chung’. Dân hoàn cụ văn Hậu Chủ. Nhân tạo đại
chung ư Thanh Lương tự, tuyên viết tiến liệt tổ Hiếu
Cao hoàng đế thoát u, xuất ách.”
CHUÔNG ĐỂ Ở CHÁNH ĐIỆN
[1155c07] Vào các buổi sáng và tối, khi Trụ trì vào
thắp hương, đánh bảy tiếng chuông này. Thông
thường khi tập hợp tăng chúng lên chánh điện thì đánh chuông này nối tiếp với chuông ở tăng đường,
và do Duy-na điều khiển.
[1155c10] Truyện Cảm thông kể rằng: “Đức Phật
Câu-lưu-tôn khi ở viện Càn Trúc Tu-đa-la có chế tạo
một cái chuông bằng đá xanh. Vào lúc mặt trời xuất
hiện có các vị Hóa Phật cùng xuất hiện một lần với
mặt trời, đã bí mật tuyên thuyết hiển giáo, và được
xếp thành mười hai thể loại Kinh điển. Những người
được nghe giáo pháp này chứng đắc Thánh quả
không thể kể xiết”.
Kinh Tăng nhất A-hàm cũng nói: “Khi đánh chuông, tất
cả mọi nỗi khổ trong đường ác đều được ngừng lại”.
Còn sách Kim lăng chí viết: “Thuở ấy, có một người
dân bị chết đột ngột, xuống cõi âm ty, thấy một người
bị gông cùm bằng năm thanh gỗ nói với ông: ‘Ta là
tiên chúa của Nam Đường, vì ta giết nhầm quân
Tống Tề và quân đầu hàng của một châu mà đến nỗi
này. Mỗi lần được nghe tiếng chuông thì sự đau khổ
của ta tạm thời chấm dứt. Nhờ ngươi khi trở về
dương thế nói với tự quân (vua kế ngôi) đúc đại
Hồng chung mà đánh để giúp ta bớt khổ’. Tên dân ấy
khi được sống lại, trở về dương thế, thuật lại đầy đủ
với Hậu chúa. Nhân đó, Hậu chúa cho đúc đại Hồng
chung treo tại chùa Thanh Lương, trên chuông khắc
hàng chữ “Kính dâng liệt tổ khảo cao hoàng đế thoát
cảnh u đồ, lìa nơi ách nạn”.
*
版
[1155c21] 大版齋粥二時長擊三通。木魚後三下
疊疊擊之。謂之長版。念誦楞嚴會儆戒火燭。各
鳴三下。報更則隨更次第擊之。方丈庫司首座寮
及諸寮。各有小版。開靜時皆長擊之。報眾時各
鳴[7]二下。眾寮內外各有版。外版每日大眾問訊
時三下。坐禪坐參時各三下。候眾歸堂次第鳴
之。點茶湯時長擊之。內版掛搭歸寮時三下。茶
湯行盞二下。收盞一下。退座三下。小座湯長擊
之。
BẢN
[1155c21] Đại bản trai chúc nhị thời trường kích tam
thông. Mộc ngư hậu tam hạ điệp điệp kích chi, vị chi
trường bản. Niệm tụng Lăng nghiêm hội, cảnh giới
hoả chúc, các minh tam hạ, báo canh tắc tuỳ canh thứ
đệ kích chi. Phương trượng, Khố ty, Thủ toạ liêu cập
chư liêu, các hữu tiểu bản, khai tĩnh thời giai trường
kích chi, báo chúng thời các minh nhị hạ. Chúng liêu
nội ngoại các hữu bản. Ngoại bản mỗi nhật đại chúng
vấn tấn thời tam hạ, toạ thiền, toạ tham thời các tam
hạ, hậu chúng quy đường thứ đệ minh chi, điểm trà
thang thời trường kích chi. Nội bản quải đáp qui liêu
thời tam hạ, trà thang hành trản nhị hạ, thu trản nhất
hạ, thoái toà tam hạ. Tiểu toà thang trường kích chi.
