SẮc tu bách trưỢng thanh quy ht. Phước Sơn và Lý Việt Dũng Việt Dịch



tải về 6.43 Mb.
trang45/50
Chuyển đổi dữ liệu30.08.2016
Kích6.43 Mb.
#29788
1   ...   42   43   44   45   46   47   48   49   50

Các đệ tử của tông môn e bảo tháp bị di dịch, thời

gian lâu không được ghi chép nên nhờ nhà Nho soạn

bài minh để nêu rõ sự tích. Giáo pháp của phương

Tây (Ấn Độ) truyền sang Trung Quốc, thì Lục độ của

Phật giáo được xem như Ngũ thường của Trung Hoa

ta, cải ác theo thiện, khác đường mà cùng về một

nẻo. Chỉ duy nhất Thiền tông là độ khỏi sinh tử, và chỉ có bậc đại trí tuệ mới đạt được. Từ Kê Túc (chỉ

Tổ Ca-diếp) cho đến Tào Khê (tổ Huệ Năng) thì sự

truyền thừa đều được ghi chép tường tận.Tào Khê

truyền cho Hòa thượng Hoài Nhượng ở Quan Âm đài

Hành Nhạc. Hoài Nhượng truyền cho Hòa thượng

Đạo Nhất ở Giang Tây. Đạo Nhất sau khi viên tịch

được ban thụy hiệu là Thiền sư Đại Tịch. Đại Tịch

truyền cho Đại sư (Hoài Hải). Thế rồi thầy trò trao

truyền cho nhau trải qua chín đời tại cõi Đông độ

(Trung Hoa). Đại sư họ Vương, người huyện Trường

Lạc, Phúc Châu, Thái Nguyên. Vào khoảng năm Vĩnh

Gia bị giặc giã loạn lạc, viễn tổ của Sư di cư sang

đất Mân Ngung. Vì nhân duyên lớn lao, Đại sư sinh

ra đời vào thời kỳ cuối của tượng pháp. Khi Sư vào

bào thai thì mùi hôi tanh tan biến; lúc sắp chào đời

thì sự thần dị hiển hiện; tuổi còn ấu thơ mà điều linh

Thánh đã bộc lộ. Nếu chẳng do vun bồi cội gốc

phước đức từ đời trước thì làm sao có được những

điềm hiệu linh ứng như vậy. Sư xuống tóc xuất gia

với Hòa thượng Tuệ Chiếu ở Tây Sơn, thọ giới cụ túc

với Luật sư Pháp Triêu ở Hành Sơn.(Nghĩ đến đạo

nghiệp tương lai) Sư than rằng: “Muốn rửa sạch

nguồn mê vọng phải bơi qua biển pháp; quyết định

ngày chứng ngộ cần nương nhờ những lời chỉ dạy.

Thế rồi, Sư đi đến Lô Giang, đóng cửa đọc Đại tạng

Kinh suốt mấy năm không ra khỏi phòng. Sư thờ

thiền sư Đại Tịch (Đạo Nhất) làm thầy, đạt được tâm

ấn rốt ráo, khiến lời nói giản dị mà nghĩa lý sâu xa,

diện mạo hòa nhã mà thần thái sáng suốt, hễ ai thấy

Sư đều đem lòng cung kính. Sư thường cư xử khiêm tốn, khéo léo khước từ danh tiếng. Vì thế mà văn bia

của Tiên sư giấu bớt lời ca tụng. Sư lao động giống

như đại chúng, cho nên môn nhân ai nấy dốc sức làm

việc hết lòng. Kẻ oán người thân đều quên, nên

không để ý đến chuyện cũ. Kẻ hiền người ngu đều đối

xử như nhau, nên tiếp độ được nhiều người đến tham

học. Sư thường dạy rằng ba thân không đình trụ, vạn

hạnh đều trống không; tà chánh đều vứt bỏ, nguồn

dòng thảy cạn khô. Dùng giáo chỉ này làm khuôn

thước cho người. Những điều Phật dạy xưa kia chính

là pháp môn đốn ngộ hiện nay. Đồ chúng của Thiền

sư Đại Tịch phần nhiều là các bậc long tượng. Có

người đạt đến danh vọng vạn thừa, ra vào cung cấm;

có kẻ giáo hóa một phương, làm cho quốc gia ổn

định. Chỉ có Đại sư là ưa thích cuộc sống ẩn dật, ở

chốn mây ngàn, ẩn danh mà đức độ được mọi người

xưng tụng, sống một mình mà đồ chúng càng thêm

hưng thịnh. Nếu có người đi khắp nơi tham cứu các

trường giảng, gõ cửa các Thiền sư, mà sự chấp trước

chưa tiêu, việc có-không còn vướng mắc, thì các

bệnh ấy cũng được phong tỏa. Hoặc có kẻ đi xa

nghìn dặm để tìm một lời quyết định, khi lưới nghi

trương ra liền bị nhát dao trí tuệ chặt đứt vĩnh viễn.

