chúc, trà, quả, trân tu cúng dường. Duy-na thỉnh chế
sớ, kiểm sớ (Phật Niết-bàn đồng). Cách túc, mệnh
đường ty hành giả báo chúng quải phúng kinh bài.
Chính nhật minh chung tập chúng, hướng tòa nhạn
lập. Hậu trụ trì chí, thượng hương, thượng thang,
thượng thực, hạ sấn. Thượng trà lễ bái tất, niêm
hương (hữu pháp ngữ). Duy-na ấp ban thượng hương,
đại chúng phổ đồng lễ bái. Trụ trì quỵ lô, tuyên sớ
cử chú, hồi hướng vân: “Thượng lai phúng kinh
công đức, phụng vi ‘Hoàng thiên chi hạ, nhất nhân
chi thượng, khai giáo tuyên văn, phụ trị đại Thánh,
chí đức phổ giác, chân trí hựu quốc, như ý đại bảo
pháp vương, Tây Thiên Phật tử, Đại Nguyên đế sư,
thượng thù từ ấm, Thập phương tam thế nhất thiết
chư Phật vân vân.”
Sớ ngữ:
[1117b01] Thiên khải hữu nguyên, đốc sanh phụ trị
chi đại Thánh
Đạo tôn vô thượng, thực vi tuyên văn chi Pháp vương
Mật tán hóa cơ
Âm dực vương độ
Thổ từ vi kinh, cử túc vi pháp, vị cư thiên Phật chi trung
Bác hậu phối địa, cao minh phối thiên, tôn cực nhất
nhân chi thượng
Duy tư Thánh kỵ
Ích ngưỡng ân quang
Phục nguyện,
Trùng giá nguyện luân, tán tứ hải đồng văn chi trị hóa.
Quyến ngôn tượng quí, chấn thiên cổ chánh pháp
chi tông cương.
THẦY CỦA VUA QUA ĐỜI
[1117a22] Đến ngày, trên pháp tòa kính an bài vị, y
theo phép tắc mà đặt bày trang trí. Chuẩn bị đầy đủ
hương, hoa, đèn, trà, quả, thức ăn ngon lành để biểu
thị cúng dường. Duy-na thỉnh chế (viết) sớ và kiểm
sớ (giống như ở lễ Phật Niết-bàn). Cách đó một
đêm, bảo hành giả đường ty thông báo chúng treo
bài hiệu Phúng tụng kinh. Đúng ngay ngày lễ, đánh
chuông tập họp đại chúng, hướng về pháp tòa đứng
xếp hàng như hình bầy nhạn bay để đợi trụ trì đến thượng (dâng) hương, thượng (dâng) thang, dâng
cơm cúng, ban phát tài vật bố thí. Dâng trà lễ bái
xong, dâng hương (có nói pháp ngữ). Duy-na vái
chào mời ban thượng hương, đại chúng phổ đồng lễ
bái. Trụ trì quì trước lư hương, (duy-na) tuyên đọc
sớ rồi tụng niệm chú và hồi hướng như sau: “Công
đức tụng niệm kinh chú vừa rồi phụng vì ngài
‘Hoàng Thiên chi hạ, nhất nhân chi thượng (dưới
trời, trên vua) khai giáo tuyên văn, phụ trị đại
Thánh, chí đức phổ giác chân trí hựu quốc như ý
đại bảo pháp vương, Tây Thiên Phật tử, Đại Nguyên
đế sư”, hầu báo đáp bóng rợp từ bi. Mười phương,
ba đời tất cả chư Phật v.v….
Lời văn của sớ:
[1117b01] Thiên khải hữu nguyên, nương vào đại
Thánh phụ trị
Đạo tôn cao nhất, đúng là pháp vương tuyên văn.
Mật giúp rập hóa cơ
Ngầm đỡ đần vương độ
Thốt lời làm kinh, Cất bước làm pháp, cương vị ở
trong ngàn Phật
Phối hợp rộng dài cùng đất, phối hợp cao sáng với
trời, tôn quí trên cả nhà vua
Nay đây gặp Thánh kỵ
Càng ngưỡng mộ ân quang
Cúi xin,
Lại cỡi nguyện luân, giúp rập bốn biển đồng văn trị hóa
Chiếu cố mạt pháp, chấn hưng ngàn xưa chánh
pháp tôn cương.