BẢN
[1155c21] Bản lớn dùng để đánh vào hai bữa cơm và
cháo. Sau khi đánh ba tiếng mõ thì tiếp đánh ba hồi
bản dài, gọi là trường bản. Lúc tụng kinh Lăng nghiêm
hay cảnh giác về việc củi lửa thì đánh ba tiếng, còn khi
báo canh thì tùy theo canh giờ tuần tự mà đánh. Tại
phòng phương trượng, Khố ty, liêu Thủ tọa và các liêu
của đại chúng đều có loại bản nhỏ. Bản này, khi khai
tĩnh (đánh thức chúng) thì đánh một hồi dài, khi thông
báo cho đại chúng thì đánh ba tiếng. Các liêu của tăng
chúng đều có hai loại bản, bản để trong liêu và bản đặt
ngoài liêu. Bản đặt ngoài liêu, hằng ngày khi đại chúng
vấn an nhau, đánh ba tiếng; khi đại chúng vào Thiền
đường, ngồi thiền, tham vấn đều tuần tự đánh ba tiếng;
còn lúc đãi trà nước thì đánh một hồi dài. Bản để trong
liêu dùng khi quải đáp, lúc đại chúng trở về liêu phòng,
đánh ba tiếng; lúc đem ly tách ra để uống trà nước
đánh hai tiếng; lúc thu dọn ly tách đánh một tiếng; lúc
kết thúc tiệc trà nước đánh ba tiếng; còn khi đãi nước
đơn sơ thì đánh một hồi dài.
*
* *
木魚
[1156a02] 齋粥二時長擊二通。普請僧眾長擊一
通。普請請行者二通。
[1156a04] 相傳云。魚晝夜常醒。刻木象形擊
之。所以警昏惰也。
MỘC NGƯ
[1156a02] Trai chúc nhị thời trường kích nhị thông;
phổ thỉnh tăng chúng trường kích nhất thông; phổ
thỉnh thỉnh hành giả nhị thông.
[1156a04] Tương truyền vân: “Ngư trú dạ thường
tỉnh, khắc mộc tượng hình kích chi, sở dĩ cảnh hôn
noạ dã.”
MÕ
[1156a02] Loại mõ này dùng vào các dịp: hai bữa
cơm cháo, đánh hai hồi dài; đợi khi tập họp tăng
chúng để lao động tập thể, đánh một hồi dài; khi
triệu tập các hành giả (người làm các tạp sự), đánh
hai hồi.
[1156a04] Có truyền thuyết cho rằng loài cá đêm
ngày thường tỉnh thức, cho nên khắc hình cá vào cây
chày gỗ để đánh thì sẽ cảnh tỉnh được sự hôn trầm và
lười biếng.
*
* *
椎
[1156a07] 齋粥[1]二時。僧堂內開鉢。念佛唱食
遍食。施財白眾皆鳴之。維那主之。下堂時聖僧
侍者鳴之。知事告退時。請知事時亦鳴之。住持
入院開堂將說法時。諸山上首鳴之。謂之白椎
也。
[1156a11] 世尊一日陞座大眾集定。文殊白椎。
云諦觀法王法。法王法如是。世尊便下座。
CHUỲ
[1156a07] Trai chúc nhị thời, Tăng đường nội khai
bát, niệm Phật xướng thực biến thực, thí tài bạch
chúng giai minh chi, Duy-na chủ chi; hạ đường thời
Thánh tăng thị giả minh chi. Tri sự cáo thoái thời,
thỉnh tri sự thời diệc minh chi. Trụ trì nhập viện khai
đường tương thuyết pháp thời, chư sơn Thượng thủ
minh chi. Vị chi bạch chuỳ dã.
[1156a11] Thế Tôn nhất nhật thăng tòa đại chúng tập
định, Văn Thù bạch chuỳ vân: “Đế quán Pháp vương
pháp, Pháp vương pháp như thị.” Thế Tôn tiện hạ tòa.
KIỀN CHUỲ
[1156a07] Loại Kiền chùy này được sử dụng vào các
dịp: Hai thời cơm cháo; lúc mở nắp bát tại tăng
đường; lúc dọn thức ăn, mời ăn, niệm Phật, lúc bạch
chúng bố thí phẩm vật, đều do Duy-na đánh; còn khi
rời khỏi trai đường thì do Thị giả đánh. Và khi Tri sự
nghỉ việc hay nhậm chức cũng sử dụng Kiền chùy
này. Hoặc lúc Trụ trì nhậm chức, lên tòa thuyết pháp,
thì các vị Thượng thủ của các chùa bạn đánh, và
được gọi là bạch chùy.
[1156a11] Một hôm, đức Thế Tôn lên pháp tòa, đại
chúng vân tập đâu đó ổn định, Bồ-tát Văn Thù bạch
chùy rằng: “Hãy quán chiếu cẩn thận pháp yếu của
đấng Pháp vương. Pháp yếu của đấng Pháp vương là
như vậy (chân thật)”. Thế rồi, đức Thế Tôn liền bước
xuống pháp tòa.
