TƯ VẤn tâm lý CĂn bản lời giới thiệU



tải về 1.32 Mb.
trang1/18
Chuyển đổi dữ liệu22.04.2018
Kích1.32 Mb.
#37038
  1   2   3   4   5   6   7   8   9   ...   18
TƯ VẤN TÂM LÝ CĂN BẢN
LỜI GIỚI THIỆU

Tôi rất vui lòng viết lời giới thiệu cho cuốn sách TƯ VẤN TÂM LÝ CĂN BẢN của Nguyễn Thơ Sinh. Tôi với Sinh quen nhau trên mạng điện tử: biết tôi ở trong Hội Khoa học Tâm lý – Giáo dục Việt Nam (ở dưới gọi là Hội), Sinh gởi email cho tôi; tôi nhận thấy anh quan tâm đến Tâm lý học và Giáo dục học nước nhà và chúng tôi đã có nhiều cuộc trao đổi với nhau. Như vậy là cuộc làm quen có chủ đích, chứ không phải ngẫu nhiên: hai người đều có lòng nhiệt tâm với nền khoa học này của nước nhà. Cuối năm 2005 đầu năm 2006, Hội có cuộc Hội thảo về Tư vấn tâm lý tổ chức ở thành phố Hồ Chí Minh. Tôi báo tin này và mời Sinh về tham dự, anh nhận lời với cả một báo cáo Khoa học dài đến hơn 20 trang giấy khổ A4.

… Sau đó tôi bảo anh: Nếu đúng là vấn đề anh quan tâm, và nếu có điều kiện, anh nên viết một cuốn sách về tư vấn tâm lý. Kết quả đến quá nhanh, hôm nay mới giữa tháng 8 năm 2006, tức là trong có vài tháng, cuốn sách đã viết xong, dày tới gần 300 trang. Theo tôi, đây là một cuốn sách đầu tiên bằng tiếng Việt về tư vấn tâm lý. Tất nhiên, mới là đề cập đến những vấn đề cơ bản. Nhưng cũng có thể nói ngay rằng chữ “cơ bản” ở đây không phải chỉ là các vấn đề lý luận cơ bản mà phần lớn lại là các (hay một số) vấn đề thực hành cơ bản - đúng là cái chúng ta đang cần, cần biết cả lý thuyết cơ bản nhưng rất cần biết những điều chỉ dẫn tiến hành công việc tư vấn, từ mở đầu đến kết thúc một cuộc (có thể nhiều buổi) tư vấn tâm lý.

Thật vậy, các bạn thấy tác giả đã trình bày sự vận dụng một loạt học thuyết (lý thuyết) tâm lý vào công việc tư vấn tâm lý: từ học thuyết Freud rồi Anna Freud (con gái của Freud); thuyết tâm lý học phân cách của Adler, Roger, thuyết hiện sinh của May và Frankl trong tâm lý học; tiếp theo là tâm lý học hành vi, tâm lý học hình thái, thuyết nhận thức trị liệu, thuyết hệ thống gia đình của Bower, v.v. Phần nhiều các lí thuyết này đã được giới thiệu ở ta, nhưng đều ở tâm lý học đại cương, lịch sử tâm lý học, nhập môn tâm lý học. Còn ở đây mỗi thuyết chỉ trình bày rất tóm tắt, có khi chỉ trong vài dòng, phần lớn dành nói về lý thuyết này tiến hành công việc tư vấn tâm lý như thế nào? Cuốn sách này thật sự có ý nghĩa rất thiết thực cho những nhà tư vấn tâm lý, và cả các cán bộ giảng dạy, nghiên cứu tâm lý xem cũng rất bổ ích.

Ý nghĩa thiết thực của cuốn sách còn được thể hiện rất rõ trong tất cả các loại hình tư vấn tâm lý được đề cập ở trong sách, như tư vấn tâm lý về sức khỏe tâm thần, các dạng bệnh lý, trong đó có Stress khác: các vấn đề này ngày càng đi vào công nghiệp và hiện đại càng nảy sinh nhiều; tư vấn hôn nhân mà hiện nay đang chiếm tỷ trọng hàng đầu trong các cuộc tư vấn tâm lý ở ta; tư vấn gia đình cũng là một phạm vi ngày càng bức xúc hơn; tư vấn nghề nghiệp, tư vấn học đường… là những lĩnh vực rất cần quan tâm và phải mau chóng tăng cường. Các bạn còn thấy có cả tư vấn tâm lý cho người bị ma tuý nên làm những gì. Đúng là những cái chúng ta đang cần.