*
* *
[1117b08] 帝師拔合斯八。法號惠幢賢吉祥。土波
國人也。己亥歲四月十三日降生。父曰唆南紺
藏。初土波有國師禪恒羅吉達。得正知見具大威
神。累葉相傳道行殊勝。其國王世師尊之。凡十
七代而至薩斯加哇。即師之伯父也。師天資素
高。復禮伯父為師。祕密伽陀微妙章句一二千
言。過目成誦七歲演法辯博縱橫。年十有五。歲
在癸丑。
[1117b16] 世祖皇帝龍德淵潛。師灼知真命有歸。
馳騎徑詣王府。
[1117b18] 上與中闈東宮。皆秉受戒法。特加尊
禮。閱六載。庚申。世祖聿登大寶。建元中統遂
尊為國師。授以玉印。任中原法主。統領天下釋
教。始令僧俗分司。四年辭帝西歸。未朞月趣召
來還。至元七年庚午。有旨制大元國字。師獨運
摹畫。不日而成。深愜聖意。即詔頒行。朝省郡
縣悉皆遵用。迄為一代典章。升號帝師大寶法
王。更賜玉印。旋又西歸。十一年上復專使召
至。尋又力辭還山。上堅留之不可。十七年十一
月二十二日入滅。上聞不勝震悼追懷。連建大窣
堵波于京師。寶藏真身舍利。輪奐金碧古今無儔
(見翰林學士王磐等奉 勅所撰碑)後升號皇天之
下一人之上。開教宣文輔治大聖至德普覺真智佑
國如意大寶法王西天佛子大元帝師。
[1117c04] 報本章終
(TIỂU SỬ ĐẾ SƯ BẠT-HIỆP-TƯ-BÁT)
[1117b08] Đế sư Bạt-hiệp-tư-bát, pháp hiệu Huệ
Tràng Hiền Cát Tường, Thổ Ba quốc nhân dã. Kỷ
Hợi tuế, tứ nguyệt, thập tam nhật giáng sanh. Phụ
viết Tuấn Nam Cám Tạng. Sơ Thổ Ba Hữu quốc sư
Thiền Hằng La Cát Đạt đắc chính tri kiến, cụ đại uy
thần. Lụy diệp tương truyền, đạo hạnh thù thắng.
Kỳ quốc vương thế sư tôn chi, phàm thập bát đại,
nhi chí Tát Tư Gia Oa, tức sư chi bá phụ dã. Sư
thiên tư tố cao, phục lễ bá phụ vi sư, bí mật già đà
vi diệu chương cú nhất nhị thiên ngôn, quá mục
thành tụng, thất tuế diễn pháp biện bác tung hoành,
niên thập hữu ngũ, tuế tại Quý Sửu.
[1117b16] Thế Tổ Hoàng đế, long đức uyên tiềm.
Sư chước tri kỳ mệnh hữu quy, trì kỵ kính nghệ
vương phủ.
[1117b18] Thượng dữ trung vi Đông cung, giai bỉnh
thụ giới pháp, đặc gia tôn lễ. Duyệt lục tái, Canh
Thân Thế Tổ duật đăng đại bảo. Kiến Nguyên trung thống toại tôn vi quốc sư, thụ dĩ ngọc ấn,
nhiệm Trung Nguyên pháp chủ, thống lĩnh thiên hạ
Thích giáo, thỉ linh tăng tục phân ty. Tứ niên từ đế
Tây qui. Vị ki nguyệt thú triệu lai hoàn. Chí
Nguyên thất niên Canh ngọ, hữu chỉ chế Đại
Nguyên quốc tự. Sư độc vận mô họa, bất nhật nhi
thành, thâm khiếp Thánh ý, tức chiếu ban
hành,triều, tỉnh, đô, huyện, tức giai tuân dụng, hất
vi nhất đại điển chương, thăng hiệu đế sư Đại Bảo
Pháp vương, cánh tứ ngọc ấn, toàn hựu Tây qui.
Thập nhất niên thượng phục chuyên sứ triệu chí.
Tầm hựu lực từ hoàn sơn. Thượng kiên lưu chi bất
khả. Thập thất niên, thập thất nguyệt, nhị thập nhị
nguyệt nhập diệt.
Thượng Văn bất thắng chấn điệu truy hoài, liên kiến
đại tốt-đỗ-ba vu kinh sư, bảo tàng chân thân xá-lợi,
luân hoán kim bích cổ kim vô trù. (Kiến Hàn lâm
học sĩ Vương Bàn đẳng phụng sắc sở soạn bi)
Hậu thăng hiệu “Hoàng Thiên chi hạ, nhất nhân chi
thượng, khai giáo tuyên văn phụ trị đại Thánh Chí
Đức Phổ Giác Chân Trí hựu quốc Như ý đại bảo
pháp vương Tây Thiên Phật tử Đại Nguyên đế sư”.
