Thiên chúa giáo và tam giáO Đường Thi Trương Kỷ


Thiên-Nhân Tương Dữ là gì?



tải về 2.02 Mb.
trang25/31
Chuyển đổi dữ liệu29.07.2016
Kích2.02 Mb.
#9077
1   ...   21   22   23   24   25   26   27   28   ...   31

Thiên-Nhân Tương Dữ là gì?

Qua những lời trích dẫn trong Tứ Thư, Ngũ Kinh, ta nhận thấy, từ thời thượng cổ cho đến nay, dân chúng vẫn một lòng Tin vào Một Vị Chủ Tể hay Thượng Đế, vì Tình Thương vô cùng bao la và với một Ý Định mãnh liệt, đã tạo dựng nên vũ trụ và nhân loại. Do đó, muốn sống an vui, hạnh phúc, con người”linh ư vạn vật” cần phải phụng thờ, kính sợ và thuận theo Mệnh Lệnh của Trời

Ngoài ra, ta cũng thấy các bậc thánh nhân, hiền triết như Đức Khổng Tử, Mạnh Tử…đã dùng lý trí để suy luận về bản tính, bản thể siêu việt của Vị Chủ Tể toàn tri, toàn năng, toàn thiện mỹ, vượt trên những cách thế diễn tả thông thường của dân chúng. Cái Nguyên Lý tột đỉnh, tuyệt đối làm căn nguyên nguồn gốc của mọi sự tồn hữu của vạn vật, các triết gia gọi là, Thiên Lý, tức Lý Thái Cực, mà Bản Thể, Bản Tính của Lý đó là rộng lớn mênh mông vô hạn, chí linh, chí diệu, bao trùm vạn vật, chính là Vị Chủ Tể càn khôn. Học giả Trần Trọng Kim đã giải thích tư tưởng đó như sau:

Tự đời thượng cổ, người Tàu đã có tư tưởng cho người ta sinh ra ai cũng bẩm thụ cái tính của Trời. Cái tính ấy tức là một phần Thiên Lý. Vậy Trời với người quan hệ nhau rất mật thiết lắm.Bởi thế mới lấy pháp tắc tự nhiên của Trời làm mô phạm của người và cho Thiên luân là nhân luân, Thiên đạo là nhân đạo. Kinh Thi nói rằng:” Thiên sinh chưng dân, hữu vật hữu tắc, dân chi bỉnh di, hiếu thị ý đức” (Trời sinh ra dân, có hình phép, dân giữ tính thường, muốn có đức tốt).Trời sinh ra người, cho người có lòng muốn đức tốt, thì người phải lấy Trời làm gốc, phải kính Trời, sợ Trời, phải theo cái bản tính của Trời đã phú cho mà ăn ở cho hợp với đạo Trời (Nho Giáo, quyển I, trang 39-40).

Khi suy nghĩ về bản tính của nhân loại, các bậc hiền nhân quân tử, đặc biệt Mạnh Tử đã nhận thấy nhiều điều thiện hảo nơi tâm tính của con người:”Nhân chi sơ tính bản thiện”; vì thế, mới cho rằng chính Trời đã phú ban cho bản tính con người mối thiện tâm đó từ khi sinh ra, không phải tự mình mà có được. Do đó, mới có thuyết “Thiên -Nhân Tương dữ”, Trời và Người quan hệ với nhau, hay “Thiên Nhân hợp nhất”, vì chủ trương con người được Trời cho tham dự vào phần Thiên Lý. Để đối lại, con người cũng phải cư xử, hành động thế nào cho hợp với lẽ Trời.

Cùng một ý niệm như trên, vì chủ trương “nhân sự” phải thuận theo “Thiên Lý", nên Đức Khổng Tử và các thánh triết còn nói câu:” Thiên địa vạn vật nhất thể”. Ba thành ngữ hay cụm từ này có thể gây ra ngộ nhận, hiểu lầm vì cách thức giải thích và cách hiểu biết khác nhau. Thực ra, theo văn mạch và những lời giảng dạy, ghi chép trong Tứ Thư Ngũ Kinh, Đức Khổng Tử hay các vị Thánh Hiền như Mạnh Tử không bao giờ đặt nhân loại hay vạn sự vạn vật ngang hàng với Thiên, (Thiên Tính, Thiên Lý), vì Thiên hay Thượng Đế là Nguyên Lý Tuyệt Đối Siêu Việt trên hết mọi sự mọi loài. Vả lại, nếu tâm hồn con người được phần cao quý và thiện hảo thì chỉ do ân huệ của Trời phú bẩm cho mà thôi. Hơn nữa, Thiên là Tuyệt Đối, hằng hữu, trường tồn, còn nhân loại là loài thụ sinh, bẩm sinh, tương đối, nay còn mai mất thì làm sao có thể so sánh bình đẳng hay đồng đẳng được! Do đó, các thành ngữ đó chỉ là cách diễn tả, biểu lộ theo khuynh hướng tu đức thần bí (Mystic) mà ta vẫn gặp thấy nơi các nhà thần bí trong các tôn giáo. Bởi vậy, thiết tưởng đối với truyền thống chân chính của Khổng giáo, không nên hiểu hay giải nghĩa ý niệm trên theo nghĩa đa thần hay phiếm thần (pantheism ), cho rằng “Thiên-địa-nhân-cỏ-cây-động-vật…đều chung một bản thể hoàn toàn như nhau và quyền phép bằng nhau. Tuy nhiên, trong lịch các đạo giáo ở Trung Hoa hay ở Việt Nam, cũng có triết lý duy vật, duy lý, vô thần hay mê tín dị đoan, đồng hóa Vị Thượng Đế Chủ Tể với vạn sự vạn vật trong vũ trụ vào một khối duy nhất, nhưng đây không phải là niềm tin tưởng chính đáng chung của nhân dân, của các vị thánh vương và các thánh triết như Đức Khổng Tử và Mạnh Tử