Vì vậy mà các nơi như Tề Lỗ Yên Đại Kinh Ngô Mân

Thục nghe thanh danh và ảnh hưởng của Sư đều bôn

ba tìm đến. Và khi được Sư tiếp độ thì họ chẳng khác

gì kẻ đang đói khát mà được an ổn lập tức. Qủa thật

có một bậc huyền giải siêu việt vào thời đại ấy. Lúc

đầu, Sư ở bên tháp của Đại Tịch tại Thạch Môn, sau

đó trùng tuyên giáo pháp làm rạng rỡ cho thầy. Về

sau, tăng chúng quy tụ đông đúc, Sư nghĩ đến đạo

nghiệp lâu dài, muốn kiến tạo một ngôi tùng lâm tại

núi Bách Trượng, nhưng nơi đây bốn bề vắng bật

bóng người; nếu muốn xây dựng tự viện thì phải đợi

đàn na phát tâm; và thời cơ lại đến, bấy giờ có Ưu-

bà-tắc Cam Trinh đang du ngoạn, phát tâm đem đồi

đất của nhà mình cúng dường cho Sư, mong được Sư

thân cận dắt dẫn. Thế rồi, am thất được xây dựng san

sát, các thức ẩm thực được Thí chủ mang đến cúng

dường, đồ chúng còn đông đúc hơn cả Thạch Môn.

Vì thấy nơi này địa linh, cảnh trí cách xa phồn hoa,

nên ý muốn gửi nắm xương tàn nơi đây. Vào ngày

mười bảy tháng giêng, năm Nguyên Hòa thứ chín, Sư

an tọa trên giường Thiền viên tịch, hưởng thọ 66

tuổi, và 47 tăng lạp. Đến ngày 22 tháng Tư cùng

năm, đồ chúng rước nhục thân của Sư lên an trí trên

ngọn Tây phong. Đó là theo di chúc của Sư phải an

táng như một Bà-la-môn tịnh hạnh mà luận Tỳ-bà-sa

đã mô tả. Sau khi nhục thân Sư đã nhập tháp, người

ta thấy bạch quang xông lên từ tịnh thất của Sư, và

tiếng tích trượng khua vang trên không, nước khe

đang mùa xuân mà khô cạn, còn gỗ thông thì cháy

sáng suốt đêm, diệu đức âm thầm cảm ứng không nơi

nào là chẳng có. Môn nhân Pháp Chánh cùng các

huynh đệ thường phụng thờ Sư rất là chu đáo, và

tuần tự nhau phát triển tông môn không dám quên lời

di chúc, trải qua năm tháng tiếp tục lưu truyền không

dứt. Môn nhân Đàm Tự nhớ mãi ơn thầy, ra sức dựng

xây điện đường bảo tháp, lấp thêm đất chất thêm đá

hết lòng dốc sức không kể ốm đau. Môn nhân Thần

Hạnh, Phạm Vân kết tập những lời Sư dạy biên sọan

thành ngữ lục. Ngày nay, các học giả không bị vấp

váp khi hành xử là nhờ tuân thủ những phép tắc của

Sư. Xưa kia Luật sư Linh Ái người đất Mân Việt vốn

là bậc lãnh tụ tôn giáo một miền, các học giả tam

giáo đều quy ngưỡng thường đem câu hỏi “Phật tính

có hay không” đến chất vấn Sư, Đại sư đã viết thư

phúc đáp giải thích rõ ràng mà ngày nay còn lưu

truyền trong ngữ lục cho kẻ hậu học. Trần Hủ tôi khi

nhậm chức tại phủ Giang Tây hân hạnh được thưởng

thức pháp vị của Sư nên không dám phụ lòng ủy thác

của mọi người. xin soạn mấy lời văn như đây:

Bài I: Thế Tôn lập giáo,

Có quyền và thật.

Nếu chưa đốn ngộ,

Thì còn sai trật.

Tổ sư xót thương,

Mới truyền bí mật.

Như đêm u ám,

Bỗng hiện vừng Nhật.

Bài II: Đây là Đại sĩ,

Hoằng truyền chánh tông.

Tuy tu diệu hạnh,

Chẳng chấp chân không.

Không nhờ phương tiện,

Mài giữa hoài công.

Điềm nhiên về gốc,

Vạn cảnh dung thông.


Bài III: Hàng trăm ngàn người,

Đều trừ bệnh nhiệt.

Họ đều có đắc,

Ta chẳng tuyên thuyết.

Tâm vốn không sinh,

Hình cũng thị diệt

Tro tàn cõi này,

Phương kia nguyệt hiện.

Bài IV: Pháp truyền người thế,

Tháp ẩn núi non

Tùng bách âm u,

Chùa Tháp vẫn còn

Đồ chúng đông đúc,

Rạng rỡ tông môn.

Chỉ người giác ngộ,

Đích thực báo ân.

Ngày mồng ba tháng 10 năm Nguyên Hoà thứ 13 -

lập bia này.