Trong tất cả các loại hình tư vấn tâm lí được đề cập trong cuốn sách này đều nêu rất cụ thể các công việc mà người tư vấn phải làm. Tôi đặc biệt thích thú với các mục giới thiệu kỹ năng tư vấn như:

 Kỹ năng thuyết phục,

 Kỹ năng đồng cảm,

 Kỹ năng chia sẻ,

 Kỹ năng kịp thời,

 Kỹ năng hài hước,

 Kỹ năng hợp đồng, v.v…

Mặt khác, cuốn sách nói trong tư vấn tâm lý có 3 yếu tố quan trọng là: (1) tính chuyên nghiệp, (2) sức thu hút thấp dẫn, (3) được hỏi tên. Công việc gì đề cập trong sách đều đưa ra quy trình, từ làm một bản hợp đồng như thế nào? cách giải quyết khó khăn, chẳng hạn như thấy người hỏi lưỡng lự khi nghe tư vấn, cho đến việc đào tạo, tự đào tạo… đều nêu rõ quy trình: một, hai, ba bốn… phải làm gì, rõ ràng, rành mạch. Tất nhiên, từ chỗ đọc đến chỗ hiểu, tiếp thu và vận dụng… nhất là vào từng trường hợp cụ thể, còn nhiều chuyện phức tạp đòi hỏi người tư vấn phải rất linh hoạt, uyển chuyển, sáng tạo… cho đến việc chấm dứt cuộc tư vấn cũng vậy, cuốn sách cũng bày cách làm rất cụ thể, rất chi tiết.

Đọc cuốn sách này, chúng ta còn có dịp làm quen với một số thông tin về tư vấn tâm lý ở Mỹ, tuy còn sơ sài nhưng cũng thấy được chủ trương thúc đẩy công tác này là phù hợp với yêu cầu đào tạo cán bộ tư vấn tâm lý ngày càng cao, chúng ta còn thiếu quá nhiều, có lẽ tính đến nay từ mọi nguồn số cán bộ này ở ta chỉ đếm được hàng chục (ở Mỹ đã lên đến hàng vạn và còn phân ngành Tư vấn tâm lý chuyên sâu), như trong sách cho hay. Đặc biệt, sách này còn cung cấp cho ta một vốn thuật ngữ Anh  Việt với khoảng 300 từ, với khoảng cách rất cần cho những ai tư vấn tâm lý.

Tóm lại, đây là một cuốn sách đọc rất dễ hiểu, cụ thể, nhiều điều có thể đem áp dụng vào công việc rất thiết thực bổ ích.

Nhân dịp này tôi nhiệt liệt chúc mừng và bày tỏ lời cảm ơn Thạc sĩ Nguyễn Thơ Sinh đã có tác phẩm đóng góp xây dựng và phát triển khoa học Tâm lý nước nhà, nhấn mạnh hướng ứng dụng, thực hành, phục vụ con người, phục vụ xã hội.

Chúc tác giả có những thành công mới trong nghiên cứu và hành nghề Tâm lý học. Mong anh tiếp tục hợp tác nhiều hơn với các bạn đồng nghiệp trong nước. Anh thật xứng đáng với câu “Tôi tự hào là người Việt Nam” mà anh đã lấy câu đó làm tiêu đề trong máy điện tử của mình.

Hà Nội 16.8.2006

GS.TSKH PHẠM MINH HẠC

Chủ tịch Hội các khoa học Tâm lý Giáo dục Việt Nam

PHẦN MỘT
LỊCH SỬ NGÀNH TƯ VẤN VÀ NỀN TẢNG BAN ĐẦU

Chương 1
LỊCH SỬ PHÁT TRIỂN VÀ XU HƯỚNG CỦA NGÀNH TƯ VẤN

1. Dẫn nhập

Tư vấn, không giống những ngành phục vụ sức khoẻ tâm thần khác ở chỗ, tư vấn bao gồm chức năng giúp thân chủ phát triển khả năng thăng tiến của bản thân và chức năng trị liệu ở mức độ rối loạn hệ thống tư duy.

Tư vấn viên làm việc với cá nhân, nhóm, gia đình, hoặc những tổ chức với những nan đề ngắn hạn và những nan đề lâu dài. Công tác tư vấn nhằm vào mục tiêu giáo dục (education) mang tính năng phát triển đời sống lành mạnh, ngăn ngừa tệ nạn và điều trị những rối loạn do thiếu khung tư duy trưởng thành, nên ngành này đã đóng một vai trò quan trọng tích cực với an toàn và phát triển của xã hội.

Tư vấn trong những bước khởi đầu lịch sử của ngành không có tổ chức bài bản mà thường là những tập hợp rời rạc, thiếu đồng bộ. Theo thời gian, ngành này không ngừng lớn mạnh và tự hoàn thiện thêm. Tuy thế, nhiều người nhầm lẫn tư vấn với những loại hình giúp đỡ và hướng dẫn khác. Vì thế, tư vấn là một công việc đã mang trong nó nhiều danh xưng và cả những hiểu lầm không nhỏ, thành ra người trong nghề và cả dư luận xã hội vẫn có vài ngộ nhận lẫn về chức năng công tác nghiệp vụ.