*
* *
磬
[1156a14] 大殿早[*]慕住持知事行香時。大眾
看誦經呪時。直殿者鳴之唱衣時。維那鳴之。行
者披剃時作梵闍黎鳴之。小手磬堂司行者常隨
身。遇眾諷誦鳴之。為起止之節。
KHÁNH
[1156a14] Đại điện tảo mộ, Trụ trì Tri sự hành hương
thời, đại chúng khán tụng kinh chú thời, trực điện giả
minh chi; xướng y thời, Duy-na minh chi; hành giả
phi thế thời, tác phạm xà-lê minh chi. Tiểu thủ khánh
Đường ty hành giả thường tuỳ thân, ngộ chúng phúng
tụng minh chi, vi khởi chỉ chi tiết.
KHÁNH
[1156a14] Khánh lớn do Trực điện đánh khi Trụ trì, Tri
sự thắp hương vào hai buổi sớm, tối tại chánh điện, còn
khi làm lễ xướng y thì do Duy-na đánh. Lúc hành giả
cạo tóc xuất gia thì vị xà-lê đọc bằng tiếng Phạn đánh.
Còn chiếc khánh nhỏ thì Đường ty hành giả thường
đem theo bên mình, hễ khi nào gặp tăng chúng tụng
kinh thì đánh lên, vì đây là công cụ dùng làm hiệu lệnh
cho việc khởi đầu và kết thúc các buổi lễ.
鐃鈸
[1156a19] 凡維那揖住持兩序。出班上香時。藏
殿祝贊轉輪時。行者鳴之。遇迎引送亡時。行者
披剃。大眾行道。接新住持入院時。皆鳴之。
NAO BẠT
[1156a19] Phàm Duy-na ấp Trụ trì, Lưỡng tự xuất
ban thượng hương thời, Tạng điện chúc tán chuyển
luân thời, hành giả minh chi. Ngộ nghênh dẫn tống
vong thời, hành giả phi thế, đại chúng hành đạo, tiếp
tân Trụ trì nhập viện thời, giai minh chi.
CHẬP CHÕA
[1156a19] Khi Duy-na vái chào mời Trụ trì, Lưỡng
tự rời vị trí đến thắp hương trước điện Phật, hoặc khi
chuyển pháp luân, chúc tán tại tạng điện đều sử dụng
đến chập chõa và do hành giả đảm trách. Khi tiếp
dẫn vong linh, khi cạo tóc cho hành giả xuất gia, lúc
tăng chúng hành đạo, đón tiếp Trụ trì mới đến nhậm
chức tại Thiền viện đều đánh chập chõa.
*
* *
鼓 法鼓
[1156a23] 凡住持上堂。小參普說入室。並擊
之。擊鼓之法上堂時三通(先輕敲鼓磉二下。然後
重千徐徐擊之。使其緊慢相參。輕重相應。音聲
和暢。起復連環隱隱轟轟若春雷之震螫。第一通
延聲長擊。少歇轉第二通。連聲稍促更不歇聲。
就轉第三通一向纏聲擊之侯。住持登座畢方歇
聲。雙椎連打三下)小參一通。普說五下。入室三
下皆當緩擊。
茶鼓
[1156a27] 長擊一通。侍司主之。
齋鼓
[1156a28] 三通。如上堂時。但節會稍促而已。
普請鼓
[1156a29] 長擊一通。
更鼓
[1156a29] 早晚平擊三通。餘隨更次擊。庫司主
之。
浴鼓
[1156b01] 四通次第候眾擊(其詳見知浴章)知浴主
之。
[1156b02] 已上宜各有常度。毋令失准。若新住
持入院。諸法器一齊俱鳴。
[1156b04] 金光明經云。信相菩薩夜夢金鼓。其
狀姝大其明普照。喻如日光。光中得見十方諸佛
眾寶樹下坐琉璃座。百千眷屬圍繞而為說法。一
人似婆羅門。以枹擊鼓出大音聲。其聲演說懺悔
偈頌。信相菩薩從夢寤已。至於佛所。以其夢中
所見金鼓及懺悔偈。向如來說。又楞嚴經云。阿
難。汝更聽此祇陀園中食辦擊鼓眾集撞鐘。鐘鼓
音聲前後相續。於意云何。此等為是聲來耳邊。
耳往聲處。
[1156b14] 法器章(終)
CỔ – PHÁP CỔ
[1156a23] Phàm Trụ trì thượng đường, tiểu tham,
phổ thuyết, nhập thất tịnh kích chi. Kích cổ chi pháp
thượng đường thời tam thông (tiên khinh xao cổ tảng
tam hạ, nhiên hậu trùng thủ từ từ kích chi, sử kỳ khẩn
mạn tương tham, khinh trọng tương ứng, âm thanh
hoà sướng, khởi phục liên hoàn, ẩn ẩn oanh oanh
nhược xuân lôi chi chấn thích. Đệ nhất thông diên
thanh trường kích, thiểu hiết chuyển đệ nhị thông,
liên thanh sảo xúc cánh bất hiết thanh. Tựu chuyển đệ
tam thông nhất hướng triền thanh kích chi, hậu Trụ
trì đăng toạ tất, phương hiết thanh, song chuỳ liên đả
tam hạ). Tiểu tham nhất thông; phổ thuyết ngũ hạ;
nhập thất tam hạ, giai đương hoãn kích.
