TƯ VẤn tâm lý CĂn bản lời giới thiệU



tải về 1.32 Mb.
trang17/18
Chuyển đổi dữ liệu22.04.2018
Kích1.32 Mb.
#37038
1   ...   10   11   12   13   14   15   16   17   18

ĐÔI NÉT LỊCH SỬ

Tư vấn tâm lý thật ra đã xuất hiện tri ra sum trong hầu hết mọi nền văn hóa khác nhau trên thế giới dưới hình thức đơn giản khi một cá nhân tìm kiếm những hướng dẫn từ một người khác. Tư vấn tâm lý trong bối cảnh hiện nay thật ra là một nghề chuyên nghiệp, và như thế tiền thân của nó bắt nguồn từ những giao lưu qua lại giữa những cá nhân trong cùng một môi trường chứ không phải từ ngành Y như tâm lý lâm sàng (clinical psychology). Tư vấn tâm lý vì thế tập trung chu yếu vào việc cung cấp những dịch vụ hướng dẫn và những lời chuyên nhằm giúp giải quyết những khó khăn bất đồng hoặc những hiểu lầm trong các quan hệ hàng ngày tại sở làm, trường học, và trong sinh hoạt gia đình. Những người làm công tác tư vấn tâm lý gọi người được giúp là “khách hàng” (client) trong khi bên tâm lý lâm sàng gọi người được giúp là "bệnh nhân" (patient).

Xuất phát từ bối cảnh này, người làm công tác cố vấn tâm lý đóng vai như là một "người giải quyết những khúc mắc", chuyên môn cung cấp những lời khuyên trực tiếp cũng như những hướng dẫn gián tiếp nhằm giúp "khách hàng" của mình để họ có được những quyết định thỏa đáng cho những khó khăn của họ. Khác với tư vấn tâm lý, tâm lý lâm sàng trực tiếp làm việc với "bệnh nhân" (patient) và thường thì những bệnh nhân này đòi hỏi thời gian điều trị dài hơn những "khách hàng" bên tư vấn tâm lý. Một điểm khác nhau giữa tư vấn tâm lý với tâm lý lâm sàng là bên tâm lý lâm sàng thường có quan hệ với một đội ngũ bác sĩ và y tá trong việc cung cấp dịch vụ sức khỏe tâm thần cho bệnh nhân.

Ở Hoa Kỳ, tư vấn tâm lý ban đầu được giới thiệu ngay sau Đệ nhị thế chiến khi Bộ cựu chiến binh Hoa Kỳ sử dụng khái niệm tư vấn tâm lý nhằm hướng dẫn cho những cựu quân nhân khi họ yêu cầu được bồi thường cho những thương tật và những khả năng lao động đã bị ảnh hưởng sau chiến tranh. Và từ đó Bộ cựu chiến binh đã chính thức đưa dịch vụ tư vấn tâm lý vào những văn phòng khu vực và những nhà thương trực thuộc Bộ cựu chiến binh Hoa Kỳ nhằm cung cấp cho những cựu quân nhân sớm khôi phục lại khả năng lao động và trở về với đời sống dân sự. Sau đó các trường đại học ở Hoa Kỳ cũng bắt đầu đưa vào trong khuôn viên chương trình đào tạo những dịch vụ tư vấn tâm lý nhằm giúp những sinh viên xác định được những chuyên ngành mà họ cảm thấy phù hợp với khả năng và sở thích của họ trong việc chọn nghề trong tương lai.

Theo thời gian, dịch vụ cung cấp tư vấn tâm lý càng ngày càng phát triển và hoàn thiện. Những chương trình đào tạo đội ngũ tư vấn tâm lý chuyên nghiệp được xây dựng chuẩn bị cho những người theo học ngành này có đủ kiến thức và chuyên môn để được cấp bằng hành nghề đã được ra đời. Ngành Tư vấn tâm lý đã trở thành một ngành có hệ thống rõ ràng, giống như ngành Tâm lý lâm sàng trong việc những người muốn hành nghề tư vấn tâm lý cần phải có giấp phép (license) hành nghề.