Có chút kiến thức về lịch sử của ngành tư vấn sẽ giúp tư vấn viên hiểu kỹ hơn về ngành nghề mà họ đảm trách.
2. Định nghĩa ngành Tư vấn

Nói theo truyền thống, tư vấn viên – là người lắng nghe và giúp đỡ người khác giải quyết một nan đề. Tuy nhiên, nhiều chức năng và danh xưng đã gây nên những hiểu lầm khi danh từ tư vấn viên được gắn với những sản phẩm, dịch vụ, dẫn đến những lẫn lộn vẫn thường nghe thấy như: tư vấn tài chính, tư vấn hôn nhân, tư vấn tiêu dùng, tư vấn pháp luật, tư vấn du lịch, tư vấn mua sắm…

Tư vấn, tại các nước phát triển, bắt nguồn từ hệ thống hướng dẫn, (guidance systems) và ngược hẳn với tâm lý liệu pháp (psychotherapy). Đấy là chuyện cũ. Hôm may, tư vấn gần như có mặt ở khắp nơi, được sử dụng trong những trung tâm có chức năng lâm sàng và chức năng giáo dục sức khoẻ công cộng, các trung tâm tư nhân và có sự hỗ trợ của Chính phủ, các hội đoàn, các tổ chức kinh doanh có lãi, các trung tâm tôn giáo, hội từ thiện…

Ngành này không chỉ chú trọng đến quá trình thăng tiến và phát triển lối sống lành mạnh, mà còn góp phần trong trị liệu với sức khoẻ tâm thần. Để hiểu rõ hơn về chức năng tư vấn, thiết nghĩ hiểu biết về hệ thống hướng dẫn trong nhà trường (guidance) và tâm lý liệu pháp (psychotherapy) sẽ giúp chúng ta hiểu được về ngành tư vấn một cách sáng tỏ hơn.



Hướng dẫn giáo dục trong học đường (Guidance): Là một quá trình giúp đỡ người trẻ chọn ra một giải pháp thích hợp cho một vấn đề cần được giải quyết bằng cách đề nghị những việc cần làm rất cụ thể. Tính thiết yếu này đã đi vào hoạt động tư vấn qua ngả tìm ra quyết định cụ thể cho một vấn đề. Tuy nhiên, cách giúp trong hướng dẫn rất khác với cách giúp trong tư vấn. Điểm khác biệt căn bản ở đây: hướng dẫn cho lời khuyên, còn tư vấn chỉ mang tính đề nghị và gợi ý một giải pháp cho thân chủ.

Nói khác đi, hướng dẫn giúp người khác tìm ra một chọn lựa cụ thể thích hợp bằng cách người được giúp đỡ sẽ nghe theo đề nghị của người khuyên. Tư vấn, khác hơn và nhiệm vụ của nó là giúp thân chủ tạo ra một sự thay đổi bằng chính khả năng của họ.



Hướng dẫn, thường gặp trong môi trường học đường (ở các nước phương Tây phát triển), khi người trưởng thành làm công tác hướng dẫn, giúp trẻ em chọn lựa giải pháp như chọn nghề, chọn môn học. Quan hệ giữa hai bên là một quan hệ không đối xứng. Ở đây, người có kinh nghiệm sẽ truyền đạt kinh nghiệm cho người thiếu kinh nghiệm. Rất giống như trường hợp vai trò của cha mẹ, người lớn trong gia đình hướng dẫn con cái những việc cần phải làm.

Vì thế, hướng dẫn là một hình thái giúp đỡ không bao giờ cũ đi, nó cũng không biến mất trong lịch sử phát triển văn minh của con người. Bất cứ ở lứa tuổi nào, chúng ta cũng cần đến quá trình chọn giải pháp cho những nan đề. Vì thế con người vẫn cần đến giúp đỡ. Từ lâu là ngành có xuất thân từ hướng dẫn, nên nó chịu ảnh hưởng từ hướng dẫn rất nhiều. Giống như hướng dẫn không bao giờ cũ đi, tư vấn trong bối cảnh hôm nay đáp ứng những nhu cầu thiết yếu của mọi người cũng không bao giờ trở thành già cỗi.



Tâm lý trị liệu (psychotherapy): Khác với tư vấn thông thường, tâm lý trị liệu (còn gọi là tâm lý liệu pháp) được áp dụng với những trường hợp nghiêm trọng hơn, liên quan đến những lĩnh vực nội tâm, xung đột tư duy, trạng thái tâm thần, mà mục đích nhắm đến là chữa lành hoặc làm giảm nhẹ những rối loạn thiên về thái cực lâm sàng.

Tâm lý trị liệu tập trung nhiều vào những vấn đề nhức nhối của quá khứ, những hành vi bệnh lý cần can thiệp bởi những phương pháp chữa trị như thuốc men, chăm sóc y tế… Sự can thiệp của chuyên viên như bác sĩ là cần thiết. Kỹ thuật chuyên môn của chuyên viên tâm lý trị liệu cao, song họ thường không chú trọng nhiều đến việc tìm hiểu và khám phá cảm xúc, tư duy, và hành vi của thân chủ - họ thường thiên về những triệu chứng (symptoms) của thân chủ.

Bác sĩ tâm thần học (psychiatrist) và tâm lý gia lâm sàng (clinical psychologist) thường là những người có nhiều gắn bó với tâm lý trị liệu.

Tuy nhiên, nhiều học thuyết trong tư vấn có nguồn gốc từ tâm lý học, nên ứng dụng của chúng có thể được sử dụng cả trong môi tường tư vấn lẫn môi trường tâm lý trị liệu.