Trà cổ
[1156a27] Trường kích nhất thông, Thị ty chủ chi.
Trai cổ
[1156a28] Tam thông, như thượng đường thời, đản
tiết hội sảo xúc nhi dĩ.
Phổ thỉnh cổ
[1156a29] Trường kích nhất thông.
Canh cổ
[1156a29] Tảo vãn bình kích tam thông. Dư tuỳ canh
thứ kích, Khố ty chủ chi.
Dục cổ
[1156b01] Tứ thông thứ đệ hậu chúng kích (kỳ tường
kiến tri dục chương), Tri dục chủ chi.
[1156b02] Dĩ thượng nghi các hữu thường độ, vô linh
thất chuẩn. Nhược tân Trụ trì nhập viện, chư pháp khí
nhất tề câu minh.
[1156b04] Kim quang minh kinh vân: “Tín Tướng
Bồ-tát dạ mộng kim cổ, kỳ trạng xu đại, kỳ minh phổ
chiếu, dụ như nhật quang. Quang trung đắc kiến thập
phương chư Phật chúng bảo thụ hạ toạ lưu ly tòa,
bách thiên quyến thuộc vi nhiễu nhi vi thuyết pháp.
Nhất nhân tự bà-la-môn, dĩ phu kích cổ, xuất đại âm
thanh, kỳ thanh diễn thuyết sám hối kệ tụng. Tín
Tướng Bồ-tát tùng mộng ngụ dĩ, chí ư Phật sở, dĩ kỳ
mộng trung sở kiến kim cổ cập sám hối kệ, hướng
Như Lai thuyết.” Hựu Lăng nghiêm kinh vân: “A-nan,
nhữ canh thính thử Kỳ-đà viên trung thực biện, kích
cổ, chúng tập, chàng chung, chung cổ âm thanh tiền
hậu tương tục. Ư ý vân hà? Thử đẳng vi thị thanh lai
nhĩ biên, nhĩ vãng thanh xứ?”
[1156b14] Pháp khí chương chung.
CÁC LOẠI TRỐNG
Troáng duøng khi tieán haønh caùc phaùp söï
[1156a23] Khi Trụ trì lên toà thuyết pháp, lúc tiểu
tham, phổ thuyết, nhập thất đều đánh trống này.
Cách đánh trống: lúc thượng đường đánh ba hồi,
trước hết nhịp nhẹ nhẹ vào thành trống ba cái, rồi mới từ từ đánh mạnh tay khiến cho tiết tấu nhanh
chậm thích hợp, sự trầm bỗng tương ưng, âm thanh
điều hòa, tiếp nối liên tục, vang vang rền rền, giống
như tiếng sấm động mùa xuân. Hồi thứ nhất, tiếng
trống chậm rãi kéo dài, nghỉ một lát rồi đánh hồi thứ
hai, tiếng trống liên tục, hơi nhanh và không cho gián
đoạn, kế đến đánh hồi thứ ba, âm thanh cuộn vào
nhau; thế rồi, chờ cho Trụ trì lên pháp tòa ổn định
mới kết thúc bằng cách chập hai dùi lại đánh ba
tiếng cuối cùng. Còn như lúc tiểu tham thì đánh một
hồi, lúc phổ thuyết thì đánh năm tiếng, khi nhập thất
thì đánh ba tiếng, và đều đánh một cách chậm rãi.
Trống đánh khi uống trà
[1156a27] Trống này do thị giả đánh, và đánh một
hồi dài.