[1117c04] Báo bổn chương chung.
(TIỂU SỬ ĐẾ SƯ BẠT-HIỆP-TƯ-BÁT)
[1117b08] Đế sư Bạt-hiệp-tư-bát, pháp hiệu Huệ
Tràng - Hiền Cát Tường, người nước Thổ Ba, giáng
sanh ngày 13 tháng 4 năm Kỷ Hợi, cha tên Tuấn
Nam Cám Tạng. Xưa nước Thổ Ba có vị Quốc sư tên
Thiền Hằng La Cát Đạt, đắc chánh tri kiến có đại
uy thần, nhiều đời truyền nhau, đạo hạnh thù thắng.
Các Quốc vương nước này nhiều đời tôn trọng là
thầy, trải qua 17 đời đến Tát Tư Gia Oa, tức là bác
của sư. Sư thiên tư cao tột, lễ người bác làm thầy.
Chương cú vi diệu của thi kệ (già-đà) bí mật 12
ngàn lời, liếc mắt qua là đã thuộc nằm lòng, mới 7
tuổi đã diễn pháp biện bác dọc ngang, năm sư 15
tuổi nhằm năm Quí sửu.
[1117b16] Thế Tổ Hoàng đế còn rồng nằm dưới vực
(tức chưa lên ngôi), sư biết rõ chân mạng đế vương
sẽ thuộc về ngài, cỡi ngựa chạy đến vương phủ.
[1117b18] Vua lập ngài làm Đông cung Thái tử vẫn
giữ giới pháp, lại đặc biệt tôn lễ sư. Trải qua sáu
năm, vào năm Canh Thân, Thế Tổ bèn lên ngôi báu.
Trong năm đầu vua vừa lên ngôi (tức Chí Nguyên
nguyên niên) tôn sư lên làm quốc sư, trao cho ấn
ngọc, nhậm chức pháp chủ Trung Nguyên (toàn
Trung Hoa), thống lãnh đạo Phật trong thiên hạ,
mới lệnh tăng tục phân ty. Năm Kiến Nguyên thứ tư
từ biệt đế về Tây, nhưng chưa tròn tháng năm đã có lệnh của đế vời triệu quay về. Năm thứ bảy niên
hiệu Chí Nguyên nhằm năm Canh Ngọ, đế xuống chỉ
chế tạo chữ quốc gia của Đại Nguyên, sư một mình
ngày đêm vận dụng kiểu vẽ, chẳng bao lâu đã hoàn
thành, rất toại Thánh ý, liền xuống chiếu ban hành,
cả trong triều, ngoài các tỉnh huyện đều tuân lệnh
dùng xài, đến nay trở thành điển chương một đời,
mới thăng sư hiệu là đế sư Đại Bảo Pháp Vương, lại
ban cho ấn ngọc, sau đó lại cũng quay về Tây. Năm
thứ 11 niên hiệu Chí Nguyên, đế lại sai chuyên sứ
triệu vời về. Về sau lại cực lực từ giã để quay về núi,
đế kiên quyết giữ lại mà không được. Ngày 22 tháng
11 năm Kiến Nguyên thứ 17 thì nhập diệt, đế nghe
tin không khỏi chấn động tiếc thương tưởng nhớ,
bèn cho xây tốt-đỗ-ba (tiếng Phạn tốt-đỗ-ba có
nghĩa là cái tháp) tại Kinh sư to lớn bảo tàng chân
thân xá-lợi, trát vách bằng vàng, xưa nay không nơi
nào bì được. (Bài này trích từ trong bia do nhóm các
ông Hàn lâm học sĩ Vương Bàn phụng sắc chỉ soạn
văn bia). Về sau, thăng hiệu là Hoàng Thiên chi hạ,
nhất nhân chi thượng, khai giáo tuyên văn phụ trị
đại Thánh chí đức phổ giác chân trí hựu quốc như ý
pháp vương Tây Thiên Phật tử Đại Nguyên đế sư.
[1117c04] Chương Báo bổn hết.