Hai tiêu chuẩn đặc trưng giúp phân biệt sự khác nhau giữa tư vấn và tâm lý trị liệu là:

1. Thời gian kéo dài của quá trình giúp đỡ. Với tâm lý trị liệu, thời gian kéo dài hơn (20 - 40 cuộc hẹn, xấp xỉ từ 6 tháng đến 2 năm), tập trung vào việc thay đổi lại hệ thống tư duy, vốn dẫn đến những rối loạn cá tính. Tư vấn cần ít thời gian hơn (8 đến 12 cuộc hẹn, dưới sáu tháng), tập trung vào quá trình xử lý một vấn đề mang tính tức thời trong sinh hoạt.

2. Địa điểm: tâm lý trị liệu xảy ra trong điều kiện nội trú (ở bệnh viện có đội ngũ y tá, (bác sĩ chuyên môn), và tư vấn là ở môi trường ngoại trú.

Tư vấn (counseling): Là một ngành chuyên môn vẫn đang gây những bàn cãi về một định nghĩa chuẩn của nó. Tuy nhiên vài điểm sau đây sẽ giúp cho trong quá trình tìm đến một định nghĩa đầy đủ, dựa theo Gladding (2000).

- Tư vấn là một nghề chuyên nghiệp, đòi hỏi phải có đào tạo bài bản, có trường lớp.

- Tư vấn tập trung vào trợ giúp về vấn đề sống lành mạnh, thăng tiến đời sống quan hệ cá nhân, nghề nghiệp, và những quan tâm thuộc lĩnh vực bệnh lý tinh thần.

- Tư vấn áp dụng với người có khả năng xử lý tốt và cả những người có vấn đề về rồi loạn tâm thần dạng nhẹ.

- Tư vấn phải dựa trên hệ thống lý thuyết về tư vấn.

- Tư vấn là một quá trình phát triển trên bình diện ngăn ngừa (prevention) và can thiệp (intervention).

Tư vấn bao gồm nhiều chuyên môn (specialty) khác nhau để đáp ứng nhu cầu đa dạng của thân chủ.
3. Lịch sử ngành Tư vấn

Dựa vào lịch sử hiện có, ngành Tư vấn ở các nước phát triển là một ngành tương đối trẻ. Trước những năm 1900, tư vấn chủ yếu là cho ý kiến, tập trung vào việc cung cấp những phúc lợi nhân đạo căn bản cho những người kém may mắn trong thời kỳ Cách mạng Công nghiệp (Industrial Revolution).

Ban đầu, nó được dành riêng cho người trẻ, liên quan đến những chương trình hướng nghiệp và những bài học đạo đức căn bản, như làm điều đúng, sống tốt, tránh điều sai, xa lánh điều xấu. Tư vấn thời gian đầu chủ yếu là cung cấp thông tin và hướng dẫn giáo dục.

Cần biết, tư vấn và hoạt động của nó là một quá trình (process) bao gồm những thao tác căn bản cần thiết, vì thế luôn có những thay đổi, tự điều chỉnh, nhằm thích nghi với những yêu cần căn bản của đời sống xã hội vốn luôn có những phát sinh biến chuyển không ngừng.

Năm 19007, Jesse B. Davis là người đầu tiên thiết lập một cơ sở hướng dẫn có hệ thống ở tiểu bang Michigan, Hoa Kỳ. Frank Parson, người cho xuất bản cuốn Chọn Nghề (1909), một năm sau khi ông qua đời. Cứ thế, tư vấn từ từ phát triển, trở thành một nghề có mặt khắp nơi, đóng góp những công việc thầm lặng của mình, cống hiến cho xã hội những hy sinh âm thầm trong công việc giúp đỡ những con người mệt mỏi và quá tải về mặt đời sống tinh thần.

Riêng ở Việt Nam, chưa có một thông tin cụ thể nào về điểm khởi đầu hoạt động chính thức của ngành Tư vấn. Lịch sử phát triển của ngành Tư vấn ở Việt Nam chưa có một tài liệu nào công bố rõ ràng về từng bước, từng giai đoạn.

Ngày 18 tháng 2 năm 2006, Hội thảo khoa học quốc gia: Tư vấn tâm lý - giáo dục lý luận, thực tiễn và định hướng phát triển đã được tổ chức tại thành phố Hồ Chí Minh. Đây có thể nói là một hoạt động tích cực, rất có ý nghĩa đối với những yêu cầu cơ bản, rất bức xúc của đời sống xã hội hiện nay. Tất cả có hơn 60 bài tham luận được gửi về đã trình bày rất nhiều ý kiến sôi động, phản ánh được nhu cầu cấp bách của tư vấn trong bối cảnh bức tranh toàn cảnh.

Dựa vào báo cáo của Hội thảo khoa học quốc gia (2006), tư vấn tâm lý - giáo dục đã được thực hiện trong nhiều năm gần đây, trên các địa bàn, đặc biệt là ở các thành phố. (Đinh Phương Duy, 2006). Rồi con số các trung tâm tư vấn cứ lớn dần lên và việc có một cuộc hội thảo cấp quốc gia như thế có thể nói là một bước nhảy vọt rất đáng khích lệ.