Sách Trung Dung đã dùng chữ “Thiên Đạo” (Way of Heaven)để chỉ một cách bóng bảy Ý Chí của Trời hay Thiên Mệnh như một “Đạo” (Đường) vận hành không ngừng từ thuở đời đời, tạo nên sự quân bình hòa hợp trong vũ trụ thiên nhiên và ở nơi con người. Bởi vậy, muốn sống hạnh phúc an hòa trong cuộc đời, thì “nhân đạo” cũng phải phối hợp với “Thiên Đạo”. Trời sinh ra con người, đã khắc ghi vào Lương Tâm, Lương Tri của con người những qui tắc, giới răn có giá trị hằng cửu. Do đó, các nhà tu đức chỉ cần nhìn vào bản tâm, bản tính nguyên sơ, tinh tuyền của lòng mình, gạt bỏ mọi dục vọng làm lu mờ Lương Tâm trong sáng thuở ban sơ, gọi là “sơ tâm”, đơn sơ, tinh khiết như tâm hồn của một trẻ thơ, thì có thể dễ nhận ra Thiên lý và Thiên Đạo để noi theo.

- Mạnh Tử viết:” Bậc đại nhân mà không mất cái tâm đơn sơ như trẻ nhỏ (con đỏ)” (Đại nhân giã, bất thất kỳ xích tử chi tâm)



- Mạnh Tử viết:” Trong lòng mỗi người đã sẵn có lòng Trời rồi” (nhất nhân chi tâm, tức Thiên địa chi tâm)

- Trung Dung viết: “ Biết được lòng người, thì không thể không biết được Trời” (tư tri nhân, bất khả dĩ bất tri Thiên)

Vì Thiên Đạo và nhân đạo quan hệ với nhau, vì con người được Trời cho một phần Thiên tính, Thiên lý, nên nhờ tồn tâm dưỡng tính, và tu thân tích đức, con người có thể vươn lên cỗi Siêu Việt để nhận biết Trời:

- Mạnh Tử viết:” Thấu hiểu lòng mình, sẽ biết được bản tính của mình; biết được tính, thì cũng biết được Trời” (Tận kỳ tâm giả, tri kỳ tính dã, Tri kỳ tính, tắc tri Thiên hỹ).



d. Thờ Trời

Từ đời các Thánh Vương như vua Nghiêu, vua Thuấn, tín ngưỡng của nhân dân đặt trọng tâm vào lòng kính sợ Trời, luôn theo Mệnh Trời để được sống an hòa hạnh phúc, nên đã coi việc tôn thờ Trời,”Tế Trời” là điều thiết yếu. Do đó, mới lập ra các lễ nghi rất oai linh, chỉ định các vị chủ tế, sắm sửa các lễ vật quí giá và lễ phục trang nghiêm. Sách Lễ ký, (gồm cả Nhạc) đã qui định các luật lệ về tế tự, đặc biệt trong Lễ Tế Thiên. Chỉ nhà vua mới được tế Trời vì vua mệnh danh là ‘Thiên tử”, đại diện toàn dân và trực tiếp lĩnh Thiên Mệnh để cai quản quốc gia. Ngoài ra, còn nhiều lễ nghi để tế các vị thần khác, nhưng lòng tín ngưỡng quan trọng thứ hai là thờ kính Tổ Tiên. Bởi vậy, về tôn giáo ở Trung Hoa và Việt nam, chỉ có đạo Thờ Trời và đạo Hiếu, là quan trọng hơn cả.

_Sách Lễ ký nói:” Muôn vật gốc ở Trời, con người gốc ở tổ tiên” (Vạn vật bản hồ Thiên, nhân bản hồ Tổ)

_ Luận ngữ:” Người quân tử sợ Mệnh Trời” (quân tử uý Thiên Mệnh)

_Luận ngữ:” Đức Khổng Tử cầu nguyện từ lâu rồi (suốt đời)” (Khâu chi đảo cửu hỹ).

