U
Uy Âm vương (威音王 S. Bhīṣma-garjitasvara-rāja). Cũng
gọi: Tịch thú âm vương Phật. Danh hiệu của đức Phật đầu tiên
của kiếp Trang nghiêm trong quá khứ.
Ưu-bát-la hoa ((優鉢羅華): ưu-bát-la (skt: utpala, p: uppala)
cũng còn gọi là ô-bát-la hoa, dịch theo ý là hoa sen xanh.
Ưu Điền vương (優填王): Ưu Điền (Skt: Udayana), còn gọi là
Ưu-đà-diên Vương, Ổ-đà-diễn-na Vương v.v…, dịch theo ý là
NhậtTử Vương, Xuất Ái Vương, là vua nước Kiều-thưởng-di.
Thời Phật còn tại thế, nhân vì vương dốc lòng thành tin Phật
pháp nên trở thành đại ngoại hộ của Phật-đà.
Ứng khí (應器): là đồ đựng thức ăn chính thức của tăng lữ đó
là bình bát kim loại, có nhiều hàm nghĩa ứng pháp, ứng thụ
cúng dường, ứng sức ăn của mình mà ăn.
V
Vãng sanh (往生) (S. 194): chỉ cho linh hồn được hóa sanh
trong hoa sen ở Tây phương Cực lạc.
Văn-thù Sư-lị (文 殊 師 利; S: mañjuśrī) tên dịch theo âm,
thường được gọi tắt là Văn-thù, dịch nghĩa là Diệu Ðức (妙
德), Diệu Cát Tường (妙 吉 祥), cũng có lúc được gọi là Diệu
Âm (妙 音; s: mañjughoṣa); Một vị Bồ Tát tượng trưng cho trí
huệ, một trong những vị Bồ tát quan trọng của Phật giáo. Lần
đầu tiên người ta nhắc đến Văn-thù trong tác phẩm Văn-thù Sư-
lị căn bản nghi quĩ (s: ārya-mañjuśrī-mūlakalpa) ở thế kỉ thứ 4.
Tranh tượng trình bày Văn-thù với lưỡi kiếm và kinh Bát-nhã
ba-la-mật-đa, được vẽ khoảng ngang đầu. Người ta xem đó là
biểu tượng trí huệ phá đêm tối của Vô minh.
Vân đường (雲堂) Cũng gọi Tăng đường chỉ cho nơi tăng
chúng nhóm hợp đông như mây nên gọi là Vân đường (nhà
mây). Vân đường cũng còn chỉ cho “Vân thủy” nơi nhóm hợp tu
hành. Ngoài ra những qui tắc mà hàng ngày chư tăng tu hành
trong tăng đường phải tuân thủ goi là: “Vân đường thường qui”.
Vân Hà Phạm (云何梵) (S. 315): còn gọi Vân hà bái là một
loại kinh văn tụng bằng tiếng Phạm. Vì trong kinh Niết-bàn
quyển 3, câu đầu dùng 2 chữ “vân hà” mà có tên như thế.
Vân Môn (雲門) (S. 222): tức thiền sư Văn Yển, ở núi Vân
Môn vào cuối đời Đường, Ngài họ Trương, người Cô Tô, Gia
Hưng (nay là phía Nam huyện Gia Hưng tỉnh Chiết Giang), đắc
pháp với thiền sư Tuyết Phong Nghĩa Tồn, về sau sống tại núi
Vân Môn thuộc Thiều Châu, (nay là Quảng Đông, Thiều
Quan), đã khai sáng tông Vân Môn rất nổi tiếng.
Vấn khởi cư (問起居): tức là thăm hỏi xã giao sức khỏe, sinh
hoạt ăn uống ngủ thức trong ngày có tốt không.
Vấn tấn (問訊) (S. 25): lễ nghi của Phật giáo, như chắp tay
xá chào, thăm hỏi sức khỏe, gọi là Vấn tấn.