Bên cạnh bi văn, đại chúng cùng ghi lại năm sự việc đến

nay vẫn còn, có thể làm khuôn mẫu để răn bảo người

sau. Nguyên sau khi trà tỳ Đại sư, chưa mời viện chủ

mới, Tăng chúng họp bàn bạc việc cách tân sơn môn,

cuối cùng nhất trí đúc kết thành năm điều như sau:

1. Phải mời một vị Đại tăng quản lý tháp viện và sai

một Sa-di lo quét dọn.

2. Trong khuôn viên Chùa Tháp không cho xây dựng

Ni tự và Tháp mộ của Ni chúng, cũng không cho

người thế tục cất nhà cư trú.

3. Các kẻ đồng chơn xuất gia và người y chỉ, phải

nương tựa một vị Viện chủ duy nhất. Tăng chúng

không được xây dựng am thất riêng tư.

4. Không được khai khẩn vườn tược ruộng đất làm

của tư hữu.

5. Đồ chúng ở núi này không được cất chứa tiền bạc,

thóc lúa riêng tư trong chùa cũng như cất ở chỗ khác.

Muốn cho dòng nước trong trẻo thì phải làm cho đầu

nguồn thanh khiết, để người đời sau tiếp tục kế thừa,

vĩnh viễn tuân hành và một dạ tôn sùng.

Ngày lập văn bia, tất cả đại chúng đồng ký tên.

*

* *


百丈山大智壽聖禪寺天下師表閣記

[1157b01] 菩提達磨大師後八葉有大比丘。居洪

之百丈山。人稱之曰百丈禪師。

[1157b03] 今天子始命因其舊諡大智覺照者。加以

弘宗妙行之號。寺以壽聖名則故額也。山去郡治三

百里。其未置寺時。林壑深阻巖徑峭絕。樵蘇之跡

所不通。有司馬頭陀者。善為宮宅地形之術。覩其

山勢斗拔與夫岡巒首尾之起伏。知為吉壤。所留鈐

記有曰。法王居之天下師表。禪師之來式符其言。

東陽德輝以禪師十八代孫。嗣住是山。既新作演法

之堂。且增創重屋其上。以妥禪師遺像。榜其楹間

曰天下師表之閣。云初文宗皇帝入踐天位。即金陵

潛邸造寺曰龍翔集慶。詔開山大訢。領其徒而以禪

師所制清規。為日用動作威儀之節。顧其書行世已

久後人率以臆見互有損益。自為矛盾靡所折衷。煇

與訴學同師而柄法於祖庭。大懼夫來者傳疑莫知適

從。無以壹諸方之觀聽。爰走京師欲有請而釐正

之。今御史大夫撒迪時執法中臺。為言于上。得召

見。有旨令煇譔次舊聞。以授訢使擇習於師說者。

共考定而頌行為叢林法。仍如錫禪師以今號。褒顯

而風厲焉。煇奉璽書將南還。以閣之成未及見所紀

述。諗于溍曰。願敘其構興之端原。歸而刻諸。溍

竊觀。遂古聖賢乘時繼作弛張迭用循環不窮。所以

通其變也。佛之為教必先戒律。諸部之義小大畢

陳。種種開遮唯以一事。去聖逾遠局為專門。名數

滋多道日斯隱。是故達磨不階方便直示心源。律相

宛然無能留礙。世降俗末誕勝真離。馳騁外緣成邪

慢想。是故百丈弘[4]敖軌範輔律而行。調護攝持

在事皆理。蓋佛之道以達磨而明。佛之事以百丈而

備。通變之妙存乎其人。厥後達磨之傳派別為五。

而出於禪師者二。他師所倡殊宗異旨。雖各名其

家。至於安處徒眾。未有不取法於禪師者。然則天

下師表之言。良可徵不誣也。粵自中土君臣知尊佛

法。光昭崇極。莫越於今。煇遭值。

[1157c09] 聖時。蒙被帝力。用克發揚先訓。紹隆

宗風。俾與國家相為悠久永永無已。不特今之天下

以為師表。盡未來際咸有依承。溍是用謹志之。而

於其經度之勤營締之美。有不暇論也。閣為屋以間

計者五。其崇百有二十尺。三其崇之一以為其修。

三其修以為其廣。以至順元年夏六月庀工。冬十月

訖事。實煇住山之明年。而煇入對以元統三年夏五

月。命下則其明年春二月也。承直郎國子博士黃溍

記。翰林侍制奉議大夫兼國史院編修官揭傒斯書。
翰林侍講學士通奉大夫知制誥同修國史知經筵事張

起巖篆。前榮祿大夫御史中丞趙世安光祿大夫江南

諸道行御史大夫易釋董阿同立石。

BÁCH TRƯỢNG SƠN ĐẠI TRÍ THỌ THÁNH THIỀN TỰ

THIÊN HẠ SƯ BIỂU CÁC KÝ

[1157b01] Bồ-đề-đạt-ma đại sư hậu bát diệp hữu đại

tỷ kheo, cư Hồng Châu Bách Trượng sơn, nhân xưng

chi viết Bách Trượng thiền sư.