Trống đánh lúc thọ trai
[1156a28] Trống này đánh ba hồi khi đến trai đường,
vào dịp lễ đầu tháng, và đánh hơi nhanh một chút.
Trống đánh lúc tập hợp đại chúng lao động
[1156a29] Đánh một hồi dài.
Trống đánh vào các canh giờ
[1156a29] Các tự viện thường vào buổi sáng sớm và
buổi tối đánh ba hồi trống này một cách khoan thai.
Ngoài ra, tùy nghi có thể đánh vào các canh giờ, và
do Đô tự đảm trách.
Trống đánh báo hiệu giờ đi tắm
[1156b01] Trống này được đánh bốn hồi báo hiệu
giờ đi tắm của chúng tăng (xem đầy đủ chương Tri
dục) và do vị Tri dục đánh.
[1156b02] Các loại pháp khí kể trên phải sử dụng
đúng quy định, thông thường không được dùng sai
cách thức. Khi vị tân Trụ trì đến nhậm chức tại tự
viện thì các pháp khí đều đồng loạt đánh lên.
[1156b04] Kinh Kim quang minh nói: “Bồ-tát Tín
Tướng đêm nằm mộng thấy chiếc trống bằng vàng có
hình dáng to lớn đẹp đẽ, ánh sáng tỏa chiếu giống như
ánh sáng mặt trời. Trong ánh sáng ấy, Bồ-tát thấy
mười phương chư Phật đang ngồi trên các tòa lưu ly
trong rừng cây báu thuyết pháp cho hàng trăm nghìn
quyến thuộc đang ngồi xung quanh. Có một người
giống như Bà-la-môn cầm chiếc dùi đánh trống, khiến
trống phát ra tiếng kêu vang rền, tiếng ấy tuyên thuyết
một bài kệ sám hối. Sau khi tỉnh mộng, Bồ-tát Tín
Tướng đi đến chỗ đức Phật, thuật lại cho đức Như Lai
những gì mình đã nghe, thấy trong giấc mộng như
chiếc trống bằng vàng và bài kệ sám hối”.
Kinh Lăng nghiêm cũng kể rằng: “Phật bảo tôn giả A-
nan: Như ông đã nghe trong vườn Kỳ-đà này khi cơm
đã dọn xong, trống được đánh lên, tăng chúng vân tập,
tiếp theo là chuông đánh, khiến tiếng chuông trống
trước sau liên tục . Ông nghĩ thế nào? Đó là âm thanh
nhập vào hai tai, hay hai tai tiếp thu âm thanh?”
[1156b14] Chương Pháp khí hết.
PHỤ LỤC
Phần phụ lục sách Sắc tu Bách Trượng thanh qui có 7 bài
minh tựa như sau:
1. Bài minh khắc trên tháp cố Thiền sư Hoài Hải,
núi Bách Trượng, Hồng Châu, đời Đường (Trần
Hủ soạn)
2. Bài ký gác thiên hạ sư biểu, chùa Đại Trí Thọ
Thánh, núi Bách Trượng
3. Bài nguyên tựa sách Bách Trượng thanh qui
(Dương Ức soạn)
4. Bài tựa Thanh qui đời Sùng Ninh
5. Bài tựa Thanh qui đời Hàm Thu?n;
6. Bài tựa Thanh qui đời Chí Đại;
7. Bài t?a c?a S?c tu Bch Tru?ng thanh qui
Vì thấy nội dung có phần giống nhau, nên chúng tôi chỉ
dòch boán bài tiêu biểu, đó là các bài 1, 2, 3 và 7.