Qua câu tuyên bố ở trên, ta biết được ý kiến của Vị Thánh Sư về việc cầu nguyện lễ bái. Tại sao Đức Khổng Tử lại nói: Ngài đã cầu nguyện từ lâu rồi hay vẫn cầu nguyện suốt đời? Theo Ngài, việc tế tự hay cầu đảo không phải chỉ diễn ra khi ta cần cầu xin một ân huệ gì với Trời như xin ơn lành bệnh, nhưng cầu nguyện suốt đời không lúc nào ngưng có nghĩa là chung thân ta phải cố gắng thuận theo Ý Trời, Thiên Mệnh và thực hành những điều Nhân ,Nghĩa, Lễ, Trí, Tín. Bởi vì, nếu ta ăn ở bất nhân thất đức thì việc cầu đảo cũng là vô ích. Ngài nói:



Luận ngữ:” Phạm tội với Trời, thì còn cầu nguyện vào đâu được” (Hoạch tội ư Thiên, vô sở đảo giã)

Người xưa tin :”Sống gửi chết về” (sinh ký giã, tử qui giã), vì lẽ rằng: con người “linh ư vạn vật”, đã bẩm thụ một phần Thiên lý, Thần Linh chiêu minh sáng láng rực rỡ của Trời ban cho, nên sau một thời gian vắn vỏi sống tạm trên thế gian này, khi chết, hài cốt, thể phách chôn xuống đất dần dần tan nát đi, nhưng hồn thiêng, tức phần tinh anh của con người sẽ trở về với Trời, đặc biệt những bậc thánh nhân hiền đức sẽ được trở về với Trời nơi ánh sáng huy hoàng:

_ Sách Lễ ký:”Chết rồi, hài cốt chôn xuống đất dần dần tan đi, còn cái khí tinh anh thì lên khoảng không gian sáng rõ rực rỡ” (Tử tất qui thổ, cốt nhục tệ ư hạ, âm vi dã thổ, kỳ khí phát dương ư thượng vi chiêu minh)

Niềm tín ngưỡng ở một Vị Thượng Đế rất sâu xa, nên bất cứ công việc gì cũng phải làm theo Thiên Mệnh, Thiên Đạo và giữ tròn Đạo Hiếu đối với Tổ Tiên. Do đó, mới đặt ra chức quan gọi là Quan Chúc, chuyên lo về thiên sự, nghĩa là coi việc cầu nguyện, tế lễ, phúng điếu, soạn lịch. Quan Sử coi việc nhân sự, tức là ghi chép các công trình sự nghiệp của các đế vương đã thực hiện để lưu truyền cho hậu thế noi theo. Việc san định Tứ Thư Ngũ Kinh do các Quan Sử phụ trách. Đức Không Tử, tị tổ của Nho Giáo cũng thuộc giới Quan Sử.

Trong xã hội cổ Trung Hoa và Việt Nam cũng còn hai giới chức có ảnh hưởng liên quan đến đời sống tôn giáo và xã hội của dân chúng, đó là giới Nho sĩ và giới Vu- Hích( làm nghề thầy cúng, thầy pháp, đồng bóng, đồng cốt). Học giả Trần Trọng Kim đã đã giải thích địa vị và hoạt động của hai giới này, đại ý như sau (Coi Nho Giáo q. I, trang 45-48).

Như đã bàn luận ở trên, nhân dân và các vua quan kính và sợ Trời, luôn tìm hiểu Thiên Mệnh để tuân theo. Nhưng làm thế nào biết được Mệnh Trời để thi hành, đó là một điều rất khó! Các vị Thánh Vương, các nhà hiền triết, nhờ tu thân tích đức, tồn tâm dưỡng tính, trí tri cách vật, thông hiểu thiên văn địa lý, nhân tâm thế sự…thì mới hy vọng hiểu được phần nào Thiên Đạo để ứng dụng vào nhân đạo, thế sự. Còn đám bình dân vô học thức thì làm sao có thể hiểu được việc nhân sự ra sao để xử trí cho hợp với Ý Trời?

Do đó, trong xã hội, một giai cấp được trọng dụng là các Nho gia. Nho cũng đọc là Nhu, có nghĩa là “nhu- cầu,” là giới học thức uyên bác, rất được các vua quan, chư hầu và các nhà quyền quí trọng dụng, và cần thiết để hỏi ý kiến, nhất là trong những công việc hệ trọng về thiên sự và nhân sự. Giới Nho gia đã có từ lâu đời trước Đức Khổng Tử. Do đó, Ngài không phải là vị sáng lập ra Nho Giáo; ngài cũng là một nho gia và đã có công san định lại, rồi giải nghĩa những lời giáo huấn của các thánh hiền trong bộ Tứ Thư Ngũ Kinh.

Đối với đám dân chúng đông đảo, vì thiếu học thức, ít suy nghĩ, nên dễ tin theo các thầy cúng, thầy pháp. đồng bóng đồng cốt…, gọi là Vu-Hích. Học giả Trần Trọng Kim đã phê phán về giới này như sau:

Phàm người đời đã bị cực khổ mà lại học hành không có, việc hay dở không biết thế nào, tất là phải chìm đắm vào những điều mê hoặc, và tin những điều quái lạ. Vu là người con gái, hích là ngưồi con trai làm nghề đồng bóng, tức bọn đồng cốt, thầy cúng ,thầy pháp v.v lấy điều cát hung họa phúc, dùng những phương thuật huyền hoặc mà đánh lừa những người ngu dại, đem chuyện thần thánh ma quỉ mà dọa nạt người thường để làm nghề kiếm ăn” (Nho Giáo, q. I. trang 45).