Vào năm 1976 thì tiểu bang Virginia là tiểu bang đầu tiên ban hành luật yêu cầu những ai làm công tác tư vấn tâm lý trong tiểu bang này phải được cấp bằng (hay là giấy phép) hành nghề. Đến năm 1979 thì tiểu bang Arkansas yêu cầu những ai hành nghề Tư vấn tâm lý phải có giấy phép của tiểu bang. Gân đây nhất là tiểu bang Hawaii bắt đầu yêu cầu người cung cấp dịch vụ tư vấn tâm lý phải có giấy phép hành nghề của tiểu bang. Trong tổng số năm mươi tiểu bang và những hạt trực thuộc Hoa Kỳ, hiện nay chỉ có tiểu bang California và tiểu bang Nevada là vẫn không yêu cầu người hành nghề Tư vấn tâm lý phải có giấy phép (license) của tiểu bang.

Năm 1952 bốn tổ chức độc lập có tên là: the National Vocational Guidance Association (NVGA), the National Association of Guidance and Counselor Trainer (NAGCT), the Student Personnel Association for Teacher Education (SPATD), và the American College Personnel Association (ACPA) sát nhập lại nhằm mạch đích tạo một tiếng nói có tầm quan trọng hơn trong lãnh vục chuyên môn này. Tổ chức mới ấy vào năm 1983 lấy tên mới là American Personnel and Guidance Association (APGA). Đến năm 1992, tổ chức này lại đối tên một lần nữa gọi là Hiệp hội cố vấn Hoa Kỳ - American Counseling Association (ACA) cho đến bây giờ. Tổ chức này cung cấp rất nhiều cho tất cả cố vấn tâm lý trên toàn Hoa Kỳ và ở năm mươi quốc gia khác nhau bao gồm cả châu Âu, châu Mỹ La Tinh, Phi Luật Tân và Virgin Island. ACA tập hợp gồm mười tám khu vực (division) và năm mươi sáu phân ngành chuyên môn (branch). ACA có nhiệm vụ chủ yếu là tạo ra một mạng lưới có hệ thống giúp các thành viên của ACA có điều kiện giao lưu và chia sẻ kinh nghiệm và thông tin thông qua những hội thảo chuyên đề, các chương trình bổ túc và nâng cao trình độ nghiệp vụ, cũng như việc phổ biến báo cáo nghiên cứu và những tài liệu chuyên ngành. ACA còn hoạt động với những nỗ lực như liên lạc với những tổ chức chính quyền khác với mục đích bảo vệ và ủng hộ những người làm công tác tư vấn tâm lý.

Năm 1982 một tổ chức độc lập và chức vô vị lợi có tên là Ban cấp chứng nhân cố vấn Quốc gia – National Board for Certified Counselor (NBCC) được thành lập với mục đích cung cấp những dịch vụ liên quan đến việc cấp chứng nhận cho những ai muốn có giấy chứng nhận mình là tư vấn tâm lý cấp quốc gia. Tuy nhiên giấy chứng nhận nói trên sẽ không bảo đảm cho người được cấp giấy chứng nhận được phép hành nghề cung cấp dịch vụ cố vấn tâm lý ở những tiểu bang. Mỗi một tiểu bang ở Hoa Kỳ có một ban đặc trách về việc cung cấp giấy phép (license) cho những ai đã đáp ứng được yêu cầu của các kỳ thi của những tiểu bang này. Nhiều tiểu bang đã sử dụng hoặc công nhận giấy chứng nhân được cấp bởi NBCC như là giấy phép hành nghề của tiểu bang học. Một vài tiểu bang yêu cầu cố vấn tâm lý xin đăng ký dự thi lấy giấy phép tiểu bang phải có giấy chứng nhận của NBCC trước. Nói tóm lại, chứng nhận của NBCC không phải sẽ được công nhận ở mọi tiểu bang. Nhiệm vụ của người muốn làm công tác tư vấn tâm lý ở từng tiểu bang là phải liên lạc với tiểu bang của họ về vấn đề giấp phép (license) hành nghề của tiểu bang, mặc dù họ đã có giấy chứng nhận (certification) của NBCC.

Vài dữ kiện thống kê gần đây nhầm nêu rõ hơn về vị trí của ngành Cố vấn tâm lý ở Hoa Kỳ, những tư liệu thống kê dưới đây được giới thiệu để bạn đọc có được một cái nhìn khái quát về nhu cầu của xã hội Hoa Kỳ về dịch vụ tư vấn tâm lý.