*
* *
唐洪州百丈山故懷海禪師塔銘(并序)
將仕郎守殿中侍御史陳詡撰
守信州司戶參軍員外置同正員武翊黃書
[1156b22] 星纏斗次山形鷲立。桑門上首曰懷海
禪師。室於斯塔於斯。付大法於斯。其門弟子懼
陵谷遷貿日時失紀。託於儒者銘以表之。西方教
行于中國。以彼之六度視我之五常。遏惡遷善殊
途同轍。唯禪那一宗度越生死。大智慧者方得
之。自鷄足達于曹溪。紀牒詳矣。曹溪傳衡嶽觀
音臺懷讓和上觀音傳江西道一和上。詔諡為大寂
禪師。大寂傳大師。中土相承凡九代矣。大師太
原王氏福州長樂縣人。遠祖以永嘉喪亂徙于閩
隅。大師以大事因緣生於像季。託孕而薰羶自去
將誕而神異聿來。成童而靈聖表識。非夫宿植德
本。曷以臻此。落髮於西山慧照和[4]尚。進具於
衡山法朝律師。既而歎曰。將滌妄源必遊法海。
豈[5]惟必證。亦假言詮。遂詣廬江閱浮槎經藏。
不窺庭宇者積年。既師大寂盡得心印言簡理精貌
和神峻。睹即生敬居常自卑。善不近名。故先師
碑文獨晦其稱號。行同於眾。故門人力役必等其
艱勞。怨親兩忘故。棄遺舊里賢愚一貫故普授來
學。常以三身無住萬行皆空。邪正並捐源流齊
泯。用此教旨作人表式。前佛所說斯為頓門。大
寂之徒多諸龍象。或名聞萬乘入依京輦。或化洽
一方。各安郡國。唯大師好尚幽隱。棲止雲松。
遺名而德稱益高。獨往而學徒彌盛。其有遍探講
肆歷抵禪關。滯著未祛空有猶閡。靡不緘藏。萬
里取決一言。疑網雲張智刃氷斷。由是齊魯燕代
荊吳閩蜀望影星奔。聆聲飈至。當其饑渴快得安
隱。超然懸解時有其人。大師初居石門依大寂之
塔。次補師位。重宣上法。後以眾所歸集意在遐
深。百丈山碣立一隅。人煙四絕。將欲卜築必俟
檀那。伊蒱塞游暢甘貞請施家山。願為鄉導。庵
廬環遶。供施芿積眾又踰於石門。然以地靈境遠
頗有終焉之志。元和九年正月十七日。證滅於禪
床報齡六十六。僧臘四十七。以其年四月二十二
日。奉全身窆于西峯。據婆沙論文。用淨行婆羅
門葬法遵遺旨也。先時白光去室金錫鳴空。靈溪
方春而涸流。杉燎竟夕以通照。妙德潛感于何不
有。門人法正等甞所稟奉皆得調柔。遞相發揮不
墜付囑。他年紹續自當流布。門人談敘永懷師恩
光崇塔宇。封土累石力竭心瘁。門人神行梵雲結
集微言纂成語本。凡今學者不踐門閾。奉以為師
法焉。初閩越靈藹律師。一川教宗三學歸仰。嘗
以佛性有無響風發問。大師寓書以釋之。今與語
本並流于後學。詡從事于江西府。備嘗大師之法
味。故不讓眾多之託。其文曰梵雄設教有權有
實。未得頓門。皆為暗室。祖師戾止方傳祕密。
如彼重昏忽懸白日(其一)唯此大士弘紹正宗。雖
修妙行不住真空。無假方便。豈俟磨礱。恬然返
本萬境圓通(其二)百千人眾盡祛病熱。彼皆有得
我實無說。心本不生形同示滅。此土灰燼他方水
月(其三)法傳人代塔閉山原。杉松日暗[1]寺塔猶
存。藹藹學徒無非及門。唯能覺照是報師恩(其四)
元和十三年十月三日建。
[1157a20] 碑側大眾同記五事。至今猶存。可為
鑑戒。并錄[2]于左 大師遷化後未請院主。日眾
議釐革山門。久遠事宜都五件。一塔院常請一大
僧。及令一沙彌灑掃 一地界內不得置尼臺尼墳
塔。及容俗人家居止 一應有依止及童行出家。
悉令依院主一人。僧眾並不得各受 一臺外及諸
處不得置莊園田地 一住山徒眾不得內外私置錢
穀 欲清其流在澄其本後來紹續永願遵崇 立碑
日大眾同記。
ĐƯỜNG HỒNG CHÂU BÁCH TRƯỢNG SƠN CỐ HOÀI HẢI THIỀN SƯ THÁP
MINH (TỊNH TỰ)
TƯỚNG SỸ LANG THỦ ĐIỆN TRUNG THỊ NGỰ SỬ TRẦN HỦ SOẠN
THỦ TÍN CHÂU TY HỘ THAM QUÂN VIÊN NGOẠI TRÍ ĐỒNG CHÁNH VIÊN
VŨ DỰC HOÀNG THƯ
[1156b22] Tinh triền đẩu thứ, sơn hình Thứu lập.