Thế lực của bọn Vu Hích rất mạnh vì được dân chúng mê tín nghe theo. Bởi vậy, các đế vương đời trước đã đặt ra chức quan Tư vu để cai quản, sai khiến và ngăn chặn bọn vu hích không cho mê hoặc dân chúng, làm sai lạc niềm tín ngưỡng chân chính, chính đạo của toàn dân.

Nói tóm lại, từ thượng cổ cho đến ngày nay, trong khắp miền Đông Nam Á như Việt Nam, Trung Hoa, Đại Hàn, Nhật Bản,…. người ta vẫn nhận thấy hai luồng Tín Ngưỡng lớn mạnh nhất, bao trùm đời sống tâm linh tôn giáo và guồng máy cơ cấu tổ chức xã hội, gia đình, đó là đạo THỜ TRỜI và đạo HIẾU. Thật thế, tuy ngày nay không còn công khai “Tế Trời” như xưa, vì trong các nước không còn vị “Thiên tử” để đại diện toàn dân, nhưng trong thâm tâm của mỗi người, dầu thuộc bất cứ tôn giáo, khuynh hướng xã hội hay chính trị nào, theo truyền thống vẫn tiềm tàng, ấp ủ một niềm Tin bất diệt vào một Vị Chủ Tể lân ái, an bài mọi biến cố trong vũ trụ, quốc gia, trong lẽ điều hòa. Niềm Tin ở Trời và lòng yêu mến, tôn kính Tổ tiên đã in sâu vào tâm khảm mỗi người, nên khi vui mừng, nhất là khi gặp tai ương, hoạn nạn bất ngờ, không còn biết trông cậy vào ai, chỉ còn biết ngửa mặt lên trời mà thốt lên câu cầu cứu:” Trời ơi! “"Chúa ơi!”

3. Tác Phẩm “Thiên Chủ Thực Nghĩa” của Linh Mục Matteo Ricci (1552-1610)

Theo lịch sử, Thiên Chúa Giáo đã du nhập các nước Đông Nam Á như Ấn Độ, Trung Hoa,..rất sớm từ 578. Năm 635, vị tu sĩ thuộc giáo phái Nestorius( chết năm 451), tên là Alopen đã đến Tràng An( ngày nay là Tây an), thủ đô của Phật Giáo Trung Hoa đời nhà Đường. Nhà thám hiểm thời danh Marco Polo( nước Ý) đã đến giúp nhà Nguyên vào cuối thế kỉ 13, thuật lại những di tích lịch sử của Thiên Chúa giáo tại Trung Hoa mà ông đã tìm thấy như cây “Thánh Giá Khải Hoàn”, cây “Thánh Giá cắm vào Bông Sen"( tượng trưng của Phật Giáo) và nhiều ngôi mộ.

Năm 1514, những chiếc tàu buôn của Bồ đào nha bắt đầu xuất hiện trên bờ biển Đông Nam Á, mang theo một số Linh Mục làm tuyên uý cho các thủy thủ để giúp đỡ về tôn giáo như ban các bí tích. Năm 1532, Thánh Phanxicô Xavie đặt chân lên đất Phù Tang. Ngài đã tạ thế trên một hòn đảo thuộc hải phận Trung Quốc, ngày 3 tháng mười hai năm 1552, hưởng thọ 46 tuổi. Trước khi nhắm mắt từ giã cuộc đời, Ngài đã rất luyến tiếc chưa được dịp đặt chân lên đất Trung Hoa, nhưng tha thiết cầu xin cho việc truyền giáo tại đây trong tương lai sẽ gặt hái được nhiều kết quả

Năm Thánh Phanxicô Xavie qua đời, thì cũng là năm sinh của một nhà truyền giáo thời danh khác là Linh Mục Matteo Ricci. Ngài sinh tại Macerata, nước Ý. Trong thời niên thiếu, ngài được thụ giáo với nhà toán học lỗi lạc Christopher Clavius, bạn thân của các nhà bác học Kepler và nhà thiên văn học Galileo. Nhờ những kiến thức về khoa học như toán học, thiên văn, họa bản đồ, chế tạo đồng hồ…, nhà truyền giáo tài ba lỗi lạc này đã được các nhà cầm quyền Trung Hoa thời bấy giờ tiếp đón nồng hậu, ưu đãi. Sau 13 năm nghiên cứu và học chữ Hán, cha Ricci đã có thể dịch bộ Tứ Thư (Luận-ngữ, Mạnh tử, Đại học, Trung dung) sang tiếng Latinh. Nhờ thông thạo Hán văn, và thông hiểu tư tuởng của thánh hiền, cha Ricci đã trực tiếp trích dẫn những lời văn của Tứ Thư, Ngũ Kinh để trình bày và diễn giảng những giáo lý của Thiên Chúa Giáo, trong cuốn sách “Thiên Chủ Thực Nghĩa" mà cha đã biên sọan và xuất bản lần đầu, 200 cuốn tại Bắc Kinh, năm 1603.