[1157b03] Kim thiên tử thỉ mệnh nhân kỳ cựu thuỵ

Đại Trí Giác Chiếu giả, gia dĩ Hoằng Tôn Diệu Hạnh

chi hiệu, tự dĩ Thọ Thánh danh tắc cố ngạch dã. Sơn

khứ quận trị tam bách lý, kỳ vị trí tự thời, lâm hác

thâm trở, nham kính tiễu tuyệt, tiều tô chi tích sở bất

thông. Hữu Tư mã đầu đà giả, thiện vi cung trạch địa

hình chi thuật, đỗ kỳ sơn thế đẩu bạt dữ phù cương

loan thủ vĩ chi khởi phục, tri vi cát nhưỡng, sở lưu

kiềm kí hữu viết: “Pháp Vương cư chi, thiên hạ sư

biểu”. Thiền sư chi lai thức phù kỳ ngôn. Đông

Dương Đức Huy dĩ thiền sư thập bát đại tôn, tự trú

thị sơn, ký tân tác diễn pháp chi đường, thả tăng sáng

trùng ốc kỳ thượng, dĩ thoả thiền sư di tượng, bảng

kỳ doanh gian viết “thiên hạ sư biểu chi các vân: sơ

Văn Tôn hoàng đế nhập tiễn thiên vị, tức Kim Lăng

tiềm để tạo tự viết Long Tường Tập Khánh. Chiếu

khai sơn Đại Hân, lãnh kỳ đồ nhi dĩ thiền sư sở chế

thanh qui, vi nhật dụng động tác uy nghi chi tiết. Cố

kỳ thư hành thế dĩ cửu, hậu nhân suất dĩ ức kiến hỗ hữu tổn ích, tự vi mâu thuẫn mỹ sở chiết trung. Huy

dữ Hân học đồng sư nhi bính pháp ư tổ đình, đại cụ

phù lai giả truyền nghi mạc tri thích tùng, vô dĩ nhất

chư phương chi quan thính. Viên tẩu kinh sư dục hữu

thỉnh nhi li chánh chi. Kim Ngự sử đại phu Tán Địch

thời chấp pháp trung đài, vi ngôn vu thượng, đắc

triệu kiến. Hữu chỉ lệnh Huy soạn thứ cựu văn, dĩ thụ

Hân sử trạch tập ư sư thuyết giả, cộng khảo định nhi

tụng hành vi tùng lâm pháp. Nhưng Như Tích thiền

sư dĩ kim hiệu bao hiển nhi phong lệ yên. Huy phụng

tỉ thư tương nam hoàn, dĩ các chi thành vị cập kiến sở

kỉ thuật, thẩm vu Tấn viết: “Nguyện tự kỳ cấu hưng

chi đoan nguyên quy nhi khắc chư”. Tấn thiết quan,

toại cổ thánh hiền thừa thời kế tác thỉ trương điệt

dụng tuần hoàn bất cùng, sở dĩ thông kỳ biến dã. Phật

chi vị giáo tất tiên giới luật, chư bộ chi nghĩa tiểu đại

tất trần, chủng chủng khai già duy dĩ nhất sự, khứ

Thánh du viễn cục vi chuyên môn, danh số tư đa đạo

nhật tư ẩn. Thị cố Đạt-ma bất giai phương tiện trực

thị tâm nguyên, luật tướng uyển nhiên vô năng lưu

ngại, thế giáng tục mạt đản thắng chân li, trì sính

ngoại duyên thành tà mạn tưởng. Thị cố Bách Trượng

hoằng phu quỹ phạm phụ luật nhi hành, điều hộ nhiếp

trì tại sự giai lí. Cái Phật chi đạo dĩ Đạt-ma nhi minh.

Phật chi sự dĩ Bách Trượng nhi bị, thông biến chi

diệu tồn hồ kỳ nhân. Quyết hậu Đạt-ma chi truyền

phái biệt vi ngũ, nhi xuất ư thiền sư giả nhị. Tha sư

sở xướng thù tôn dị chỉ. Tuy các danh kỳ gia, chí ư

an xử đồ chúng, vị hữu bất thủ pháp ư thiền sư giả.