Tang môn thượng thủ viết Hoài Hải thiền sư, thất ư
tư, tháp ư tư, phó đại pháp ư tư. Kỳ môn đệ tử cụ
lăng cốc thiên mậu, nhật thời thất kỷ, thác ư nho giả
minh dĩ biểu chi. Tây phương giáo hành vu Trung
Quốc, dĩ bỉ chi lục độ thị ngã chi ngũ thường, át ác
thiên thiện thù đồ đồng triệt. Duy thiền-na nhất tôn
độ việt sanh tử, đại trí tuệ giả phương đắc chi. Tự Kê
Túc đạt vu Tào Khê, kỉ điệp tường hĩ. Tào Khê
truyền Hành Nhạc Quán Âm đài Hoài Nhượng Hoà
thượng, Quán Âm truyền Giang Tây Đạo Nhất Hoà
thượng. Chiếu thuỵ vi Đại Tịch thiền sư. Đại Tịch
truyền Đại sư, trung thổ tương thừa phàm cửu đại hĩ.
Đại sư Thái Nguyên Vương thị, Phước Châu Trường
Lạc huyện nhân. Viễn tổ dĩ Vĩnh Gia táng loạn tỷ vu
Mân Ngung. Đại sư dĩ đại sự nhân duyên sinh ư
tượng quý. Thác dựng nhi huân thiên tự khứ; tương
đản nhi thần dị duật lai; thành đồng nhi linh thánh
biểu thức, phi phù túc thực đức bổn, hạt dĩ trăn thử.
Lạc phát ư Tây sơn Tuệ Chiếu Hoà thượng; tiến cụ ư
Hành sơn Pháp Triêu luật sư. Ký nhi thán viết: tương
địch vọng nguyên tất du pháp hải, khởi duy tất chứng,
diệc giả ngôn thuyên. Toại nghệ Lư Giang duyệt phù
tra kinh tạng, bất khuy đình vũ giả tích niên. Kí sư
Đại Tịch, tận đắc tâm ấn, ngôn giản lí tinh, mạo hoà
thần tuấn, đổ tức sinh kính, cư thường tự ti, thiện bất
cận danh. Cố tiên sư bi văn độc hối kỳ xưng hiệu.
Hành đồng ư chúng, cố môn nhân lực dịch tất đẳng
kỳ gian lao; oán thân lưỡng vong, cố khí di cựu lí;
hiền ngu nhất quán cố phổ thụ lai học. Thường dĩ tam
thân vô trụ, vạn hạnh giai không, tà chánh tịnh quyên
nguyên lưu tề mẫn. Dụng thử giáo chỉ tác nhân biểu
thức. Tiền Phật sở thuyết tư vị đốn môn. Đại Tịch chi
đồ đa chư long tượng. Hoặc danh văn vạn thừa nhập
y kinh liễn, hoặc hoá hiệp nhất phương, các an quận
quốc. Duy đại sư hiếu thượng u ẩn, thê chỉ vân tùng.
Di danh nhi đức xưng ích cao, độc vãng nhi học đồ di
thịnh. Kỳ hữu biến tham giảng tứ lịch để thiền quan,
trệ trước vị khư, không hữu do ngại, mỹ bất giam
tàng. Vạn lí thủ quyết nhất ngôn, nghi võng vân
trương trí nhận vĩnh đoạn. Do thị Tề Lỗ Yên Đại
Kinh Ngô Mân Thục vọng ảnh tinh bôn, linh thanh
tiêu chí, đương kỳ cơ khát khoái đắc an ẩn. Siêu
nhiên huyền giải thời hữu kỳ nhân. Đại sư sơ cư
Thạch Môn y Đại Tịch chi tháp, thứ bổ sư vị, trùng
tuyên thượng pháp. Hậu dĩ chúng sở qui tập ý tại hà
thâm. Bách Trượng sơn kiệt lập nhất ngung, nhân yên
tứ tuyệt. Tương dục bốc trúc tất sĩ đàn na. Y bồ tắc
du sướng Cam Trinh thỉnh thí gia sơn, nguyện vi
hướng đạo, am lư hoàn nhiễu, cung thí nhậm tích,
chúng hựu du ư thạch môn. Nhiên dĩ địa linh cảnh
viễn phả hữu chung yên chi chí. Nguyên Hoà cửu
niên chánh nguyệt thập thất nhật chứng diệt ư thiền sàng, báo linh lục thập lục, tăng lạp tứ thập thất. Dĩ
kỳ niên tứ nguyệt nhị thập nhị nhật, phụng toàn thân
biếm vu Tây phong, cứ bà-sa luận văn, dụng tịnh
hạnh Bà-la-môn táng pháp tuân di chỉ dã. Tiên thời
bạch quang khứ thất, kim tích minh không, linh khê
phương xuân nhi hạt lưu, sam liệu cánh tịch dĩ thông
chiếu, diệu đức tiềm cảm vu hà bất hữu. Môn nhân
Pháp Chánh đẳng thường sở bẩm phụng giai đắc điều
nhu, đệ tương phát huy bất truỵ phó chúc, tha niên
thiệu tục tự đương lưu bố. Môn nhân Đàm Tự vĩnh
hoài sư ân quang sùng tháp vũ, phong thổ luỵ thạch
lực kiệt tâm tuỵ . Môn nhân Thần Hạnh Phạm Vân
kết tập vi ngôn toản thành ngữ bổn. Phàm kim học
giả bất tiễn môn quắc, phụng dĩ vi sư pháp yên. Sơ
Mân Việt Linh Ái luật sư, nhất xuyên giáo tông, tam
học qui ngưỡng, thường dĩ Phật tính hữu vô hưởng
phong phát vấn. Đại sư ngụ thư dĩ thích chi, kim dữ
ngữ bổn tịnh lưu vu hậu học. Hủ tùng sự vu Giang
Tây phủ, bị thường đại sư chi pháp vị, cố bất nhượng
chúng đa chi thác, kỳ văn viết:
Phạm hùng thiết giáo
Hữu quyền hữu thật,
Vị đắc đốn môn
Giai vị ám thất.