- Hơn 50% các cuộc hôn nhân ở Hoa Kỳ sẽ dẫn đến ly dị. Hoa Kỳ có tỷ lệ ly dị cao nhất trên thế giới và hiện có khoảng 19 triệu người ly dị.

- Nghiên cứu đã kết luận cố vấn tâm lý trước hôn nhân giúp giảm tỷ lệ ly dị. Ly dị có tác hại đến trẻ em về mặt phát triển tâm lý, bỏ học, và tự sát.

- Trẻ em sinh trưởng trong những gia đình bạo lực có 72%, cao hơn về tội phạm.

- Hàng năm Hoa Kỳ tiêu khoảng 3 đến 5 tỷ mỹ kim cho hậu quả liên quan đến bạo lực trong gia đình.

- Vào khoảng 4 đến 6 triệu vụ bạo lực tay chân trong các quan hệ tình cảm ở Hoa Kỳ.

- 50% các cặp vợ chồng bảo vệ được hôn nhân sau khi tìm đến dịch vụ cố vấn tâm lý.

- 3 đến 8% dân số Hoa Kỳ hiện đang đối diện với những lo lắng chung.

- 35 đến 40 triệu người dân Hoa Kỳ hiện nay sẽ mắc chứng bệnh chán nản toàn phần trong một lúc nào đó của cuộc đời của họ.

- 30 triệu đàn ông Hòa Kỳ hiện đang sống với chứng yếu sinh lý (sexual dysfunction).

- Một người dân Hoa Kỳ trung bình mắc nợ thẻ tín dụng với khoản 5.800 mỹ kim và nếu trả nhỏ giọt kéo dài sẽ mất 30 năm với số tiền lời là 15.000 mỹ kim.

- 96% dân số Hoa Kỳ khi về hưu sẽ phụ thuộc tài chính vào Chính phủ, gia đình và những tổ chức khác nhau.

- Hiện nay trẻ em Hoa Kỳ chứng kiến vào khoảng 12.000 cảnh giết người trước khi các em bước vào tuổi dậy thì.

- 1 trong 6 người mắc bệnh SIDA hoặc nhiễm vi rút HIV dương tính sống ở thành phố New York.

- Hoa Kỳ là quốc gia có tỷ lệ trẻ em nữ có thai cao nhất trong khu vực những nước công nghiệp phát triển phương Tây và tiêu vào ngân quỹ Hoa Kỳ hàng năm khoảng 7 tỷ mỹ kim.

- Các bà mẹ vị thành niên có nguy cơ không tốt nghiệp phổ thông trung học (chỉ có 33% các em này tốt nghiệp PTTH) và rất ít các em theo đuổi đại học (1.5% theo học đại học ở tuổi 30).

- 80% các bà mẹ vị thành niên phải dựa vào hệ thống phúc lợi công cộng. Gần 900.000 các em nữ vị thành niên có thai hàng năm và gần 35% các phụ nữ trẻ có thai trước khi họ được 20 tuổi.

- 5% tỷ lệ thất nghiệp ở Hoa Kỳ tính đến tháng 8 năm 2005.

- 3.2 triệu trẻ em là nạn nhân của ngược đãi trong gia đình về mặt thể lý, tâm lý, tình cảm, và bị hắt hủi.

- Chuyên viên nghề nghiệp ở Hoa Kỳ đề nghị xu hướng một người dân Hoa Kỳ trung bình sẽ thay đổi nghề nghiệp ít nhất là 7 lần trong đời.

- Thống kê cho biết 1 trong 3 người vô gia cư ở Hoa Kỳ là cựu quân nhân trong năm 1995 theo tổ chức GAO (General Accounting Office).

- Tư vấn tâm lý cho người nghiện ngập giúp nâng tỷ lệ có việc làm cao hơn 60%.

Khoảng 10% dân số Hoa Kỳ mắc chứng nghiện ngập thuốc phiện hoặc uống rượu và tệ nạn này lãng phí khoảng 300 tỷ mỹ kim trực tiếp cũng như gián tiếp.

- 1 trong 5 trẻ em có triệu chứng đủ để xếp các em vào diện trẻ có bệnh tâm thần (năm 2000).

- 90% các vụ tự sát trong lứa tuổi vị thành niên có liên hệ đến chứng bệnh chán nản (depression).