Nhiên tắc thiên hạ sư biểu chi ngôn, lương khả trưng bất vu dã. Việt tự trung thổ quân thần tri tôn Phật

pháp, quang chiêu sùng cực, mạc việt ư kim. Huy tao

trị thánh thời, mông bị đế lực, dụng khắc phát dương

tiên huấn, thiệu long tôn phong, tỷ dữ quốc gia tương

vị du cửu vĩnh vĩnh vô dĩ, bất đặc kim chi thiên hạ dĩ

vi sư biểu, tận vị lai tế hàm hữu y thừa. Tấn thị dụng

cẩn chí chi, nhi ư kỳ kinh độ chi cần doanh đế chi mỹ,

hữu bất hạ luận dã. Các vi ốc dĩ gian kế giả ngũ, kỳ

sùng bách hữu nhị thập xích, tam kỳ sùng chi nhất dĩ

vi kỳ tu. Tam kỳ tu dĩ vi kỳ quảng. Dĩ Chí Thuận

nguyên niên hạ lục nguyệt phỉ công, đông thập

nguyệt ngật sự. Thật Huy trụ sơn chi minh niên, nhi

Huy nhập đối dĩ Nguyên Thống tam niên hạ ngũ

nguyệt. Mệnh hạ tắc kỳ minh niên xuân nhị nguyệt dã.

Thừa Trực lang quốc tử bác sĩ Hoàng Tấn kí.

Hàn lâm thị chế phụng nghị đại phu kiêm quốc sử

viện biên tu quan Yết Hề Tư thư.

Hàn lâm thị giảng học sĩ thông phụng đại phu tri chế

cáo đồng tu quốc sử tri kinh diên sự Trương Khởi

Nham triện.

Tiền Vinh Lộc đại phu ngự sử trung thừa Triệu Thế

An quang lộc đại phu giang nam chư đạo hành ngự

sử đại phu Dịch Thích Đổng A đồng lập thạch.

BÀI KÝ GÁC THIÊN HẠ SƯ BIỂU, CHÙA THIỀN ĐẠI TRÍ

THỌ THÁNH, NÚI BÁCH TRƯỢNG

[1157b01] Thế hệ thứ tám của đại sư Bồ-đề-đạt-ma

có vị đại Tỳ kheo ở núi Bách Trượng, người đời gọi

là Thiền sư Bách Trượng.

[1157b03] Thiên tử truyền lệnh rằng nhân vì Thiền

sư trước đây đã được ban Thụy hiệu là Đại Trí Giác

Chiếu, nay ban thêm hiệu Hoằng Tông Diệu Hạnh,

còn tên chùa là Thọ Thánh thì biển ngạch đã có từ

trước. Núi này cách quận trị 300 dặm, khi chưa xây

chùa thì suối khe hiểm trở, đỉnh núi chót vót, lối đi

của tiền phu tắt nghẽn. Bấy giờ có Tư Mã đầu đà là

người giỏi thuật phong thủy về địa hình cung thất,

thấy thế núi cao vút với những ngọn đồi lồi lõm đầu

đuôi tiếp ứng nhau, biết đó là nơi địa linh, nên để lại

lời huyền ký rằng: “Đây là chỗ đấng Pháp vương cư

trú, làm bậc thầy tiêu biểu trong thiên hạ”.

Về sau, Thiền sư Hoài Hải đến trác tích nơi đó quả

phù hợp với lời dự đoán trước kia. Thiền sư Đông

Dương Đức Huy là cháu đời thứ 18 của Hoài Hải, kế

thừa sự nghiệp Thầy tổ, ở núi này, không những xây

cất pháp đường mới, mà còn kiến tạo thêm lầu cao để

tôn trí di tượng của Tổ sư. Và tấm hoành treo trên nhà

đề là: “Gác của bậc Thầy tiêu biểu trong thiên hạ

(thiên hạ sư biểu chi các)”. Trong đây có ghi lại: Lúc

Văn Tông hoàng đế mới lên ngôi, âm thầm xây chùa

tại Kim Lăng đặt tên là Long Tường Tập Khánh,

truyền lệnh cho vị khai sơn chùa là Đại Hân quản lý

đồ chúng, và dùng Thanh quy do Tổ sư chế định làm

quy củ cho những oai nghi hành xử hằng ngày của

tăng chúng. Nhưng vì bộ Thanh quy này ra đời đã lâu

(hiện tại không còn), người đời sau chỉ ức đoán rồi tự

ý thêm bớt, khiến cho đôi chỗ mâu thuẫn không được

chiết trung thỏa đáng. Đức Huy và Đại Hân cùng học

một thầy và cùng nắm cương lĩnh của tổ đình e rằng

những kẻ mới đến đem truyền những điều nghi hoặc

mà không biết thế nào là thích hợp khiến cho mâu

thuẫn với sự nghe thấy của các sơn môn, nên quyết

tâm lặn lội đến Kinh sư để tìm người hiệu chính những

sai lầm. Lúc ấy quan Ngự sử đại phu Tát Địch đang

làm chấp pháp trung đài, Huy bèn nhờ ông tâu lên

vua, và được vua mời vào yết kiến. Vua bèn truyền

lệnh cho Huy soạn những gì đã được nghe trước đây,

rồi trao cho Đại Hân, khiến Đại Hân chọn lựa những

điều Tổ sư để lại, hiệu khảo ổn định, soạn thành

Thanh quy dùng làm phép tắc cho Tùng lâm. Vua còn

phong tặng sư hiệu Như Tích thiền sư, hết lời khen

ngợi và khích lệ rất vẽ vang.