*
* *
尊祖章第四
[1117c06] 人各祀其祖重其形生之始也。形生始於
愛。然形有時而化。愛有時而盡。惟性之靈然不
昧者不恃生而存。不偕亡而亡。故佛教人必明
性。而後之學者復膠於文言。不得其指歸。猶醫
之善方書而廢藥石。何益哉。及吾祖達磨至。示
以直指之道。而人始廓然。見夫自性之妙不求文
字不資語默。而得於謦欬聲色之外。則吾徒之傳
祖道嗣祖位者。如火之薪水之器。無古今之間毫
髮之異。不猶重於形生之始乎。後百丈大智禪師
又作清規。以居吾徒。而禪林於是乎始。海會端
公謂宜祀達磨於中百丈陪于右。而各寺之開山祖
配焉。見於祖堂綱紀序云。
TÔN TỔ CHƯƠNG ĐỆ TỨ
[1117c06] Nhân các tự kỳ Tổ, trọng kỳ hình sanh chi
thỉ dã. Hình sanh thỉ ư ái, nhiên hình hữu thời nhi hóa,
ái hữu thời nhi tận, duy tánh chi linh nhiên bất muội
giả, bất thị sanh nhi tồn, giai tử nhi vong. Cố Phật
giáo nhân tất minh tính, nhi hậu chi học giả mâu ư
văn ngôn, bất đắc kỳ chỉ quy, do y chi thiện phương
thư, nhi phế dược thạch, hà ích tai! Cập ngô tổ Đạt-
ma chí, thị dĩ trực chỉ chi đạo, nhi nhân thỉ khuếch
nhiên kiến phù tự tánh chi diệu, bất cầu văn tự, bất
tư ngữ mặc, nhi đắc ư khánh khái, thanh sắc chi
ngoại, tắc ngô đồ chi truyền Tổ đạo, tự Tổ vị dã, nhi
hỏa chi tân, thủy chi khí, vô cổ kim chi gian hào phát chi dị, bất do trọng ư hình sanh chi thỉ hồ. Hậu Bách
Trượng Đại Trí thiền sư hựu tác Thanh Qui dĩ cư ngô
đồ, nhi Thiền lâm ư thị hồ thỉ. Hải hội đoan công vị
nghi tự Đạt-ma ư trung, Bách Trượng bồi vu hữu, nhi
các tự chi khai sơn Tổ phối diên (kiến ư Tổ đường
cương kỷ tự vân).
CHƯƠNG 4 - TÔN TỔ
[1117c06] Con người ta ai cũng thờ cúng Tổ của
mình, tôn trọng buổi ban đầu hình sanh của Tổ.
Hình sanh ban đầu do nơi ái, nhưng hình có lúc rồi
phải hóa mất, ái có lúc rồi phải dứt tận. Chỉ có linh
nhiên chẳng muội (mờ) của tánh là không cần ỷ nhờ
vào sanh mà tồn tại, cũng chẳng cùng với chết mà
mất. Cho nên người Phật giáo tất minh tánh, mà rồi
học giả đời sau nhầm lẫn nơi văn chương và lời lẽ,
cho nên không được chỉ chỗ quay về, giống như trị
bệnh theo sách thuốc hay mà bỏ thuốc men thì có
ích lợi gì đâu. Kịp khi sơ tổ Bồ-đề-đạt-ma của
chúng ta đến Trung Quốc, chỉ thị đạo trực chỉ (chỉ
thẳng tâm) mà rồi con người mới được rộng thoáng
nhìn thấy diệu dụng của tự tánh, không cần chữ
nghĩa, không nhờ nói - nín, nhưng mà đắc nơi ngoài
tiếng nói - cười (khánh khái) - hình tiếng, thì đó mới
đúng là hàng tu sĩ chúng ta truyền Tổ đạo, nối Tổ vị,
như củi đốt lửa, khí cụ múc nước, trong khoảng xưa
nay chẳng có chút tóc tơ gì khác nhau cả, há chẳng phải trọng ở hình sanh đó sao? Về sau, thiền sư
Bách Trượng Đại Trí lại trước tác sách Thanh Qui
để đặt để chúng ta đúng chỗ mà Thiền lâm nhờ đó
bắt đầu. Các Ngài đứng đắn chốn hải hội cho rằng
nên thờ Đạt-ma ở chính giữa, Bách Trượng bồi đặt
bên phải, còn các người khai sáng chùa thì nên
cùng phối hợp mà thờ vậy (rút ra từ bài tựa sách Tổ
đường cương kỷ).