Một điều đáng chú ý, tư vấn (hay còn gọi là tư vấn tâm lý) là một ngành phục vụ, đối tượng chủ yếu là con người trong bối cảnh phát triển của xã hội. Ngành Tư vấn luôn có mặt, bám sát với những thay đổi và phát triển trên mọi bình diện của tất cả những hoạt động của xã hội.

Đơn cử, theo kết quả nghiên cứu của TS.Trần Thị Giồng, Th.S Đỗ Văn Bình và 11 đồng nghiệp, ở thành phố Hồ Chí Minh (2003) có hơn 50 cơ sở tư vấn tâm lý, hoạt động trên các lĩnh vực: Tình yêu - hôn nhân - gia đình, trẻ em và cha mẹ trong gia đình, sức khỏe, HIV/AIDS, hướng nghiệp, trong đó hơn 60% do cơ quan Nhà nước hay ban ngành thành lập, phần còn lại do các hội, tư nhân, tổ chức tôn giáo… Điều này đã phản ánh được một thực tế: nhu cầu tư vấn là một nhu cầu rất thực của xã hội Việt Nam ta.

Đây chỉ là một ví dụ lấy từ thực tiền được báo cáo. Còn chuyện tư vấn ngoài luồng hoặc tư vấn nghiệp dư luôn tồn tại trong xã hội là điều tất yếu. Vì tính chuyên môn cao của tư vấn, trong lúc điều kiện đào tạo đội ngũ tư vấn chưa được phát triển ở Việt Nam, tình trạng tư vấn mạnh ai nấy làm tất nhiên là khó tránh khỏi. Nhưng không mấy ai nhận thức được rằng, tư vấn nếu làm sai, đôi khi gây hại nhiều hơn làm lợi, có thể gây ra những tác hại hệ lụy lâu dài.

TS Đinh Phương Duy (2006) đã nêu lên những câu hỏi nóng bỏng trong hội thảo là:

- Chuyên viên tư vấn và tham vấn có cần được đào tạo bài bản hay chỉ cần có kinh nghiệm hay một tấm lòng vì người khác?

- Có cần xây dựng một hệ thống lý luận riêng cho tư vấn, tham vấn tâm lý ở Việt Nam?

Đặc biệt với tổng kết của PGS, TS. Bùi Ngọc Oánh (2006), những vấn đề được nêu ra đã tạo nên hướng suy nghĩ cho công tác tư vấn nước nhà:

1. Xây dựng lý luận về công tác tư vấn, khái niệm tư vấn, tham vấn, tâm lý trị liệu… và sự phối hợp giữa các hình thức trên.

2. Quy trình cơ bản của một ca tư vấn.

3. Xây dựng các chương trình đào tạo chuyên viên tư vấn.

- Xây dựng các quy định về hoạt động tư vấn.

- Xây dựng các quy chế, quy định về việc thành lập các trung tâm tư vấn.

- Biên soạn các tài liệu, giáo trình, tài liệu về tư vấn.

- Nghiên cứu việc quảng bá tuyên truyền cho hoạt động tư vấn.

- Nghiên cứu việc định hướng, dự báo kế hoạch phát triển hoạt động tư vấn trong tương lai, đặc biệt là tư vấn học đường.

Cho đến nay, ở Việt Nam hiện vẫn chưa có hệ thống đào tạo và có bằng cấp (mang tính đồng bộ) và cấp giấp phép trong lĩnh vực hoạt động tư vấn. Điều này cũng dễ hiểu, nhất là khi so sánh với các nước âu Mỹ. Điển hình như ở Hoa Kỳ, mãi đến những năm giữa thập ký 70 họ mới có hệ thống đào tạo có bằng cấp hoạt động của tiểu bang.

Virginia là tiểu bang đầu tiên (1976) bắt buộc phải có giấy phép hành nghề tư vấn. Đến năm 1981, ở Hoa Kỳ mới chính thức có một hệ thống tiêu chuẩn đào tạo chuyên viên tư vấn có bài bản. Điều này cho phép chúng ta lạc quan khi nhận định rằng ở Việt Nam, vấn đề tổ chức và sắp xếp để tư vấn trở thành một ngành chuyên nghiệp chỉ là vấn đề nhanh hay chậm của thời gian.
4. Những thử thách và xu hướng hiện thời của ngành Tư vấn

Tư vấn là ngành không ngừng phát triển và tự điều chỉnh để phù hợp với yêu cầu của xã hội. Hơn lúc nào hết, xã hội đang đối diện với những thay đổi lớn lao, như tiến trình toàn cầu hóa, bùng nổ các dịch vụ tư nhân, sự tiến bộ của khoa học kỹ thuật, đóng góp và ảnh hưởng của kỹ nghệ thông tin, đời sống công nghiệp hóa, và cả những vấn đề đạo đức và nhân sinh quan nóng bỏng khác của xã hội, vốn khó phán đoán trước, chẳng hạn như đô thị hóa, dân số, sức khỏe, lương bổng, và những nhu cầu khác ngày càng cao của xã hội…

Theo GS, TS. Phạm Minh Hạc, Chủ tịch Hội Khoa học Tâm lý giáo dục Việt Nam: “Giáo dục là phạm trù đi liền với lịch sử tồn tại và phát triển của loài người, tâm lý nói riêng, tinh thần nói chung là tiêu chí đặc trưng của từng con người và toàn nhân loại. Ngày nay, nhất là mấy thập kỷ cuối thế kỷ trước giáo dục và tâm lí con người được coi là hạ tầng xã hội - hai yếu tố cực kỳ quan trọng góp phần tạo nên sự tiến bộ xã hội”.