Toàn bộ cuốn sách được chia ra làm hai Phần, gồm tám chương (chapters). Trong Phần I, tác giả đưa ra những chứng cớ về sự tồn hữu của Thiên Chúa và các phẩm tính của Đấng Tạo Thành vũ trụ càn khôn.(chương I); tiếp đến, tác giả dùng các bản văn trong Tứ Thư Ngũ Kinh của Nho Giáo cổ truyền trước đời nhà Tần (Tần Thuỷ Hoàng, 221-206 B.C.), để phê bình các quan niệm về “Vô” của Lão Trang, và “Không" của Phật học. Tác giả cũng dùng các phạm trù của triết lý Kinh viện như “Tự-lập-giả" (substantia) và “ỷ-lại-giả" (accidens), để phê phán quan niệm “Thái Cực"và “Lý” của Đạo-học-gia (Neo-Confucianism). Cha Ricci cũng đưa ra những lý lẽ tại sao chấp nhận dùng các danh xưng “Thiên” và “Thượng Đế” trong truyền thống tín ngưỡng Trung Hoa; và đặc biệt, để nhấn mạnh về tính chất “hữu ngã”, ngôi vị, ngài đã đặt ra danh xưng “THIÊN CHỦ" (Chương II). Trong Chương III và IV, tác giả đề cập đến quan niệm “Linh-Hồn"’ Hồn thiêng của con người khác với “hồn” của động vật (giác hồn) và của thảo mộc (sinh hồn). Tác giả cũng phi bác ý niệm về “vạn vật nhất thể”, hay “tam tài" (thiên-địa-nhân), cho rằng mọi loài trong vũ trụ, (kể cả Lý Thái Cực) đều chung một bản thể. Phần HAI, tác giả phê bình quan niệm của Phật Giáo về luân hồi, và về cấm sát-sinh (Chương V). Cha Ricci dùng bản văn trong Thư Kinh để minh chứng Linh hồn bất tử, sau khi chết, và công việc phước thiện sẽ được thưởng trên Thiên đàng; ý muốn, hành vi xấu sẽ bị luận phạt trong địa ngục (Chương VI). Tác giả cũng bàn đến bản tính của nhân loại, gồm điều tốt điều xấu, và bổn phận phải TU THÂN (Chương VII). Sau hết, Cha Ricci đề cập đến cách thức tu thân tu đức của giới tu sĩ Thiên Chúa Giáo và đời sống độc thân. Trong ít trang cuối sách, cha Ricci tóm lược “Lịch Sử Cứu Độ” trong Thiên Chúa Giáo do Thiên Chúa mặc khải cho những ai muốn xin lĩnh nhận Phép Rửa Tội. Dĩ nhiên, nếu ai tự ý muốn xin chịu Phép Rửa Tội thì còn cần học hỏi thêm nhiều điều giáo lý khác nữa.

Sau đây, chỉ xin chú trọng trình bày quan điểm và các nhận xét của cha Ricci về tín ngưỡng truyền thống của dân chúng Trung Hoa đối với “ĐẤNG THƯỢNG ĐẾ, hay “VỊ THIÊN”, đã được ghi chép như thế nào trong Thư-Kinh (tức là phần I, Chương I, II).

Do đó, sẽ bàn luận về ba điểm: a) Chủ đích và phương pháp của cha Ricci khi khởi thảo cuốn sách"Thiên Chúa Thực Nghĩa". b) Danh xưng: THIÊN CHỦ. c) Ảnh hưởng và những Thách Đố đối với tác phẩm thời danh đó. Xin lưu ý: (Các chú thích ở đây như số chương (chapter), số đoạn (paragraph divisions: 1-596), số trang…, ghi theo bản dịch ra Anh văn, tựa đề: "The True Meaning of The Lord of Heaven” do Douglas Lancashire and Peter Hu kuo-chen, S.J. The Institute of Jesuit Sources, St. Louis, 1985).

a. Chủ Đích Của Tác Phẩm

Năm 1583 Cha Matteo Ricci và Cha Michele Ruggieri đặt chân lên đất Trung hoa. Cha Ricci đã dùng chính sách “Hội Nhập Văn Hóa” để đối thoại với giới trí thức, tức là các nho gia. Ngài mặc phẩm phục của nho sĩ và coi mình như một “nho sĩ Tây Phương”. Vì cha Ricci muốn Thiên Chúa Gíao mặc bộ áo Trung Hoa, nên cha đã đàm đạo trực tiếp với giới lãnh đạo tinh thần, chính trị và văn hóa trong nước, hy vọng có thể cảm hóa họ để họ tìm hiểu giáo lý của Thiên Chúa Giáo và nhờ họ sẽ gây ảnh hưởng đến đại quần chúng. Cũng nên nhận xét ở đây: vì khi mới tiếp xúc với văn hóa Trung Hoa, cha Ricci đã học hỏi và phiên dịch Tứ Thư Ngũ Kinh, nên Cha hâm mộ “Nho Học Nguyên Thủy” đời Đức Khổng Tử, Mạnh Tử… hơn là Tân-Nho Học (Neo-Confucianism) theo Lý Học của Chu Đôn Di hay Tâm Học của Vương Dương Minh.