*
* *
達磨忌
[1117c20] 先期堂司率眾財營供養。請製疏僉疏
(佛涅槃同)隔宿如法鋪設法堂。座上掛真。中間
嚴設祭筵爐瓶香凡。上間設禪椅拂子椸架法衣(設
床榻者非也)下間設椅子經案爐瓶香燭經卷。堂司
行者報眾。掛諷經牌。當晚諷經并覆來日半齋各
具威儀。散忌諷經。參前鳴僧堂鐘。集眾候住持
至。鳴鼓獻特為湯。住持上香三拜。不收坐具。
上湯退身三拜再進。前問訊揖湯。復位二拜收坐
具。鳴鼓三下。行者鳴手磬。維那出班。念誦云
(切以。宗傳直指。忝借潤於餘波。道大難名。愧
聯輝於末裔。仰憑大眾念清淨法身毘盧遮那佛十
號云云)回向云(上來念誦功德。奉為初祖菩提達
磨圓覺大師大和尚。上酬慈廕。十方三世一切云)
畢鳴僧堂鐘三下眾散或請就坐藥石。昏鐘鳴。再
鳴僧堂鐘集眾。住持上香。維那舉楞嚴呪畢。回
向云(淨法界身本無出沒。大悲願力示有去來。仰
冀慈悲俯垂昭鑒。今月初五日伏。值初祖菩提達
磨圓覺大師大和尚示寂之辰。率比丘眾營備香
饌。以伸供養。諷誦大佛頂萬行首楞嚴神呪。所
集殊勳上酬慈廕。伏願。群機有賴。播揚少室之
家風。妙智無窮。成就大乘之根器。十方三世一
切云云)次參頭領眾行者排列。喝參禮拜諷經。人
僕排列參拜。次日早住持上香禮拜。上湯上粥座
下側坐陪食。粥罷住持上香上茶。維那舉大悲呪
畢。回向(上來諷經功德。奉為初祖菩提達磨圓覺
大師大和尚。上酬慈廕。十方三世云云)半齋鳴僧
堂鐘集眾。向祖排立。住持上香三拜。不收坐
具。進爐前。上湯上食請客侍者供遞。俟燒香侍
者就祖位側捧置几上。退就位三拜。仍進前燒香
下嚫畢。三拜收坐具。鳴鼓講特為茶(如湯禮)畢
住持拈香有法語。行者鳴鈸。維那出班。揖住持
上香。侍者捧香合。次東堂西堂兩序出班上香。
大眾同展三拜。維那白云(淨法界身本無出沒。大
悲願力示有去來)宣疏住持跪爐。次舉楞嚴呪畢。
回向(上來諷經功德。奉為初祖菩提達磨圓覺大師
大和尚。上酬慈廕。十方三世云云)次行者諷經。
疏語
[1118a20] 大哉正傳紹覺皇之宗裔。廓然無聖 破
義學之膏肓。百川到海逈絕異流杲日麗天罄無側
影指人心而成佛成佛同心契妙道以忘言。忘言見
道。有大功於世教。宜廣振於宗風現濁世優曇
華。實為鼻祖取神州大乘器。盡入彀中。適逢瘞
履之辰。爰效采蘩之薦。伏願信衣表佛祖之重力
任千鈞一花開天地之春。芳聯萬世。
ĐẠT-MA KỴ
[1117c20] Tiên kỳ đường ty suất chúng tài dinh cúng
dường. Thỉnh chế sớ, kiểm sớ (Phật niết-bàn đồng).
Cách túc như pháp phô thiết pháp đường. Tòa thượng
quải chân, trung gian nghiêm thiết tế diên, lô, bình,
hương, kỷ. Thượng gian thiết Thiền ỷ, phất tử, di giá
pháp y. (Thiết sàng tháp giả, phi dã). Hạ gian thiết ỷ
tử, kinh án, lô, bình, hương, chúc, kinh quyển. Đường
ty hành giả báo chúng, quải phúng kinh bài. Đương
vãn phúng kinh tính phúc lai nhật bán trai các cụ uy
nghi, tán kỵ phúng kinh. Tham tiền minh tăng đường
chung, tập chúng hậu trụ trì chí, minh cổ hiến đặc vi
thang. Trụ trì thượng hương tam bái, bất thu tọa cụ,
thượng thang, thoái thân tam bái, tái tấn tiền vấn tấn,
ấp thang, phục vị tam bái, thu tọa cụ. Minh cổ tam hạ,
hành giả minh thủ khánh. Duy-na xuất ban, niệm tụng
vân: “Thiết dĩ, Tông truyền trực chỉ, thiểm tá nhuận ư
dư ba. Đạo đại nan danh, quý liên huy ư mạt duệ,
ngưỡng bằng đại chúng niệm thanh tịnh pháp thân Tỳ-
lô-giá-na Phật thập hiệu v.v…”. Hồi hướng vân:
“Thượng lai niệm tụng công đức, phụng vi sơ Tổ Bồ- đề-đạt-ma Viên Giác đại sư đại Hòa thượng, thượng
thù từ ấm, thập phương tam thế nhất thiết v.v…”. Tất,
minh tăng đường chung tam hạ. Chúng tán hoặc thỉnh
tựu tòa dược thạch. Hôn chung minh, tái minh tăng
đường chung tập chúng. Trụ trì thượng hương, duy-na
cử Lăng nghiêm chú tất, hồi hướng vân: “Tịnh pháp
giới thân bổn vô xuất một. Đại bi nguyện lực thị hữu
khứ lai. Ngưỡng ký từ bi, phủ thùy chiêu giám. Kim
nguyệt sơ ngũ nhật, phục trị sơ tổ Bồ-đề-đạt-ma Viên
Giác đại sư đại Hòa thượng thị tịch chi thần. Suất tỷ-
kheo chúng dinh bị hương, soạn, dĩ thân cúng dường.