Như thế, đội ngũ tư vấn viên có thể nói đã nhìn ra được vai trò của mình trong công cuộc xây dựng đất nước và xã hội. Nhất là khi GS, TS Phạm Minh Hạc vạch ra: "Tư vấn tâm lý - giáo dục ở nước ta có sứ mệnh vẻ vang là động viên mọi người và toàn xã hội, tạo nên một vốn xã hội - vốn người tốt cùng nhau đoàn kết, bảo đảm an sinh xã hội, ổn định xã hội, góp phần tiếp tục đổi mới đất nước, tạo dựng nên một đất nước độc lập, phồn vinh, mọi người được hưởng các quyền của con người, của mọi công dân."


5. Kết luận

Với trách nhiệm của một tư vấn viên; chúng ta, những con người góp phần sức lực khiêm tốn của mình nhưng rất có ý nghĩa với xã hội. Chỉ khi tìm được ý nghĩa cao cả của công việc hàng ngày mà mình đang tìm, tư vấn vấn mới có thể bám trụ được với nghề thầm lặng đầy khó khăn này. Hy vọng mỗi chúng ta sẽ làm tốt, làm đúng, để xã hội càng ngày càng thêm tin tưởng nhiều hơn vào đóng góp và tinh thần phục vụ của chúng ta - qua chất lượng huy chương vàng của nghiệp vụ tư vấn với xã hội.

Xã hội luôn luôn có những vấn đề đặc trưng muôn thuở. Con người là một sinh thể có liên đới mật thiết trong bức tranh tổng thể quan hệ trong xã hội. Không ai sống một mình được. Hành vi của một người luôn có ảnh hưởng đến người khác. Tất nhiên hành vi tiêu cực sẽ gây ảnh hưởng tiêu cực. Hành vi là kết quả của tư duy và cảm xúc.

Tư vấn viên là người giúp đỡ thân chủ tìm ra chìa khóa trong ứng xử lành mạnh, tìm đến những hành vi lành mạnh nhất. Chúng ta được mời gọi vào tiến trình phát triển của lịch sử dân tộc, trong nghiệp vụ tư vấn của mình, ở một thời điểm đất nước đang đối diện với những thay đổi rất lớn trong bức tranh toàn cảnh của xã hội toàn cầu.


Chương 2
MÔ HÌNH CỦA MỘT TƯ VẤN VIÊN LÀM VlỆC CÓ HIỆU QUẢ


Dẫn nhập

Trong tư vấn, yếu tố thành công và chất lượng của quá trình trợ giúp nằm ở nơi bản thân tư vấn viên là việc rất lớn. Nói khác đi, không có một tư vấn viên làm việc có hiệu quả, có trách nhiệm, dịch vụ tư vấn sẽ chẳng đem lại bất cứ một tiến bộ khả quan nào.

Không chỉ hạn chế tác dụng hữu ích của tư vấn, một tư vấn viên yếu nghiệp vụ có thể sẽ gây ra những tác hại nghiêm trọng, về lâu dài cho thân chủ. Vì thế với người muốn bước vào nghề tư vấn cần suy nghĩ xem nghề này có thật sự là chọn lựa đúng đắn cho mình? Riêng với những tư vấn viên đã bước vào nghề, việc duy trì để giữ mình mãi là một tư vấn viên có hiệu quả là một trong những sứ mệnh đòi hỏi của nghề.

Để trở thành một tư vấn viên tốt, thiết nghĩ mình phải rõ ràng với bản thân của mình. Theo TS. Trần Thị Giồng (2006): “Chúng ta không thể cho những gì mình không có”. Cũng thế, tư vấn viên không thể giúp cho thân chủ một cách có hiệu quả nếu họ không chuẩn bị và được đào tạo cẩn thận.


1. Nhân cách và vốn sống của một tư vấn viên

Tư vấn là một nghề đòi hỏi phải thành tâm và có tấm lòng cao cả. Nó thu hút những tâm hồn biết quan tâm, tâm tình cởi mở, thân thiện và nhạy cảm với nhu cầu giúp đỡ con người. (Myrick, 1997). Tuy nhiên động cơ và duyên may đến với nghề này của nhiều tư vấn viên đang hành nghề trong xã hội rất khác nhau. Những ai muốn gắn bó cuộc đời mình với công tác tư vấn phải tự hỏi nếu họ có đủ tố chất và đam mê; đủ vững mạnh để đối diện với thử thách rất thực tế của nghề này.

Tóm lại, để trở thành một tư vấn viên tốt, những yêu cầu sau đây thường được nhắc đến, theo Gladding (2000):

- Nhân cách và vốn sống.

- Giáo dục căn bản của tư vấn viên.

- Học thuyết áp dụng và kiến thức về hệ thống tư duy được sử dụng trong công tác tư vấn.