- Theo AARP (American Association of Retired Person) hiện có 1 triệu người dân Hoa Kỳ bước vào tuổi 60 cứ mỗi tháng là - 50% các cá nhân về hưu không được rõ ràng về dịch vụ cố vấn tâm lý.

Chỉ có 3% cá nhân về hưu được nhận dịch vụ cố vấn tâm lý và tâm lý lâm sàng.

- 45% dân số Hoa Kỳ sẽ là người già vào năm 2015.

- 2004 là năm chủ tịch ACA (American Counseling Association) được bầu là người đồng tính luyến ái công khai.

Việc đưa ra những con số cụ thể về những thống kê nhằm tạo nên nột bức tranh phản ánh tình hình xã hội hiện thực ở Hoa Kỳ. Nói khác đi những dữ kiện trên là những kêu gọi đánh thức tất cả những ai có trách nhiệm cần phải suy nghĩ. Đội ngũ các người làm công tác cố vấn tâm lý và những người trẻ có nhiệt tình quan tâm đến những khó khăn trong xã hội sẽ nhanh chóng đóng góp những cố gắng của mình. họ là những người nhận thấy trách nhiệm cũng như ảnh hưởng của họ trong việc đóng góp vào những cố gắng giám thiếu những khó khăn nhức nhối của xã hội luôn thay đổi rất đa dạng và phức tạp.



THÀNH PHẦN ĐỘI NGŨ NHỮNG NGƯỜI HOẠT ĐỘNG TRONG LĨNH VỰC TƯ VẤN TÂM LÝ

Tập thể những người làm công tác tư vấn tâm lý có hoàn cảnh lý lịch rất đa dạng. Hầu như trong đội ngũ những người hoạt động trong lĩnh vực này bao gồm đủ mọi màu da và tuổi tác. Họ là những người có tâm huyết với nghề và rất tự hào về những việc họ đã làm. Những người làm công tác cố vấn tâm lý được liệt vào ngành giúp đỡ chuyên nghiệp (helping profession). Người ta có thể bắt gặp những người làm công tác tư vấn tâm lý trong rất nhiều môi trường khác nhau, như trong các trường học, từ cấp tiểu học cho đến cấp đại học, trong bệnh viện, trong những trung tâm phục vụ phúc lợi công cộng của các cấp từ cấp thành phố cho đến cấp tiểu bang, trong những trung tâm của những tổ chức vô vị lợi, những trung tâm cộng đồng (community).

Vai trò của một tư vấn tâm lý rất đa dạng đối với một khách hàng. Với tư tưởng lợi ích của khách hàng là trên hết, người làm công tác tư vấn tâm lý thường đặt mình vào nhiều cương vị khác nhau như: một thầy giáo, một y tá, một người bạn, một người thân trong gia đình, một cố vấn, một người bịện hộ, một người mẹ, một người cha, một người hàng xóm. Nói tóm lại người cung cấp dịch vụ tâm lý phải linh động trong việc đáp ứng được những nhu cầu phức tạp khác nhau của từng khách hàng một.

Theo NBCC (National Board for Certified Counselors) thì hiện nay ở Hoa Kỳ có vào khoảng:

Tổng cộng những người được cấp chứng nhận NCC gồm: 39.805

Số được cấp chứng nhận cố vấn lâm sàng: 1.287

Số được cấp chứng nhận cố vấn nghề nghiệp: 695

Số được cấp chứng nhận cố vấn người nghiện: 685

Số được cấp chứng nhận cố vấn trong trường học: 2.036

Số được cấp chứng nhận cố vấn giành cho người già: 185

Theo ACA (American Counseling Association) thì hiện nay tố chức này có khoảng 52.000 thành viên hoạt động trên 50 quốc gia khác nhau.