Đức Huy phụng sắc lệnh được đóng ấn của vua, trở

về lại chùa, thì căn gác đã xây cất hoàn thành nhưng

chưa kịp ghi chép sự tích. Ông bèn đi đến Hoàng

Tấn, thỉnh cầu Tấn soạn bài tựa: “Xin Ngài vui lòng

viết giúp bài tựa ghi lại nguyên nhân kiến tạo căn

gác này đặng tôi đem về khắc làm bài ký”.

Tấn trộm nghĩ: Thánh hiền đời xưa tùy thời hành xử,

vừa nắm vừa buông, vận dụng uyển chuyển, tuần

hoàn không cùng, nhờ vậy mà mọi việc đều chuyển biến thông suốt. Đức Phật thiết lập giáo pháp, trước

hết chế ra giới luật. Nghĩa lý của các bộ phái, Đại

Tiểu thừa đều trình bày đầy đủ; các việc khai già

(cho phép hay cấm chỉ) cũng chỉ nhằm một mục đích.

Nhưng hễ càng cách xa Thánh nhân (đức Phật) thì

càng giới hạn vào những chuyên môn, tên gọi đặt ra

càng nhiều thì đạo lý ngày càng ẩn khuất. Vì thế, Tổ

Đạt-ma không dùng đến phương tiện mà chỉ thẳng

nguồn tâm; tướng trạng của giới luật rất uyển

chuyển, không có gì chướng ngại; nhưng càng gần

thế tục, ngọn ngành, cái hoang đường chiếm ưu thế

thì điều chân chính bị chia lìa, chạy theo cái phù

phiếm bên ngoài thì tạo thành tư tưởng tà mạn. Vì

thế, Tổ Bách Trượng hoằng dương quỹ phạm, dựa

vào giới luật mà hành động, điều hợp hộ trì, vin vào

sự tướng mà là vận dụng lý tính. Bởi vì, đạo lý của

Phật nhờ Tổ Đạt-ma mà sáng tỏ; sự tướng của Phật

do Bách Trượng mà hoàn bị. Cái diệu dụng của sự

biến hóa thông suốt là do con người mà ra. Về sau,

sự truyền thừa của Tổ Đạt-ma được chia thành năm

phái, mà phát xuất từ Tổ Bách Trượng thì có hai

phái. Các Thiền sư khác tuy mỗi nhà đều thiết lập ra

yếu chỉ này, tông phái nọ, nhưng để quản lý đồ chúng

ổn định thì chưa thấy ai không theo phép tắc của

Bách Trượng. Thế thì gọi Sư (Bách Trượng) là

“Thiên hạ sư biểu” quả thật xứng đáng, chẳng ngoa

chút nào. Tại cõi Trung độ (Trung Quốc) này vua tôi

đều tôn kính sùng mộ Phật pháp làm cho Phật giáo

tỏa sáng không lúc nào bằng lúc này. Huy gặp thời

có Thánh chúa, nương nhờ sự hộ pháp của hoàng đế mà xiển dương những lời giáo huấn của tiền bối,

thiệu long tông phong, khiến cho sơn môn cùng với

quốc gia bền vững lâu dài, mãi mãi trường tồn;

không những ngày nay Thiên hạ tôn xưng là Sư biểu

mà cùng tận đời vị lai ai nấy cũng đều phải nương

tựa. Tấn tôi kính cẩn ghi lại vài điều trên đây, còn

việc siêng năng theo thời khóa kinh kệ và xây dựng

cơ ngơi tráng lệ thì khỏi cần bàn đến. Căn gác là một

ngôi nhà chia làm năm gian, cao 120 thước, cứ một

lần tu bổ thì tăng thêm một phần ba chiều cao, và ba

lần tu bổ thì hoàn chỉnh rộng rãi như hiện nay. Việc

xây dựng cho đến tháng sáu mùa hạ năm đầu niên

hiệu Chí Thuận (1330) thì ổn định, nhưng đến tháng

mười mùa đông thì công việc mới hoàn tất. Đức Huy

yết kiến Thánh Thượng tháng năm mùa hạ, năm thứ

ba niên hiệu Nguyên Thống, và vua xuống chiếu cho

Sư vào tháng hai mùa xuân năm sau đến trụ núi này.

Như vậy, Đức Huy chính thức trác tích tại núi này là

năm Chí Nguyên nguyên niên (1335).

Thừa Trực lang quốc tử bác sĩ Hoàng Tấn soạn lời ký.

Hàn lâm thị chế phụng nghị đai phu kiêm quốc sử

viện biên tu quan Yết Hề Tư viết chữ thường.

Hàn lâm thị giảng học sĩ thông phụng đại phu tri chế

cáo đồng tu quốc sử tri kinh diên sự Trương Khởi

Nham viết chữ triện.

Tiền Vinh Lộc đại phu ngự sử trung thừa Triệu Thế

An, Quang Lộc đại phu Giang Nam chư đạo hành

ngự sử đại phu Dịch Thích Đổng A cùng dựng bia đá.