- Khả năng tham gia vào những hoạt động liên quan đến công tác tư vấn (như tham gia hội thảo, diễn đàn, là ủng hộ viên đắc lực cho ngành, tham gia đào tạo thế hệ tư vấn viên mới, và không ngừng tiếp tục bồi dưỡng kiến thức nghiệp vụ) - không ngừng tiếp tục học hỏi.

Theo Carkhuff (1969) tư vấn viên và quá trình tư vấn có ảnh hưởng mạnh mẽ đến một cá nhân, vì thế nếu tư vấn không hiệu quả, tất sẽ có ảnh hưởng tai hại lâu dài đến thân chủ.

Gladding (2000) đã nói đến nhân cách của một tư vấn viên. Theo ông, chúng ta nên nhắm đến những tiêu chí căn bản từ một tư vấn viên: (1) Trưởng thành (2) Biết thông cảm (3) Cởi mở (4) Thành thực (5) Điềm đạm, không dễ nổi nóng.

Tất nhiên không phải ai cũng có những đức tính này. Vì thế tư vấn không phải là nghề giành cho tất cả mọi người.
2. Những động cơ tiêu cực lôi kéo người ta vào nghề Tư vấn

Nhiều người muốn trở thành tư vấn viên với động cơ không lành mạnh. Họ không hẳn là người xấu, tuy nhiên quyết định đi vào nghề của họ có ảnh hưởng tiêu cực đến thân chủ và xã hội. Witmer và Young (1996) nêu ra những động cơ tiêu cực hoặc sai lệch của một tư vấn viên đã mắc phải trong quá trình muốn trở thành một tư vấn viên:

- Có vấn đề trục trặc về mặt tình cảm. Khi họ có những khúc mắc tình cảm chưa được giải quyết từ thời thơ ấu hay trong quá khứ.

- Họ cô đơn và sống thiếu liên đới với xã hội. Họ không có bạn bè và thường mượn quá trình tư vấn như một thay thế cho nhu cầu có bạn bè.

- Tham vọng có quyền lực. Họ là người không thành công trong cuộc sống (không nhất thiết phải chỉ có nhiều tiền mới là có thành công), vì thế họ mong được kiểm soát người khác.

- Có nhu cầu tình yêu. Họ là những người quá yêu bản thân, có thái độ tự hào thái quá, tin tưởng rằng mọi khó khăn đều có thể giải quyết được bằng tình yêu và do chính khả năng của họ. Đây là hội chứng muốn mình là anh hùng cứu vớt được cả thế giới.

- Họ có thái độ vùng vằng, muốn chống đối cuộc đời một cách gián tiếp. Họ là người có vấn đề về quan hệ cá nhân nào đó, giải quyết không thoả đáng, nay muốn đem ra để áp đặt lên thân chủ trong quá trình tư vấn.

- Tìm đến sự an nhàn. Họ nghĩ rằng nghề tư vấn là nghề chỉ ngồi văn phòng nói chuyện và đếm tiền.

- Tìm danh vọng. Họ tin rằng, làm nghề Tư vấn được xếp vào một danh mục nghề nghiệp quan trọng, cao quý, lịch sự.

Hiểu sai như thế sẽ hoàn toàn thất hại. Đơn giản vì trở thành tư vấn nên sẽ không đáp ứng được những khát khao của họ như vừa nêu trên. Trái lại, tác hại của sự thất vọng sẽ trở thành chất độc, phá huỷ cuộc sống chỉ vì họ có chọn lựa sai lầm. Vì thế, tư vấn cần được coi như là một tiếng gọi (calling) nhiều hơn là một hứa hẹn vật chất, địa vị, hay cho những phần thưởng tinh thần, xã hội.

Trước khi quyết định chọn vào nghề Tư vấn, nhiều bạn trẻ đã băn khoăn nếu như mình có đủ những điều kiện tố chất để vào nghề. Thật khó xác định cụ thể được điều này. Song, một điều căn bản là bạn có đặt tiêu chí muốn giúp người khác làm tiêu chí hàng đầu hay không? Nếu bạn chọn nó vì nghề này cũng hay hay, lúc ấy bạn nên cân nhắc kỹ hơn.

Con người luôn phát triển qua kinh nghiệm sống nên tư duy thay đổi là lẽ tất nhiên. Không hẳn là nhân cách (personality) của chúng ta là bất biến. Nhân quan (personal view) và quan niệm về quan hệ giữa người với người sẽ thay đổi khi chúng ta sống nhiều hơn. Tuy nhiên, nhân tố bẩm sinh muốn giúp người vẫn là điều đáng quý nhất.

Nếu hiểu ở một góc cạnh trong tinh thần nhân văn, chúng ta có thể tin rằng cụ Nguyễn Du đã rất có lý khi nêu lên quan điểm của ông: Chữ tâm kia mới bằng ba chữ tài (Truyện Kiều). Nói thế, ta đủ thấy tầm quan trọng của ý nghĩa nhân văn trong nghề tư vấn.

Dưới đây là những đặc tính cần có của một tư vấn viên hiệu quả, dựa theo Foster (1996) và Guy (1987):

- Hiếu kỳ (curiosity and inquisitiveness): bộc lộ tinh thần quan tâm một cách tự nhiên đối với người khác.