NHỮNG YÊU CẦU CĂN BẢN ĐÀO TẠO MỘT TƯ VẤN TÂM LÝ

Vì lợi ích của khách hàng cũng như để nâng cao nghiệp vụ chuyên môn của ngành Tư vấn tâm lý, người muốn tham gia đội ngũ tư vấn tâm lý ở Hoa Kỳ được yêu cầu trải qua khóa đào tạo và phải có sự chuẩn bị cẩn thận. Những trường đại học có mở khóa đào tạo bốn năm hoặc có chương trình đào tạo cử nhân sáu năm (Master's degree) thường đều có chương trình đào tạo tư vấn tâm lý. Trong bài viết này những yêu cầu căn bản đế được cấp giấy chứng nhận cấp quốc gia NCC (National Certified Counselor) do NBCC cấp hoặc giấy phép hành nghề được cấp bởi tiểu bang (license) sẽ được giới thiệu dưới đây. Người muốn nộp đơn xin được cấp chứng nhận bởi NBCC hoặc xin bằng hành nghề cung cấp dịch vụ tư vấn tâm lý phải có bằng cử nhân đại học sáu năm (Master'degree) với các bộ môn bắt buộc phải có như sau:



a. Chương trình học bao gồm tám lĩnh vực:

1. Quá trình sinh trưởng và phát triển của con người (Human Growth and Development).

2. Kiến thức nền tảng về xã hội và văn hóa (Social and Cultural Foundationa).

3. Quan hệ giữa người cung cấp và người nhận dịch vụ cố vấn tâm lý (Helping Relationtionships).

4. Cố vấn cho nhóm (Group Works).

5. Kiến thức quá trình phát triển về nghề nghiệp và đời sống (Career and Lifetsyle Development).

6. Đánh giá (Apraisal).

7. Nghiên cứu và đánh giá những chương trình cố vấn tâm lý (Research and Program Evaluation).

8. Tính chuyên nghiệp và đạo đức trong công tác cố vấn tâm lý (Professional Orientation and Ethics).

b. Chương trình học bao gồm năm nhóm hoạt động trong công tác chuyên ngành:

1. Tư vấn căn bản (Fundamentals of Counseling).

2. Đánh giá và tư vấn nghề nghiệp (Assessment and Career Counseling).

3. Cố vấn cho nhóm (Group counseling).

4. Các chương trình và can thiệp lâm sàng (Programmatic and Clinical Intervention).

5. Những vấn đề trong thực hành chuyên nghiệp (Professional Practice Issues).

Thông thường thì chương trình đào tạo gồm bốn năm đại học và thêm hai năm hậu đại học. Cộng thêm hai năm thực tập dưới sự giám sát của những người có kinh nghiệm. Tất cả trước sau một người muốn theo học để trở thành tư vấn tâm lý sẽ mất tám năm đào tạo. Bài thi do NBCC cung cấp để cấp chứng nhận bao gồm 200 câu hỏi trắc nghiệm với thời gian làm bài là bốn giờ đồng hồ. Người dự thi nếu có yêu cầu đặc biệt vì những lý do hạn chế khác nhau sẽ được giúp đỡ, chẳng hạn như sử dụng tự điển hoặc xin kéo dài thời gian làm bài.

Nhiều tiểu bang sử dụng kết quả của NBCC như kết quả chính thức trong việc cấp giấy phép hành nghề (license).



TRÁCH NHIỆM VÀ HƯỚNG DẪN CHUNG

Vì tầm quan trọng của quan hệ giữa người cung cấp và người nhận dịch vụ cố vấn tâm lý, Hiệp hội tư vấn Hoa Kỳ (ACA) và Ban cấp chứng nhận tư vấn Quốc Gia (NBCC) đều có riêng một bản điều lệ (Codes of ethics) nhằm cung cấp những hướng dẫn cơ bản cho đội ngũ nhân viên chuyên cung cấp dịch vụ tư vấn tâm lý. Vì bản điều lệ của hai tổ chức nói trên đều có những điểm chung với khá nhiều phần gối lên nhau, bản điều lệ của NBCC sẽ được chọn trình bày như một tài liệu tham khảo trong bài viết này. Bản điều lệ của NBCC được soạn ra nhằm nâng cao chất lượng của ngành và thúc đẩy đội ngũ cố vấn tâm lý trong việc duy trì giá trị của ngành. Bản điều lệ cũng cung cấp cho xã hội những bảo đảm về chất lượng của ngành. Bản điều lệ mong rằng sẽ giúp nâng cao tính chuyên nghiệp của ngành tư vấn tâm lý và khuyến khích tính năng động trong cương vị lãnh đạo của các thành viên trong ngành tư vấn tâm lý.



PHẦN A
NHỮNG HƯỚNG DẪN CHUNG

- Mọi thành viên phải luôn cố gắng cập nhật nghiệp vụ của mình.