Vi trần sát (微塵剎): là tiếng gọi tắt của vi trần sát độ. Vi trần
(Skt, P: anu-raja), gọi tắt là vi hay trần, tức sắc lượng nhỏ nhất
mà nhãn căn nhiếp thủ được, chỉ cho sắc pháp nhỏ nhiệm nhất.
Sát là tiếng gọi tắt của sát độ, sát nghĩa đen là ruộng đất, đất
nước, xứ sở. Sát độ chỉ cho quốc độ, nói chung là chỉ cho đất
nước. Sát (Skt: ksetra), dịch theo âm là sai-đa-la. Vậy vi trần
sát là quốc độ thật là nhiều như bụi trần nhỏ li ti vậy.
Vị bài (位牌): thường quen gọi là bài vị, cũng còn gọi là thần
bài, thần bản, chủ bài, tức là tấm bài làm bằng gỗ hình thức
trang trí có hoa văn lộng lẫy, dùng để ghi tên – họ và chức vụ
của người chết.
Viên cơ (圓機): cơ duyên tròn đầy.
Viên đầu (園頭) Chức vụ phụ trách trông coi vườn tược, việc
trồng trọt rau trái trong Thiền lâm.
Viên Giác kinh (圓覺經) (S. 367): gọi đủ là Đại phương
quảng viên giác tu-đa-la liễu nghĩa kinh, 1 quyển, do sa-môn
Phật-đà-la, nước Kế Tân dịch vào đời Đường, là một trong
những bộ kinh quan trọng của tông Hoa Nghiêm, Thiên Thai,
Thiền tông, giảng giải hướng dẫn người tu tập rất thịnh hành
vào đời Đường, Tống, Minh trở lại đây.
Viên minh (圓覺經)): chỉ thể tánh trong sáng tròn đầy hoặc
cảnh giới trong sáng tròn đầy sau khi ngộ.
Viên Ngộ (圓悟) (S.168): vị thiền sư nổi tiếng ở giữa thời
lưỡng Tống, họ Lạc, tự Vô Trước, người Bành Châu (nay là
huyện Bành Châu, tỉnh Tứ Xuyên). Được hai vua Tống Huy
Tông và Tống Cao Tông kính trọng ban cho hiệu là Viên
Ngộ, từng trụ trì nhiều ngôi chùa nổi tiếng. Ngài viên tịch
vào năm thứ năm niên hiệu Thiệu Hưng (1135 CN) thọ 73
tuổi, được vua ban thụy hiệu là Chơn Giác thiền sư. Ngài đã
trước tác Bích Nham lục gồm 100 quyển.
Viên phu (園夫) (S. 257): người chăm sóc, trông coi vườn rau
trong thiền lâm.
Viên Thông (圓通) (S. 365): vị thiền sư thời Cổ đại, hành
trạng của Ngài không rõ.
Võng thố (罔措): bất lực chẳng làm gì được trước một vấn đề
thì gọi là võng thố, tức là há hốc mồm bó tay chịu trận không
biết phải làm sao.
Vọng liêu (望寮): người phòng hờ (réserve) để thay thế ngay
cho chức phó liêu.
Vô Chuẩn Hòa thượng (無凖和尙): Thiền tăng danh tiếng đời
Tống tên là Sư Phạm, hiệu Vô Chuẩn, thụy hiệu Phật Giám.
Vô minh (無明) (S. 64): là si ám, đối với các sự lý còn mê
mờ chưa giác ngộ.
Vô ngã, vô nhân (無我無人): Phật giáo cho rằng tất cả mọi
sự vật trên thế giới đều không có tự thể thực tại độc lập,
trong đó vô ngã, vô nhân là ý nói con người không có chủ thể
tự tại thường hằng.