Phúng tụng Đại Phật đảnh vạn hạnh thủ Lăng nghiêm
thần chú. Sở tập thù huân, thượng thù từ ấm. Phục
nguyện, quần cơ hữu lại, bá dương Thiếu Thất chi gia
phong; diệu trí vô cùng, thành tựu Đại thừa chi căn khí.
Thập phương tam thế nhất thiết v.v…”. Thứ tham đầu
lãnh chúng hành giả bài liệt, hát tham lễ bái phúng
kinh. Nhân bộc bài liệt tham bái. Thứ nhật tảo, trụ trì
thượng hương lễ bái, thượng thang, thượng chúc, tòa
hạ trắc lập bồi thực. Chúc bãi, trụ trì thượng hương,
thượng trà. Duy-na cử Đại bi chú tất, hồi hướng:
“Thượng lai phúng tụng công đức, phụng vi sơ Tổ Bồ-
đề-đạt-ma Viên Giác đại sư đại Hòa thượng, thượng
thù từ ấm, thập phương tam thế v.v…”. Bán trai minh
tăng đường chung tập chúng, hướng Tổ bài lập. Trụ trì
thượng hương tam bái, bất thu tọa cụ, tấn lô tiền thượng thang, thượng thực. Thỉnh khách thị giả cung
đệ. Sĩ thiêu hương thị giả tựu Tổ vị trắc phủng trí kỷ
thượng, thoái tựu vị tam bái, nhưng tấn tiền, thiên
hương, hạ sấn tất, tam bái thu tọa cụ, minh cổ giảng
đặc vi trà (như thang lễ) tất, trụ trì niêm hương, hữu
pháp ngữ. Hành giả minh bạt, duy-na xuất ban ấp trụ
trì thượng hương. Thị giả phủng hương hiệp, thứ Đông
đường-Tây đường, lưỡng tự xuất ban thượng hương.
Đại chúng đồng triển tam bái, duy-na bạch vân: “Tịnh
pháp giới thân bổn vô xuất một, đại bi nguyện lực thị
hữu khứ lai”. Tuyên sớ, trụ trì quỵ lô. Thứ cử Lăng
nghiêm chú tất hồi hướng: “Thượng lai phúng kinh
công đức, phụng vi sơ tổ Bồ-đề-đạt-ma Viên Giác đại
sư đại Hòa thượng, thượng thù từ ấm, thập phương tam
thế v.v…”. Thứ hành giả phúng kinh.
Sớ ngữ:
[1118a20] Đại tai chánh truyền, thiệu Giác Hoàng
chi tông duệ
Khuếch nhiên vô Thánh, phá nghĩa học chi cao hoang
Bách xuyên đáo hải huýnh tuyệt dị lưu
Cảo nhật lệ thiên, khánh vô trắc ảnh
Chỉ nhân tâm nhi thành Phật, thành Phật đồng tâm
Khế diệu đạo dĩ vong ngôn, vong ngôn kiến đạo
Hữu đại công ư thế giáo
Nghi quảng chấn ư Tông phong
Hiện trọc thế ưu-đàm hoa, thật vi Tị Tổ Thủ thần châu Đại thừa khí, tận nhập cấu trung
Thích phùng ế lý chi thần
Viên hiệu thái (thải) phiền chi tiến
Phục nguyện,
Tín y biểu Phật Tổ chi trọng, lực nhiệm thiên quân
Nhất hoa khai thiên địa chi xuân, phương liên vạn thế.