- Có trách nhiệm nghề nghiệp với khách hàng cũng như với cơ quan chủ quản của mình. Trong trường hợp có sự bất đồng quan điểm với cơ quan chủ quản nên xin thuyên chuyển hoặc nghỉ việc.

- Tinh thần đạo đức nghề nghiệp được đề cao trong mọi hoàn cảnh và mọi lúc.

- Không cung cấp dịch vụ ngoài luồng hoặc trao đổi dịch vụ cố vấn tâm lý với những dịch vụ khác cung cấp bởi khách hàng.

- Giá biểu dịch vụ nên hợp lý và phù hợp với những hoàn cảnh đặc biệt.

- Chỉ cung cấp dịch vụ tâm lý nằm trong chuyên môn mà mình được đào tạo.

- Có trách nhiệm về việc thu thập những tin tốt cập nhật liên quan đến ngành.

- Luôn cảnh giác về những quan hệ tình cảm nam nữ với khách hàng.

- Không được quan hệ tình cảm với khách hàng, nếu cảm thấy cần thiết, nên liên lạc với những cố vấn tâm lý khác để giải quyết dứt điểm về vấn đề này.

- Quan hệ tình cảm nam nữ chỉ được phép thiết lập sau khi chấm dứt cung cấp dịch vụ tư vấn tâm lý cho khách hàng ít nhất là hai năm.

- Không được ủng hộ hoặc tham gia vào những vụ sách nhiễu tình dục.

- Không được có những thiên kiến, phân biệt trong cách đối xử với những khách hàng về màu da, giới tính, tôn giáo, tuổi tác, quốc tịch, khả năng lao động.

- Luôn chịu trách nhiệm về tất cả những hành động trong và ngoài nghề nghiệp của mình.

- Luôn giữ kín mọi thông tin của khách hàng và giới truyền thông và tất cả những người khác khi khách hàng không đồng ý hoặc chưa cho phép.

- Tự giác thôi nghề nếu cảm thấy mình không đủ khả năng chuyên môn nghiệp vụ.



PHẦN B
QUAN HỆ TRONG DỊCH VỤ TƯ VẤN TÂM LÝ

- Tôn trọng và luôn đặt lợi ích cửa khách hàng lên hàng đầu.

- Tôn trọng và cộng tác với những thành viên tư vấn khác, tránh trường hợp một khách hàng nhận dịch vụ cố vấn tâm lý từ hai thành viên khác nhau.

- Khi một thành viên chủ động muốn thảo luận nghiệp vụ với một thành viên khác, khách hàng phải được thông báo về vấn đề này nếu cuộc thảo luận có liên quan đến khách hàng.

- Khi thành viên tư vấn biết sẽ có những nguy hiểm xảy ra cho khách hàng hoặc cho bất cứ ai, thành viên có trách nhiệm báo cáo với cơ quan chức năng có thẩm quyền.

- Thành viên có trách nhiệm thông báo cho khách hàng về trách nhiệm của những hành động của cá nhân họ.

- Những thông tin về dịch tư cố vấn tâm lý dưới mọi hình thức (giấy tờ, băng hình, băng ghi âm, báo cáo) đều phải được bảo quản cẩn thận và chỉ những ai có trách nhiệm mới được tiếp cận, đồng thời những thông tin phải chính xác. Khi tòa án có yêu cầu giao nộp những tài liệu liên quan đến khách hàng, thành viên có trách nhiệm phải tận dụng mọi phương tiện để tránh gửi tài liệu đi hoặc kéo dài thời gian nộp tài liệu, trong khi đó thành viên sẽ thông báo cho khách hàng biết với thời gian ngắn nhất. Tài liệu phải được bảo quản trong thời hạn năm năm sau khi chấm dứt cung cấp dịch vụ cố vấn, kể cả trường hợp khi khách hàng bị chết.

- Tài liệu lưu trữ trong máy vi tính hoặc băng hình, băng ghi âm phải được báo quản cẩn thận. Khi tài liệu đã không còn được sử dụng phải được hủy bỏ.

- Tài liệu của một khách hàng nếu được sử dụng như tư liệu giảng dạy phải được thay đổi để danh tánh của khách hàng không được nhận diện. Nếu không thay đổi được, khách hàng sẽ là người có quyền cho phép tư liệu đó được sử dụng hay không.

