xem xét ứng trước kinh phí để tỉnh thực hiện chế độ được kịp thời như đã thực hiện trong thời gian qua.



66. Cử tri tỉnh Cao Bằng kiến nghị: Cử tri các xã nơi Đoàn đến tiếp xúc cử tri kiến nghị, Bộ Tài Chính và các Bộ, ngành ở Trung ương cần có mức quy định về kinh phí hợp lý để hỗ trợ cơ sở (xã, phường), trong công tác tuyên truyền, phố biến pháp luật để công tác tuyên truyền pháp luật thực hiện được sâu rộng và hiệu quả hơn.

Trả lời: (Tại Công văn số 4235/BTC-NSNN ngày 074/2010)

Theo quy định hiện hành công tác tuyên truyền, phổ biến, giới thiệu và kiểm tra việc thực hiện pháp luật do các cơ quan nhà nước các cấp có nhiệm vụ thực hiện theo quy định của pháp luật. Theo đó, kinh phí đảm bảo cho các cơ quan nhà nước thực hiện các nhiệm vụ trên được cân đối trong kinh phí hoạt động thường xuyên của cơ quan, đơn vị theo định mức phân bổ chi thường xuyên của ngân sách nhà nước. Đối với địa bàn thuộc Chương trình 135, giai đoạn 2006-2010 ngoài quy định chung còn được Ngân sách trung ương hỗ trợ thêm với mức 2 triệu đồng/xã và 0,5 triệu đồng/thôn để thực hiện trợ giúp pháp lý, nâng cao nhận thức pháp luật và hỗ trợ một số hoạt động tổ chức sinh hoạt câu lạc bộ trợ giúp pháp lý tại xã..., cụ thể năm 2010 ngân sách trung ương đã hỗ trợ các xã thuộc Chương trình 135 của Tỉnh là 292 triệu đồng.

Ngoài ra, ngày 25/01/2010 Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số 06/2010/QĐ-TTg về việc xây dựng, quản lý, khai thác Tủ sách Pháp luật. Trên cơ sở quy định chung, ngân sách trung ương sẽ bổ sung có mục tiêu cho các tỉnh chưa tự cân đối được ngân sách để giúp tỉnh hỗ trợ cho xã thực hiện việc xây dựng, quản lý, khai thác Tủ sách Pháp luật đảm bảo hiệu quả.

Đề nghị Uỷ ban nhân dân tỉnh căn cứ vào chế độ quy định và cân đối ngân sách địa phương, nguồn ngân sách trung ương hỗ trợ trình Hội đồng nhân dân đảm bảo kinh phí cho cán bộ, công chức được hưởng đúng chế độ của nhà nước và các xã có nguồn kinh phí hoạt động.



67. Cử tri tỉnh Cà Mau kiến nghị: Cử trỉ phả ánh Thông tư số 23/2007/TT-BTC ngày 21/3/2007 của Bộ Tài chính quy định về chế độ chi tiêu cho các cuộc hội nghị. Tại mục 6, chương II của Thông tư quy định:

- Cuộc họp cấp Trung ương, cấp tỉnh mức chi không quá 70.000đ/người/ngày.

- Cuộc họp cấp huyện mức chi không quá 50.000đ/người/ngày.

- Cuộc họp cấp xã mức cho không quá 20.000đ/người/ngày.

Quy định mức chi như thế là không công bằng vì nhu cầu về năng lượng hoạt động của mỗi đại biểu là như nhau. Cử tri đề nghị Bộ Tài chính điều chỉnh mức chi tiền ăn cho cuộc họp cấp xã bằng với mức chi tiền ăn cho cuộc họp cấp huyện.

Каталог: content -> vankien -> Lists -> DanhSachVanKien -> Attachments
Attachments -> KỲ HỌp thứ TÁm quốc hội khoá XII (20/10/2010 26/11/2010)
Attachments -> Đa dạng sinh họC Ở việt nam
Attachments -> PHẦn I các bộ, ngàNH, CƠ quan thuộc chính phủ trả LỜi cáC Ý kiếN, kiến nghị CỦa cử tri
Attachments -> CHÍnh phủ Số: 62/bc-cp cộng hòa xã HỘi chủ nghĩa việt nam độc lập Tự do Hạnh phúc Hà Nội, ngày 5 tháng 5 năm 2008 BÁo cáO
Attachments -> BỘ giao thông vận tảI 1/ Cử tri tỉnh Đắk Lắc kiến nghị
Attachments -> QUỐc hội khóa XI uỷ ban về các vấn đề xã hội
Attachments -> QUỐc hội số: CỘng hoà XÃ HỘi chủ nghĩa việt nam
Attachments -> 210/bc-btnmt cộng hoà XÃ HỘi chủ nghĩa việt nam
Attachments -> KỲ HỌp thứ TÁm quốc hội khoá XII (20/10/2010 26/11/2010) TẬp hợP Ý kiếN, kiến nghị CỦa cử tri
Attachments -> Ủy ban thưỜng vụ quốc hội số: 365/bc-ubtvqh12

tải về 3.53 Mb.

Chia sẻ với bạn bè của bạn:
1   2   3   4   5   6   7   8   9   10   ...   47




Cơ sở dữ liệu được bảo vệ bởi bản quyền ©hocday.com 2024
được sử dụng cho việc quản lý

    Quê hương