Thực vậy, khi nghiên cứu và phiên dịch các sách của thánh hiền, cha Ricci đã tìm thấy những điểm tương đồng, hòa hợp giữa tư tưởng của các Thánh Hiền và dân chúng Trung Hoa với niềm Tin Công Giáo, chẳng hạn như : Một Vị Thiên Chúa độc nhất trong vũ trụ, linh hồn bất tử, người lành được thưởng, kẻ dữ bị phạt, nhân chi sơ tính bản thiện…Đặc biệt, cha Ricci chú trọng đến quan niệm Tu Thân trong Nho Giáo, vì ngài cho rằng một người lương thiện suốt đời lo tu thân tích đức, cố gắng ăn ngay ở lành, thì thể nào cũng sẽ gặp được Thiên Chúa Chân Thật!

Cuốn sách “Thiên Chủ Thực Nghĩa” không phải là cuốn sách “giáo lý”, trình bày hết mọi đề tài trong Đạo Thiên Chúa, nhưng chỉ đề cập đến những vấn đề mà “Lương Tri” và Lý Trí tự nhiên của con người có thể tìm hiểu được. Do đó, các nhà bình phẩm gọi tác phẩm của cha Ricci là” Sách đối thoại Tiền-Phúc Âm"( pre-evangelical dialogue). Chủ đích của cha là để “ĐỐI THOẠI” vối các văn nhân, quân tử trong nền văn hóa Trung Quốc. Đây cũng là bước đầu của công trình “Hội nhập Văn hóa” giữa Thiên Chúa Giáo và các tôn giáo hoàn cầu. Bởi vậy, cha Ricci chỉ nêu ra những vấn đề mà các văn sĩ có thể dùng Lý Trí, Lý Lẽ để hiểu biết được, chẳng hạn như : tìm hiểu ý nghĩa của đời sống, tại sao sinh ra, sống làm gì, chết rồi đi đâu? hoặc vũ trụ này “tự nhiên” mà có, hay do Một Vị Hóa Công tạo thành? Trong mấy trang cuối cùng của cuốn sách, cha có đề cập đến một vài “mầu nhiệm” mà Thiên Chúa đã mặc khải cho loài người như: Chúa Cứu Thế là Con Thiên Chúa, Ngài giáng trần để cứu độ nhân lọai, Ngài Thăng Thiên để làm đấng trung gian môi giới giữa Thiên Chúa và nhân lọai. Sau đây, tôi xin trích và dịch từ nguyên bản Hán văn về việc dùng Lý Trí để tìm chân lý:



"Kim tử dục văn Thiên Chủ Giáo nguyên, tắc ngô trực trần thử LÝ dĩ đối, đả trượng Lý phẫu tích. Hoặc hữu dị luận, đương tất tích biện, vật dĩ đản ngã. Thử luận Thiên Chủ chính đạo công sự dã, bất khả dĩ tư tốn phế chi”. Dịch: Bây giờ, Quí vị nho gia muốn học biết các nguyên lý của giáo huấn về Thiên Chúa, thì tôi (Ricci) xin phân trần thẳng thắn các Lý lẽ để đối đáp, tôi chỉ dùng để phân tích mà thôi. Nếu quí vị nhận thấy điều gì khác lạ không chấp thuận thì xin cứ biện luận, nhưng xin đừng xuyên tạc. Vì chúng ta đang bàn luận về những nguyên lý có tính chất phổ quát về Thiên Chúa, nên tôi không thể vì sự khiêm tốn của cá nhân mình mà chối bỏ sự thật được. (Coi Thiên Chủ Thực Nghĩa, chương I, đoạn 19-27, trang 68-69).

b. Danh Xưng: Thiên Chủ

PHẦN MỘT, chương một, Cha Ricci bàn luận về Đấng Thượng Đế. Ngài dùng các lời của thánh hiền trong Nho Giáo trước đời nhà Tần (Tần Thủy Hoàng, 221-206 B.C), để dẫn chứng về sự hiện hữu của Một Đấng Tạo Thành vũ trụ càn khôn; Ngài cũng đề cập đến các phẩm tính của Đấng Tạo Hóa như: tạo dựng vũ trụ, tự hữu, vĩnh cửu, duy nhất… Ngài cũng tìm cách để phiên dịch các từ ngữ thần học của Thiên Chúa Giáo sang ngôn ngữ Trung Hoa. Đây là nhiệm vụ khó khăn nhất của một nhà truyền giáo là: làm thế nào để “Hội Nhập Phúc-Âm vào các nền văn hóa”, nhất là đối với một nền văn minh cựu trào như các dân tộc Á châu? Dùng danh xưng từ ngữ nào trong tiếng địa phương tương xứng, tương đương có khả năng chuyên chở được nội dung ý nghĩa thần học của Giáo lý? Mặt khác, danh xưng mới chế tạo ra, không quá ngây ngô, xa lạ, “lai căng” đối với dân bản xứ? Do đó, điều kiện quan trọng đòi hỏi nơi nhà truyền giáo và các nhà thần học là phải am hiểu, thông thạo cả Giáo Lý lẫn nền văn học, ngôn ngữ của nơi mình giảng đạo. Khó khăn này, ngày nay, vẫn luôn luôn đặt ra cho chúng ta.