- Khách hàng có quyền được biết về mục đích tư vấn, kế hoạch tư vấn, kỹ thuật tư vấn, thủ tục tư vấn, những hạn chế và những tác hại có thể xảy ra cũng như lợi ích ủa dịch vụ tư vấn tâm lý. Khách hàng có quyền được nghe giải thích về những thủ tục đánh giá xét nghiệm cũng như báo cáo của những đánh giá xét nghiệm này. Thành viên có trách nhiệm thông báo cho khách hàng biết về mô hình ung cấp dịch vụ và những cảnh báo cần thiết về an toàn ho khách hàng.

- Thành viên có nhiệm vụ giải thích về lịch trả lệ phí cũng như hình thức trả lệ phí.

- Thành viên sẽ không cung cấp dịch vụ tư vấn tâm lý cho thực tập sinh tư vấn, trừ những trường hợp đặc biệt vì không có dịch vụ tư vấn tâm lý nào gần đó.

- Khi thành viên nhận thấy mình không đủ điều kiện giúp đỡ một khách hàng trong công tác tư vấn, thành viên sẽ giải thích và đề nghị với khách hàng về những phương án khác, trước khi thành viên tự động chấm dứt cung cấp dịch vụ tư vấn tâm lý cho khách hàng. Thành viên phải có kiến thức về thủ tục giới thiệu khách hàng đến những dịch vụ tư vấn khác để quá trình chuyển tiếp sẽ đạt hiệu quả cao hơn. Khi khách hàng từ chối thuyên chuyển dịch vụ, thành viên không bắt buộc phải duy trì cung cấp dịch vụ tâm lý.

- Khi dịch vụ tâm lý chỉ yêu cầu thời gian ngắn hạn để xử lý, thành viên sẽ có trách nhiệm cung cấp và giới thiệu trợ giúp chuyên nghiệp sẵn sàng với lệ phí phải chăng khi khách hàng có nhu cầu cần dịch vụ tư vấn trong tương lai.

- Thành viên sẽ cung cấp cho khách hàng những thông tin về địa điểm văn phòng của mình nếu như việc cung cấp dịch vụ tâm lý sử dụng phương tiện điện thoại hoặc điện tử.

- Thành viên phải có đầy đủ giấy tờ liên quan cho phép mình cung cấp dịch vụ cố vấn qua điện thoại và điện tử.

- Khi sử dụng máy vi tính trong công tác cung cấp dịch vụ tư vấn tâm lý, thành viên phải nắm vững những quy tắc bảo vệ tài liệu cũng như chỉ sử dụng những chương trình ứng dụng phù hợp với điều kiện của khách hàng. Các bộ đánh giá (measurement instrument) hoặc những phương tiện đánh giá phải phù hợp với trình độ và khả năng của khách hàng.

- Khi thành viên có những chương trình ứng dụng riêng cho máy vi tính, thành viên phải có những sổ tay hướng dẫn thích hợp cho việc sử dụng những chương trình ứng dụng này.

- Khi cung cấp dịch vụ tư vấn tâm lý cho nhóm, thành viên cần nhấn mạnh với mọi khách hàng trong nhóm về việc giữ kín những thông tin được trao đổi với khả năng cao nhất của từng nhóm viên. Thành viên không thể bảo đảm cho những thông tin được giữ kín giữa những nhóm viên, nhưng thành viên có thể bảo đảm thông tin sẽ được giữ kín trong trách nhiệm của thành viên tư vấn.

- Thành viên khi chọn ứng viên cho một nhóm phải cân nhắc xem các ứng viên có tương đồng với nhau trên nhiều phương diện khác nhau để nhóm đạt được hiệu quả cao.