Tổ sư lệ chỉ
Phương truyền bí mật.
Như bỉ trùng hôn
Hốt huyền bạch nhật (kỳ nhất)
Duy thử đại sĩ
Hoằng thiệu chánh tông.
Tuy tu diệu hạnh
Bất trụ chân không.
Vô giả phương tiện.
Khởi sĩ ma lung.
Điềm nhiên phản bổn
Vạn cảnh viên thông (kỳ nhị)
Bách thiên nhân chúng
Tận khư bệnh nhiệt.
Bỉ giai hữu đắc
Ngã thật vô thuyết.
Tâm bổn bất sanh
Hình đồng thị diệt.
Thử thổ hôi tẫn
Tha phương thuỷ nguyệt (kỳ tam)
Pháp truyền nhân đại
Tháp bế sơn nguyên.
Sam tùng nhật ám
Tự tháp do tồn.
Ái ái học đồ
Vô phi cập môn.
Duy năng giác chiếu
Thị báo sư ân (kỳ tứ)
Nguyên hoà thập tam niên thập nguyệt tam nhật kiến.
Bi trắc đại chúng đồng kí ngũ sự, chí kim do tồn, khả
vị giám giới, tinh lục vu tả. Đại sư thiên hoá hậu, vị
thỉnh viện chủ nhật, chúng nghị li cách sơn môn, cửu viễn sự nghi đô ngũ kiện: Nhất tháp viện thường
thỉnh nhất đại tăng, cập linh nhất sa di sái tảo. Nhất
địa giới nội bất đắc trí Ni đài Ni phần tháp, cập dung
tục nhân gia cư chỉ. Nhất ưng hữu y chỉ cập đồng
hành xuất gia, tất linh y viện chủ nhất nhân, Tăng
chúng tịnh bất đắc các thụ. Nhất đài ngoại cập chư xứ
bất đắc trí trang viên điền địa. Nhất trú sơn đồ chúng
bất đắc nội ngoại tư trí tiền cốc.
Dục thanh kỳ lưu tại trừng kỳ bổn, hậu lai thiệu tục
vĩnh nguyện tuân sùng.
Lập bi nhật đại chúng đồng ký.
BAØI MINH KHAÉC TREÂN THAÙP COÁ THIEÀN SÖ HOAØI HAÛI, NUÙI
BAÙCH TRÖÔÏNG, HOÀNG CHAÂU, ÑÔØI ÑÖÔØNG
TÖÔÙNG SÓ LANG THUÛ ÑIEÄN TRUNG THÒ NGÖÏ SÖÛ TRAÀN HUÛ SOAÏN
THUÛ TÍN CHAÂU TY HOÄ THAM QUAÂN VIEÂN NGOAÏI TRÍ ÑOÀNG
CHAÙNH VIEÂN VOÕ DÖÏC HOAØNG VIEÁT CHÖÕ
[1156b22] Tinh đẩu vần xoay, núi non hiểm trở như
ngọn Linh Thứu. Bậc Thượng thủ trong hàng sa-môn
là Thiền sư Hoài Hải, lập am thất nơi đây, xây bảo
tháp nơi đây và trao truyền đại pháp cũng tại đây.
Chia sẻ với bạn bè của bạn: |