Trong phần đầu của Đoạn IV này, đã giải thích ý nghĩa các danh xưng như: Đế, Thượng Đế, Thiên..vẫn được truyền tụng trong dân gian và trong Tứ Thư, Ngũ Kinh. Các nhà truyền giáo và cha Ricci đã phải học hỏi, suy nghĩ rất thận trọng trong việc lựa chọn một danh xưng thích hợp để phiên dịch từ ngữ Latinh DEUS(GOD) ra tiếng Hoa ngữ. Điều khó khăn này cũng đã gặp thấy ở Nhật Bản và Việt Nam. Có giải pháp dùng từ ngữ Latinh, rồi “âm” sang tiếng bản quốc, chẳng hạn: Deus, âm sang tiếng Nhật là:"Deusu”, sang Việt ngữ là “Dêu"(Chúa Dêu); Gratia(ân phúc), âm sang Nhật ngữ và Việt ngữ là"garasa"’ Kinh Kính Mừng cổ bằng tiếng Việt là: “Ave Maria, đầy garasa Chúa Dêu ở cùng Bà”… Giải pháp này có cái lợi là không sợ “danh xưng mới chế tạo" làm thay đổi nội dung, ý nghĩa trong thần học giáo lý. Nhưng có nguy cơ làm cho Thiên Chúa Giáo trở thành đạo ngoại lai, “đạo tây”, xa lạ với văn hóa ngôn ngữ dân tộc; ngoài ra, các tiếng “deusu”, hay “dêu" có nghĩa xấu, bất xứng trong ngôn ngữ bình dân! Hơn nữa, theo nhận định của một số thừa sai, sợ rằng dân chúng bản xứ có thể hiểu lầm, coi vị thần mang tên mới này (Chúa Dêu) là một vị thần mới của tây phương đem đến và khác với Vị Thiên hay Thượng Đế, hay Ông Trời mà họ vẫn tôn kính là Đấng Tạo Hóa. Một giải pháp khác, đã được các tu sĩ Phật Giáo (thế kỷ ba, bốn) dùng, khi khởi sự truyền đạo Phật từ Ấn Độ qua Trung Hoa. Đó là phương pháp gọi là “cách-nghĩa" (ko yi, ge yi; “A Short History of Chinese Philosophy”, by Fung Yu Lan, trang 242). Theo cách thức này, người ta dùng các danh từ và tư tưởng của Lão-Trang như “Vô”, “Vô Vi”, “Hữu”, Hữu Vi”,… để chuyển ý, hay giải thích bằng loại suy (interpretation by analogy), tức là một cách “tương tự”, những quan niệm của Phật Giáo Ấn Độ, vì người ta cho rằng: tư tưởng của Trang Tử gần giống lý thuyết của Phật học. Môn phái Thiền tông, Thiền học ở Trung Hoa được xây dựng theo phương pháp này. Do đó, Phật học đã đồng hóa, pha trộn với tư tưởng, văn hóa và đã phát triển tương quan với truyền thống Trung quốc. Phương pháp này có nguy cơ là làm sai lạc, xuyên tạc nội dung ý nghĩa của giáo lý của đạo” gốc”. Vả lại, muốn dùng phương thức này, cần phải thông thạo, và nghiên cứu tường tận triết học Trung Hoa thì mới có thể so sánh được. Nhưng đây cũng là một thách đố đối các nhà truyền giáo ngoại quốc, nếu thực sự muốn đem Đạo vào Đời, hay đem Phúc Âm Hội Nhập vào các nền văn hóa, văn minh của các dân tộc, theo gương Thánh Phao lô Tông đồ và Thánh Tôma Aquinô đã dùng ngôn ngữ và triết học Hy-lạp để giải thích Phúc Âm, khởi thủy đã mặc bộ áo của văn hóa Do thái giáo.

Sau khi phiên dịch Tứ Thư, Ngũ Kinh, cha Ricci và các linh mục Dòng Tên đã nhận thấy vết tích “hữu thần” trong tín ngưỡng của dân chúng Trung Hoa. Hai từ ngữ có thể dùng để phiên dịch danh từ “Deus"trong tiếng Latinh là “Thượng Đế”, và “Thiên”. Chữ Thượng Đế mang tính cách"hữu ngã”, bản vị, nhưng có nguy cơ là như muốn hoàn toàn đồng hóa về ý nghĩa giáo lý giữa Thiên Chúa Giáo và Khổng Giáo; vả lại, Lão Giáo bình dân cũng thờ vị thần tên là Thượng Đế. Nếu dùng chữ “Thiên” thì sợ ý nghĩa chữ này hàm hồ( có khi chỉ trời xanh) thiếu tính chất “hữu ngã”. Do đó, cha Ricci đã sáng chế ra chữ mới: ghép chữ Thiên với chữ Chủ thành ra: “THIÊN CHỦ”, (The Lord of Heaven) có ý chỉ Một Vị Chủ Tể “Hữu Ngã" (personal) cai trị muôn vật trên trời dưới đất trong vũ trụ. Danh xưng này vẫn còn truyền tụng và phổ thông cho đến ngày nay tại Trung Hoa và Việt nam. Ngoài ra, danh từ “Thượng Đế” cũng được dùng để chỉ Thiên Chúa. Cũng vì thế, Trung Hoa gọi Đạo của các thừa sai, đặc biệt của cha Ricci rao giảng là Thiên Chủ Giáo(Lưu ý: chữ Catholicism, catholic trong tự điển, cũng dịch là Thiên Chủ Giáo.)