KẾT LUẬN

Tư vấn tâm lý là một ngành giúp đỡ chuyên nghiệp (helping profession) hoạt động rất rộng rãi ở Hoa Kỳ. Có thể nói hầu như tất cả mọi người sinh trưởng và lớn lên ở Hoa Kỳ đều có ít nhiều kinh nghiệm với dịch vụ tư vấn tâm lý. Cuộc sống xã hội luôn đặt ra những yêu cầu rất cấp bách nhất là từ khi vận tốc phát triển của khoa học và kỹ thuật vượt bậc. Xã hội Hoa Kỳ đã hơn bất cứ lúc nào trong lịch sử của mình phải đương đầu với những vấn đề nóng bỏng của giai đoạn lịch sử hiện tại. Nhiều thay đổi liên tục trong lĩnh vực giáo dục, nghề nghiệp và nhất là cấu trúc đơn vị gia đình trong xã hội Hoa Kỳ ngày càng trở nên phân hóa sâu sắc hơn. Khi phải chạy đua với những đòi hỏi thay đổi liên tục, nhiều kỹ năng và kinh nghiệm trong quá khứ đã không còn thích hợp và hoàn cảnh thực tế hôm nay. Nhiều cá nhân khi đương đầu với những thay đổi đã không tránh khỏi những khó khăn trong việc tạo ra những quyết định. Hơn lúc nào hết, khi nền kinh tế Hoa Kỳ đang chuyển nhanh từ kinh tế sản xuất sang kinh tế dịch vụ, những kỹ năng đòi hỏi cho một thế hệ nghề nghiệp mới với những quan hệ xã hội cũng vì thế mà trở nên vô cùng đa dạng và phức tạp. Ngành tư vấn tâm lý sẽ đóng vai trò quan trọng trong việc giúp những thành viên trong xã hội có được những tư duy tích cực cũng như được trang bị những kỹ năng giao tiếp cần thiết để việc tiếp xúc hàng ngày được hiệu quả hơn. Ngành Tư vấn tâm lý ở Hoa Kỳ ngoài chức năng hoạt động nhằm nâng cao chất lượng sinh hoạt của từng cá nhân, ngành này còn tích cực tham gia với những ngành khoa học xã hội khác đem lại những cải thiện cần thiết đối phó với những vấn đề trăn trở chung của xã hội. Như thế những người làm công tác tư vấn tâm lý không chỉ cần có kiến thức chuyên môn mà phải có một tinh thần trách nhiệm phục vụ rất cao. Một điều đáng khích lệ là những người làm công tác tư vấn tâm lý ở Hoa Kỳ không chỉ vui vẻ với thành quả lao động của mình qua mức lương nghề nghiệp mà họ còn tìm thấy những phần thưởng giá trị khác. Các nhà cung cấp dịch vụ tư vấn tâm lý tìm thấy ý nghĩa cao cả của nghề này khi họ trông thấy khách hàng có một cuộc sống vui tươi và lành mạnh hơn. Và với họ, đó mới thật sự là phần thưởng cao quý của nghề chuyên môn này.



TÀI LIỆU THAM KHẢO

Counseling A Comprehenslve Profession, S. T. Gladding (2000). Printice-Hall Inc. Upper Saddle River, NJ 07458

Hội Thảo Khoa Học Quốc Gia - Tư Vấn Tâm Lý - Giáo Dục Lí Luận, Thực Tiễn và Định Hướng Phát Triển, Kỷ Yếu. (2006) Hội Khoa học Tâm lý - Giáo dục Việt Nam. TP. HCM

Từ điển Tâm Lý Lâm Sàng, BS. Lê Văn Luyện, TS, BS Nguyễn Văn Siêm, GS. BS Phạm Kim. (2002). NXB Thế Giới - Trung Tâm Nghiên Cứu Tâm Lý Trẻ Em. Hà Nội.

Từ điển Y Học Anh-Việt, BS Phạm Ngọc Tri. (2004). NXB Y học

Thư của Chủ tịch Hội các Khoa học Tâm lý - Giáo dục Việt Nam, GS. Phạm Minh Hạc (2006). Hội thảo Khoa học Tâm lý - Giáo dục thành phố Hồ Chí Minh.

www.counseling.com

+ www.ship.edu (2005)

+ www.nbcc.org (2005)

+ www.counseling.org (2005)

+ www.boyceco.com (2005)

+ National Institution of Mental Health

www.nimh.nih.org (2005)

+ Center for Disease Control and Prevention www.cdc.org (2005)

www.cdc.org

+ General Accounting Office www.notbored.org (2005)

+ www.aarp.org (2005)



tải về 1.32 Mb.

Chia sẻ với bạn bè của bạn:
1   ...   10   11   12   13   14   15   16   17   18




Cơ sở dữ liệu được bảo vệ bởi bản quyền ©hocday.com 2024
được sử dụng cho việc quản lý

    Quê hương