GIỖ KỴ TỔ SƯ BỒ-ĐỀ-ĐẠT-MA
[1117c20] Trước ngày giỗ, đường ty quyên tiền đại
chúng dinh biện cúng dường, thỉnh mời chế (viết) sớ
và kiểm sớ (cũng giống như ở lễ Phật bát Niết-bàn).
Cách ngày lễ một đêm, y theo phép tắc thiết đặt, trang
trí pháp đường. Trên pháp tòa treo chân dung của Tổ
sư, ngay giữa pháp tòa thiết đặt nghiêm túc đầy đủ
tiệc tế, lư hương, tịnh bình và bàn đặt lư hương. Bên
mé phải đặt ghế Thiền, cây xơ quất (phất tử), giá
máng pháp y (thiết đặt giường chõng là sai vậy). Mé
bên trái thiết đặt ghế Thiền, bàn để kinh, lư hương,
tịnh bình, hương, đèn cầy và các quyển kinh. Hành giả
đường ty thông báo đại chúng treo bài hiệu (bảng hiệu)
Tụng kinh, ngay đêm đó tụng kinh và bẩm báo đại
chúng hôm sau vào lúc giữa giờ dùng cháo và cơm
trưa (bán trai) ai ai cũng cụ bị oai nghi, bày lễ vật mà
giỗ kỵ cùng tụng kinh. Trước vãn tham đánh chuông
trước tăng đường, tập họp chúng chờ trụ trì đến, gióng
trống đặc biệt hiến thang thủy. Trụ trì dâng hương lạy
ba lạy, không cuốn thâu tọa cụ. Dâng bày thang thủy, lui người lạy ba lạy rồi lại tiến tới trước vái chào vấn
an xong thỉnh mời dùng thang thủy, quay về vị trí lạy
ba lạy, cuốn thâu tọa cụ, gióng trống ba tiếng. Hành
giả đánh khánh cầm tay, duy-na rời khỏi ban, niệm
tụng rằng: “Thiết nghĩ, Thiền tông truyền trực chỉ
nhân tâm (kiến tánh thành Phật). Phận hèn mọn mượn
chút nước rịn của sóng to dư sót lại. Đạo to lớn không
thể gọi tên được, hổ thẹn liền ánh sáng rạng rỡ nơi
hậu duệ cuối chót. Kính mong nhờ đại chúng niệm
pháp thân thanh tịnh Tỳ-lô-giá-na Phật hiệu 10 lần!
v.v…”, rồi hồi hướng rằng: “Công đức niệm tụng vừa
rồi, phụng vì sơ tổ Bồ-đề-đạt-ma Viên Giác đại sư đại
Hòa thượng, hầu báo đáp bóng rợp từ bi mười phương
ba đời chư Phật v.v…”.
Hồi hướng xong, thỉnh ba tiếng chuông tăng đường,
chúng phân tán hết hoặc mời thỉnh về trai đường
dùng cơm tối. Khi chuông báo tối đánh lên, lại dộng
chuông tăng đường tập họp chúng. Trụ trì dâng
hương, duy-na đọc chú Lăng nghiêm. Đọc chú xong,
hồi hướng rằng: “Thân pháp giới thanh tịnh vốn
không có xuất hiện và mất đi, nhưng vì nguyện lực
đại bi mà thị hiện có tới lui. Ngẩng đầu trông mong
từ bi, cúi đầu xin chiêu giám. Ngày mùng 5 tháng
này, phục duy gặp ngày thị tịch của sơ tổ Bồ-đề-đạt-
ma Viên Giác đại sư đại Hòa thượng. Suất lãnh
chúng tỉ-kheo dinh bị hương và cơm thịnh soạn để biểu thị cúng dường, tụng đọc thần chú Đại Phật
đảnh vạn hạnh thủ Lăng nghiêm. Thù huân gom góp
được nhằm báo đáp bóng râm từ bi. Phục nguyện
quần cơ được nhờ cậy, truyền bá tuyên dương gia
phong của Thiếu Thất, diệu trí vô cùng, thành tựu
căn khí Đại thừa, mười phương ba đời, tất cả chư
Phật v.v…”. Kế đó, tham đầu suất lãnh chúng hành
giả đứng xếp hàng, cao giọng nói: “Tham, lễ bái,