Có thể vì chủ trương đem Đạo vào đời, vào Văn Hóa, vì muốn Phúc Âm “mặc bộ áo Trung Hoa”, nên cha Ricci và một số đồng nghiệp đã lựa chọn các danh từ phổ thông trong dân chúng, rồi “thanh tẩy” và ban cho chúng một nội dung thần học mới. Do đó, người ta không lấy làm lạ khi thấy cha Ricci dùng các danh từ đã phổ biến trong giới Phật tử để dịch những danh từ thần học trong sách Giáo Lý, chẳng hạn, như: Thiên đàng, Địa ngục, ma quỉ(mara) Thiên thần(deva), Linh Hồn. Danh từ “Thánh"cũng rất phổ thông trong Khổng Giáo để chỉ các bậc hiền nhân quân tử, như thánh hiền, thánh vương, là những người khôn ngoan thông thái, đạo đức(sage) Chữ “thánh” trong văn hóa Trung Hoa không chỉ sự thiêng liêng, cao cả của các bậc thần linh( deity). Trong thần học giáo lý công giáo, chữ “thánh”, có nghĩa là linh thiêng, thánh thiện( holy, saint, sacred), phản nghĩa với “thánh” là “tội nhân”, là “phàm tục" (profane). Cha Ricci đã ghép hai chữ"thánh” và “thần" (divinity) thành ra: "thánh thần”, một tĩnh tự để chỉ vị thánh hiền (sage). Sau này, Giáo lý Công Giáo dùng danh từ “Thánh Thần” để chỉ Ngôi Ba Thiên Chúa là Đức Chúa Thánh Thần, (Holy Spirit), trong khi giáo phái Tin Lành (Protestants) dịch là “Thánh Linh”. Từ thế kỷ 18, người thánh thiện được gọi là bậc"thánh nhân”, hay bậc “thần thánh”. Cha Ricci đã dùng chữ “thánh thần”, trong nguyên tác Hán văn như sau:

"Thế nhân tuy ‘thánh thần’, bất đắc dĩ Vô vật vi Hữu”, dịch nghĩa: Dầu là bậc thánh hiền nhất trong thế giới này, cũng không thể lấy “hư vô”, (không có gì hết) mà làm ra có cái gì được (sách dẫn chứng, đoạn số 72, trang 102).

Ngoài ra, cha Ricci đã phải sáng tác ra những danh từ mới để phiên dịch các danh từ và ý niệm của triết học và thần học Kinh Viện, chẳng hạn: cha dùng chữ kép "tự-lập-giả" để dịch chữ "substantia”, và chữ “ỷ lại giả” để dịch chữ “accidens”. Ngày nay, các học giả dùng danh từ “tự-lập-thể” và “ỷ-phụ-thể" (coi, như trên, đoạn số 83, trang 108).



Каталог: wp-content -> uploads -> downloads -> 2011
2011 -> CÔng đỒng vatican II qua bốn thập niêN
2011 -> TÒa giám mục xã ĐOÀi chỉ nam giáo phận vinh lưỢC ĐỒ TỔng quáT
2011 -> 1. phép lạ thánh thể ĐẦu tiên khoảng năm 700 Tại làng Lanciano, nước Ý (italy)
2011 -> Tác giả Võ Long Tê chưƠng I bối cảnh lịch sử
2011 -> LỊch sử truyền giáo tại việt nam quyển II lm. Nguyễn hồng chưƠng I: MỘt cha dòng têN Ở việt nam tới rôMA
2011 -> Các mẫu thức MẠc khải lm. Lê Công Đức
2011 -> Một lời nói đầu không phải là nơi nhiều chỗđể tóm lược lập luận của một cuốn sách cũng như định vị hoặc phát biểu về sựquan trọng của nó. Đây quả thực là một cuốn sách rất quan trọng
2011 -> LỜi giới thiệu suy tư ban đẦu về MẦu nhiệm giêSU
2011 -> Tu luật thánh biểN ĐỨc ngày 1 tháng 1

tải về 2.02 Mb.

Chia sẻ với bạn bè của bạn:
1   ...   21   22   23   24   25   26   27   28   ...   31




Cơ sở dữ liệu được bảo vệ bởi bản quyền ©hocday.com 2024
được sử dụng cho việc quản lý

    Quê hương