古清規序


翰林學士朝散大夫行左司諫知制誥同修國史判史

館事上柱國南陽郡開國侯食邑一千一百戶賜紫金

魚袋楊億述

[1157c27] 百丈大智禪師。以禪宗肇自少室至曹



溪以來。多居律寺。雖列別院。然於說法住持未

合規度。故常爾介懷。乃曰。佛祖之道欲誕布化

元。冀來際不泯者。豈當與諸部阿笈摩教為隨行

耶。或曰。瑜珈論瓔珞經是大乘戒律。胡不依隨

哉。師曰。吾所宗非局大小乘。非異大小乘。當

博約折中。設於制範務其宜也。於是創意別立禪

居。凡具道眼者有可尊之德。號曰長老。如西域

道高臘長呼須菩提等之謂也。即為化主。即處於

方丈。同淨名之室。非私寢之室也。不立佛殿唯

樹法堂者。表佛祖親囑受當代為尊也。所裒學眾

無多少無高下。盡入僧堂依夏次安排。設長連

床。施椸架掛塔道具。臥必斜枕床脣右脇吉祥睡

者。以其坐禪既久略偃息而已。具四威儀也。除

入室請益任學者勤怠。或上或下不拘常準。其闔

院大眾朝參夕聚。長老上堂陞座主事徒眾雁立側

聆。賓主問酬激揚宗要者。示依法而住也。齋粥

隨宜[1]一時均遍者。務于節儉表法食雙運也。行

普請法上下均力也。置十務謂之寮舍每用首領一

人管多人。營事令各司其局也。或有假號竊形混

于清眾別致喧撓之事。即當維那檢舉抽下本位掛

搭。擯令出院者。貴安清眾也。或彼有所犯即以

拄杖杖之。集眾燒衣鉢道具。遣逐從偏門而出

者。示恥辱也。詳此一條制有四益。一不污清眾

生恭信故。二不毀僧形循佛制故。三不擾公門省

獄訟故。四不泄於外護宗綱故。四來同居聖凡孰

辦。且如來應世尚有六群之黨。況今像末。豈得

全無。但見一僧有過。便雷例譏誚。殊不知輕眾

壞法其損甚大。今禪門若稍無妨害者。宜依百丈

叢林規式。量事區分。且立法防姦。不為賢士。

然寧可有格而無犯。不可有犯而無教。惟大智禪

師護法之益其大矣哉。禪門獨行自此老始。清規

大要遍示後學令不忘本也。其諸軌度集詳備焉。

億幸叨叡旨刪定傳燈。成書圖進。因為序引。旹

景德改元歲次甲辰良月吉日書。

CỔ THANH QUI TỰ

HÀN LÂM HỌC SĨ TRIÊU TÁN ĐẠI PHU HÀNH TẢ TY GIÁN TRI CHẾ CÁO

ĐỒNG TU QUỐC SỬ PHÁN SỬ QUÁN THƯỢNG TRỤ QUỐC NAM DƯƠNG

QUẬN KHAI QUỐC HẦU THỰC ẤP NHẤT THIÊN BÁCH HỘ TỨ TỬ KIM NGƯ

ĐẠI DƯƠNG ỨC THUẬT

[1157c27] Bách Trượng Đại Trí Thiền sư dĩ Thiền

tông triệu tự Thiếu Thất chí Tào Khê dĩ lai đa cư

luật tự. Tuy liệt biệt viện, nhiên ư thuyết pháp trụ

trì, vị hiệp qui độ, cố thường nhĩ giới hoài, nãi viết:

“Phật, Tổ chi đạo, dục đãn bố hóa nguyên, ký lai tế

bất mẫn giả, khởi đương dữ chư bộ A-cấp-ma giáo

vi tùy hành da. Hoặc viết: ‘Du-già luận, Anh Lạc

kinh thị Đại thừa giới luật, hồ bất y tùy tai?’”. Sư

viết: “Ngô sở tông phi cục Đại-Tiểu thừa, phi dị Đại

– Tiểu thừa, đương bác ước chiết trung, thiết ư chế

phạm, vụ kỳ nghi dã”. Ư thị sáng ý biệt lập Thiền

cư. Phàm cụ đạo nhãn giả, hữu khả tôn chi đức,

hiệu viết Trưởng lão, như Tây Vực đạo cao lạp

trưởng, hô A-xà-lê đẳng chi vị dã. Tức vi hóa chủ,

tức xử ư phương trượng đồng Tịnh Danh chi thất, phi

tư tẩm chi thất dã. Bất lập Phật điện duy thọ pháp

đường giả, biểu Phật, Tổ thân chúc thọ đương đại vi

tôn dã. Sở tụ học chúng vô đa thiểu, vô cao hạ, tận

nhập tăng đường, y hạ thứ an bài. Thiết trường liên

sàng, thi di giá quải đáp đạo cụ. Ngọa tấc tà chẩm

sàng thần, hữu hiếp cát tường thùy giả, dĩ kỳ tọa Thiền ký cửu, lược yển tức nhi dĩ. Cụ tứ uy nghi dã,