- Khả năng biết lắng nghe (ability to listen): biết tập trung theo dõi một cách sát sao, chú ý đến người khác. Đây là một vốn quý hết sức cần thiết, vì nó kích thích thân chủ trong việc tham gia tích cực vào quá trình tư vấn. Thân chủ sẽ chán nản khi tư vấn viên không có khả năng lắng nghe tốt.

- Tự nhiên với đối thoại (comfort with conversation): khả năng tạo sự cởi mở thoải mái, giúp thân chủ tự tin và giảm thiểu căng thẳng vốn ảnh hưởng đến chất lượng tư vấn.

- Đồng cảm và hiểu biết (empathy and understanding): khả năng liên hệ mình vào hoàn cảnh của người khác, ngay cả chuyện thân chủ là người khác phái, khác văn hóa, khác biệt về điều kiện sống, hoàn cảnh sống.

- Hiểu biết về tình cảm (emotional insightfulness): khả năng kiềm chế bản thân, có thể đối diện một cách tự tin với những mức độ cảm xúc khác nhau từ quá trình tư vấn, trưởng thành vững vàng về mặt cảm xúc.

- Phản tỉnh táo nội tâm (introspection): khả năng tĩnh tâm để tự đánh giá bản thân, suy xét nội tâm, từ đó có thể tự phục thiện, hoàn thiện bản thân.

- Khả năng biết quên mình (capacity for self-denial): nghĩ đến lợi ích của người khác trước, ngay cả trường hợp lợi ích người khác ảnh hưởng đến lợi ích của bản thân mình.

- Không sa ngã trong tình cảm (tolerance of intimacy): khả năng kiềm chế trong khi tư vấn với thân chủ khác phái, tránh những cảm xúc thiên về nhục thể thiếu lành mạnh.

- An tâm với năng lực của thân chủ (comfort with power): khả năng chấp nhận năng lực của thân chủ ở một giới hạn nào đó khi không tiếp cận trực tiếp. Tư vấn viên sẽ không lạm dụng vị trí của mình để lấn lướt, chỉ thị, hướng dẫn sai lệch.

- Khả năng biết cười (ability to laugh): cần có tính khôi hài trong những huống trạng éo le của cuộc sống, biết lạc quan và không quá gò bó. Ứng dụng tính khôi hài để giảm căng thẳng và khơi dậy tinh thần lạc quan trong cuộc sống.

Ngoài ra, một tư vấn viên làm việc có hiệu quả cũng cần đến những khả năng ứng dụng các khám phá khoa học kỹ thuật trong công tác của mình. Họ cần có kiến thức để duy trì cho mình một sự quân bình về tình cảm. Chính sự cân bằng trong cuộc sống ấy sẽ giúp họ trở thành tư vấn viên làm việc tốt. Cũng dễ hiểu, một tư vấn viên không có cuộc sống ổn định, anh ta sẽ không thể công tác tốt trong quá trình tư vấn với thân chủ. Cormiers (1989) đề xuất những tiêu chuẩn rất cần thiết của một tư vấn viên làm việc có hiệu quả như sau.

- Năng lực thông minh (intellecture competence): khả năng và tinh thần ham học hỏi, lối suy nghĩ nhanh chóng, nhạy bén, sáng tạo.

- Sức làm việc (energy): khả năng duy trì hoạt động một cách nhanh nhẹn, tỉnh táo trong suốt các ca tư vấn và với cơ quan mình công tác.

- Khả năng co giãn (flexibility): có thể điều tiết và học hỏi khi công tác tư vấn yêu cầu.

- Tinh thần động viên (support): khả năng giúp đỡ, động viên thân chủ trong việc họ tự quyết định và tin tưởng, hy vọng vào cuộc sống.

- Lòng thiện (goodwill): luôn muốn làm việc vì lợi ích của thân chủ, với tinh thần xây dựng, nhằm giúp thân chủ trong việc duy trì khả năng độc lập.

- Tinh thần cảnh giác (self-awareness): kiến thức về bản thân, bao gồm thái độ với cuộc sống, nghề nghiệp, cảm xúc và khả năng phân biệt là kiểm soát được những nhân tố có ảnh hưởng tiêu cực trên bản thân.

Tất nhiên tư vấn viên còn cần có những đức tính khác, tuy nhỏ bé hơn như trung thành với những tiêu chuẩn cơ bản của phép xử thế. Song, đế trở thành một tư vấn viên có hiệu quả, bạn cần liên tục và không ngừng hoàn thiện bản thân. Can đảm nhìn nhận những mặt yếu kém để khắc phục. Ý thức được những giới hạn của bản thân cũng là một đặc trưng quan trọng của một tư vấn viên có trách nhiệm. Vì khi ta nhận thức được hạn chế, ta sẽ dễ dàng hơn trong tiến trình tự hoàn thiện, gạt bỏ những thiếu sót chủ quan hạn hẹp của mình.



tải về 1.32 Mb.

Chia sẻ với bạn bè của bạn:
  1   2   3   4   5   6   7   8   9   ...   18




Cơ sở dữ liệu được bảo vệ bởi bản quyền ©hocday.com 2024
được sử dụng cho việc quản lý

    Quê hương