tụng đọc kinh chú”, nhân viên tuỳ tùng đứng sắp
hàng tham bái. Sáng hôm sau, trụ trì dâng hương lễ
bái, dâng bày thang thủy, dâng bày cháo cúng, bên
mé pháp tòa ngồi ăn và bầu bạn. Dùng cháo xong
trụ trì dâng hương, dâng trà. Duy-na đọc chú Đại bi,
hồi hướng rằng: “Công đức đọc tụng kinh vừa rồi,
phụng vì sơ tổ Bồ-đề-đạt-ma Viên Giác đại sư đại
Hòa thượng, hầu báo đáp bóng râm từ bi, mười
phương, ba đời tất cả chư Phật v.v…”. Vào giữa giờ
cháo sáng và cơm trưa (bán trai điểm tâm), thỉnh
chuông tăng đường tập họp đại chúng, hướng về
chân dung Tổ đứng sắp hàng. Trụ trì dâng hương
lạy ba lạy, không cuốn thâu tọa cụ, tiến tới trước lư
hương, dâng bày thang thủy, cơm cúng. Thị giả
thỉnh khách cung kính dâng lên, đợi thị giả đốt
hương đến bên cạnh Tổ vị bưng đồ cúng dâng lên
đặt trên bàn, trụ trì thoái lui về vị trí lạy ba lạy, lại
tiến tới trước đốt hương ban phát tài vật bố thí xong
lạy ba lạy, cuốn thâu tọa cụ, đánh trống đặc vì Tổ dâng trà (cũng như dâng thang thủy). Xong trụ trì
dâng hương rồi ban pháp ngữ. Hành giả giập chập
chỏa (não bạt), duy-na bước ra khỏi ban, vái chào
mời trụ trì dâng hương. Thị giả bưng hộp hương. Kế
đó, Đông đường – Tây đường và lưỡng tự bước ra
khỏi ban dâng hương. Đại chúng cùng trải tọa cụ
giập đầu lạy ba lạy, duy-na bẩm bạch rằng: “Thân
pháp giới thanh tịnh vốn không có xuất hiện và mất
đi, nhưng vì nguyện lực đại bi mà thị hiện có tới lui”.
Duy-na tuyên đọc sớ xong, trụ trì quì trước lư hương,
kế duy-na đọc tụng chú Lăng nghiêm, xong hồi
hướng rằng: “Công đức tụng niệm kinh chú vừa rồi
phụng vì sơ tổ Bồ-đề-đạt-ma Viên Giác đại sư đại
Hòa thượng để báo đáp bóng râm từ bi. Mười
phương ba đời tất cả chư Phật v.v…”. Kế đến, hành
giả phúng tụng kinh.
Lời văn của sớ:
[1118a20] To lớn thay chánh truyền, nối dòng dõi
Giác Hoàng
Trống trơn vô Thánh, phá ách yếu nghĩa học
Trăm dòng sông ra ngoài biển, dứt tuyệt mọi dòng
chảy khác nhau
Mặt trời sáng treo trên không, chẳng còn các hình
ảnh riêng rẽ
Chỉ thẳng tâm người mà thành Phật, thành Phật
đồng tâm Khế hợp đạo diệu mà quên lời, quên lời thấy đạo
Lập công to với thế giáo
Chấn động rộng nơi Tông phong
Hiện bóng hoa ưu-đàm tại đời bẩn, đúng làm Tổ
ban đầu
Nắm khí vận Đại thừa nơi Trung Quốc, trọn nhập
vào khuôn khổ
Vừa gặp ngày chôn giày
Bèn dâng lễ cúng rau
Cúi xin,
Tín y biểu thị, việc lớn của Phật-Tổ, sức giở ngàn cân
Một hoa nở xòe, mùa xuân của trời đất, thơm liền
muôn năm.
*
* *
[1118a29] 祖師南天竺國香至王第三子也。姓剎帝
利。本名菩提多羅。後遇二十七祖般若多羅尊
者。知師密跡。因試令與二兄辯所施寶珠。發明
心要。既而尊者謂曰。汝於諸法已得通量。夫達
磨者通大之義也。宜名達磨。因改名菩提達磨。
師乃告尊者曰。我既得法。當往何國而作佛事。
願垂開示。尊者曰。汝雖得法未可遠遊。且止南
天。待吾滅後六十七載。當往震旦設大法藥直接
上根。慎勿速行衰於日下。梁普通八年丁未歲九
月二十一日至南海。廣州刺史蕭昂表聞武帝。帝
遣使詔迎。十月一日至金陵與帝語。不契。是月
Chia sẻ với bạn bè của bạn: |