Vô sanh (無生) (S.165): cùng nghĩa với các từ Niết-bàn, Thật
tướng, Pháp tánh… . Nhà Phật cho rằng tất cả các hiện tượng
sanh diệt, biến hóa đều do sự phân biệt hư vọng của chúng
sanh trong thế gian mà có, bản chất của nó vốn là không
sanh, không diệt.
Vô sanh nhẫn (無生忍): là từ nói tắt của vô sanh pháp nhẫn,
Skt là anutpattika-dharma-ksànti, nghĩa là quán lý chư pháp
vô sanh vô diệt mà nhận rõ, trong tư thế an trụ không động
tâm, cũng còn gọi là vô sanh nhẫn pháp, tu tập vô sanh nhẫn,
là một trong 3 nhẫn.
Vô thường (無常: Skt: Anitya, Anityatà, P: anicca), là từ đối
lâp với thường trụ, cho rằng tất cả pháp hữu vi luôn sanh diệt,
dời đổi, không thường trụ, đều do nhân duyên sanh, nương
theo 4 tướng sanh – trụ – dị – diệt mà sanh diệt trong khoảng
sát-na, đó là trước vốn không nay có, nay có sau không nên
gọi chung là vô thường.
Vô thường kệ (無常偈) (S.159): bài kệ về bốn sự chẳng
thường ở trong kinh “Nhân vương”, gồm bốn tiết, mỗi tiết có
hai kệ, phân biệt và trình bày rõ về ý nghĩa vô thường, khổ,
không, vô ngã. Tinh thần cơ bản là nói rõ đời người vô thường.
Vô thường tấn tốc (無常迅速): vô thường tức là hàm ý mọi sự
– mọi vật đều không thường hằng mà luôn trải qua thành – trụ
– hoại – không, nhân đó vô thường cũng dùng để chỉ cho cái
chết. Vậy vô thường tấn tốc ý nói là cái chết của con người
đến chóng vánh, cho nên phải lo tu để liễu thoát sanh tử.
Vô tri (無知): là kẻ không biết lường trước ảnh hưởng gây ra bởi
lời lẽ hành vi của mình mà cứ nhắm mắt làm xằng nói bậy.
Vu Lan bồn (盂蘭盆 S. Ullambana) Hán dịch là đảo huyền, cũn
gọi vu lan bồn hội, chỉ cho nghi thức cầu siêu độ cho tổ tiên, ôn
bà, cha mẹ, thân thuộc nhiều đời, được cử hành vào ngày rằ
tháng bảy âm lịch hàng năm căn cứ theo lời Phật dạy trong kin
Vu lan bồn tại các khu vực theo Phật giáo thuộc hệ thống Hán.
Vũ Đế (武帝): tức là Lương Vũ Đế (464 – 549), người Giang
Tô Vũ Tấn, họ Tiêu tên Diễn, tự Thúc Đạt, nguyên là Thứ sử
Ung Châu của triều Nam Tề, soán ngôi lập ra nhà Lương, trị
nước thật tốt, lại đốc tín Phật giáo, có hiệu là Hoàng đế Bồ-
tát, độ tăng, xây chùa, in kinh, công đức rất lớn nhưng không
ngộ được Thiền pháp của Đạt Ma. Sau bị Hầu Cảnh khởi
binh bao vây, chết đói tại Đài Thành, thọ 86 tuổi.
Vũ phu (碔砆): cũng viết là (珷砆), tức là các loại đá tuy
cũng có nét đẹp như ngọc, nhưng không phải là ngọc, luôn bị
người mài ngọc loại bỏ.
X
Xá-lợi-phất (舍利弗;; skt: Sariputra), tên gọi tắt của Xá-lợi-
phất-đa-la, xưa dịch là Xa-lợi-phất, Phú-đa-la, Xa-lợi-bổ-đát-la
v.v…, dịch ý là Thu Lộ Tử (鶖露子) Thu Lộ Tử (鶖露子).
Người Thành Vương Xá, nước Ma-kiệt-đà thuộc Ấn Độ cổ, dòng
dõi Bà-la-môn, là một trong mười đệ tử lớn của Đức Thích-ca
Mâu-ni; nhờ trì giới, học rộng mà có được trí huệ bén nhạy,
khéo giảng Phật pháp nên được xưng là Trí tuệ đệ nhất.
Xuẩn động hàm linh (蠢動含靈): xuẩn động là chỉ cho loài sâu
bọ ngoe nguậy, hàm linh còn gọi là hàm thức, hàm ý có linh
thức, tức là loài hữu tình. Kinh Đại bảo tích chép: “Giả lệnh tam
giới chư hàm linh, nhất thất biến Thanh văn thừa”. Nói chung,
xuẩn động hàm linh là chỉ chung cho mọi loài hữu tình.
Xuất sanh (出生): trong Tăng đường Thiền lâm, trước khi thọ
trai, lấy vài hạt “sanh phạn” bố thí cho quỷ thần gọi là xuất
sanh. Sanh phạn không có nghĩa là cơm sống, mà là cơm bố
thí cho quỷ thần, là từ gọi gọn của chúng sanh thực phạn, có
các từ liên quan là xuất sanh đài, gọi gọn là sanh đài, xuất
sanh kệ. Nay gọi là xuất thực.
Xuất toàn đơn (出全單): Tăng chúng rời khỏi hẳn tăng đường
gọi là xuất toàn đơn, còn nếu chỉ đứng lên rời vị trí tiễn đưa
Tôn túc mà không ra khỏi tăng đường gọi là xuất bán đơn.
Xúc lễ (觸禮)) (S. 42): dùng tọa cụ đặt trên đất để thể hiện
nghi thức khấu đầu. Gọi tắt là bái, tức lễ bái, lễ nhanh, chỉ
việc xếp đôi tọa cụ giập trên đất hành lễ.
Xương bồ trà (菖蒲茶): Trà xương bồ. Một loại cỏ có mùi
thơm nồng, dung làm thuốc. Theo phong tục, cứ đến ngày
mồng năm tháng năm lấy lá xương bồ cắt thành hình kiếm treo
trước cữa để trừ tà.
Xướng thực (唱食): trong chùa Thiền lâm trước khi dùng
cơm cháo phải tụng kệ chúc nguyện, kệ dùng cơm và kệ
dùng cháo đều khác nhau.
Y
Y bát (衣鉢) (S. 63): Vốn chỉ cho Ca-sa và Bát làm bằng
thiết, là những vật quan trọng nhất trong những vật dụng cá
nhân của chư Tăng. Nghĩa rộng gọi chung cho những tài vật
riêng của chư Tăng.
Y bát hành lý (衣鉢行李): nghĩa như y bát, ở đây gọi chung
tài vật của trụ trì thiên hóa để lại.
Y bát thị giả (衣鉢侍者): là thị giả thân cận luôn phục thị
bên mình trụ trì, chủ yếu là quản lý tiền bạc, vải lụa.
Yêu bạch (腰帛) (S.172): còn viết là Yêu bạch (??), tức là
dây khăn tang trắng mang ở thắt lưng.
Yêu bao, đỉnh lạp (腰包頂笠)): tức tăng lữ thời xưa đi đường
xa đầu đội nón mê (lạp), còn lưng thì đeo ruột tượng đựng
gạo ăn theo đường.
Yêu mô [妖摹(蟆)]: mô là con hà mô [[蝦蟆(摹)], tức là con
ễnh ương thuộc loài cóc nhái. Theo truyền thuyết trên mặt
trăng có con cóc, tức là con thiềm thừ (蟾蜍), đó là các vệt
đen hiện trên mặt trăng. Ở đây, tác giả viết con ễnh ương
cũng có nghĩa tương đương như con cóc vậy. Yêu mô tức là
con ễnh ương yêu tinh làm lu mờ mặt trăng.
*
* *
HẾT
Chia sẻ với bạn bè của bạn: |