trừ nhập thất thỉnh ích, nhiệm học giả cần đãi, hoặc

thượng hoặc hạ, bất câu thường chuẩn. Kỳ hạp viện

đại chúng, triêu tham tịch tụ. Trưởng lão thượng

đường, thăng tòa, chủ sự đồ chúng, nhạn lập trắc

linh. Tân chủ vấn thù, kích dương tông yếu giả, thị y

pháp nhi trụ dã. Trai chúc tùy nghi, nhị thời quân

biến giả, vụ ư tiết kiệm biểu pháp thực song vận dã.

Hành phổ thỉnh pháp, thượng hạ quân lực dã. Trí

thập vụ vi chi liêu xá, mỗi dụng thủ lãnh nhất nhân,

quản đa nhân dinh sự, linh các tư kỳ cục dã. Hoặc

hữu giả hiệu thiết hình, hỗn vu thanh chúng, biệt trí

huyên nhiễu chi sự, tức đương duy-na kiểm cử, trừu

hạ bổn vị quải đáp, tẫn lệnh xuất viện giả, quý an

thanh chúng dã. Hoặc bỉ hữu sở phạm tức dĩ trụ

trượng trượng chi, tập chúng thiêu y bát đạo cụ,

khiển trục tùng thiên môn nhi xuất giả, thị sỉ nhục

dã. Tường thử nhất điều chế hữu tứ ích : Nhất, bất ô

thanh chúng, sanh cung tín cố. Nhị, bất ủy tăng

hình, tuần Phật chế cố. Tam, bất nhiễu công môn,

tỉnh ngục tụng cố. Tứ, bất tiết ư ngoại, hộ tông

cương cố. Tứ lai đồng cư, Thánh phàm thục biện.

Thả Như Lai ứng thế, thượng hữu lục quần chi đảng,

huống kim tượng mạt, khởi đắc toàn vô. Đản kiến

nhất tăng hữu quá tiện lôi lệ kê tiếu, thù bất tri khinh

chúng hoại pháp, kỳ tổn thậm đại. Kim Thiền môn nhược sảo vô phương hại giả, nghi y Bách Trượng

tùng lâm qui thức, lượng sự khu phân, thả lập pháp

phòng gian, bất vi hiền sĩ, nhiên ninh khả hữu cách nhi

vô phạm, bất khả hữu phạm nhi vô giáo.

Duy Đại Trí Thiền sư, hộ pháp chi ích, kỳ đại hĩ tai!

Thiền môn độc hành, tự thử lão thỉ. Thanh qui đại

yếu, biến thị hậu học, linh bất vong bổn dã. Kỳ chư

quỹ độ, tập tường bị yên. Ức hạnh thao duệ chỉ, san

định Truyền đăng, thành thư đồ tấn, nhân vi tự dẫn.

Thời Cảnh Đức cải nguyên tuế thứ Giáp thìn lương

nguyệt cát nhật thư.

BÀI NGUYÊN TỰ SÁCH BÁCH TRƯỢNG THANH QUI

(Do Quan Hàn Lâm Học Sĩ Khai Quốc Hầu Dương Ưc Soạn Thuật)

[1157c27] Thiền sư Bách Trượng Đại Trí cho rằng

Thiền tông bắt đầu từ (ngài Bồ-đề-đạt-ma) ở núi

Thiếu Thất cho đến (lục tổ Huệ Năng) tại Tào Khê

đổ lại, phần nhiều ở đậu chùa luật. Tuy liệt biệt

viện, nhưng về thuyết pháp trụ trì thì chưa hợp qui

độ, cho nên thường để ý nơi lòng, bèn nói rằng:

“Đạo của Phật và Tổ là muốn ban bố rộng rãi, giáo

hóa từ gốc, mong đến ngày sau không mờ diệt vậy.

Há nên cùng với các bộ A-cấp-ma Giáo mà tùy

hành ru? Có kẻ nói luận Du-già và kinh Anh Lạc là

giới luật Đại thừa, vậy sao lại không nương theo

chứ!”. Sư nói: “Tông môn của ta không thuộc Đại – Tiểu thừa, mà cũng không khác Đại – Tiểu thừa,

vậy nên co dãn chiết trung, thiết lập nơi chế phạm,

nhằm thích nghi mà thôi”. Do đó mà sáng ý lập

riêng Thiền tự. Phàm người gồm đủ mắt đạo, có đủ

đạo đức đáng tôn vọng thì gọi là Trưởng lão, giống

như bên Tây Vức ai đạo cao, tuổi lạp lớn thì gọi là

A-xà-lê vậy. Tức phàm làm hóa chủ thì ở nơi chỗ

phương trượng giống như thất của Tịnh Danh (Duy-

ma-cật), chứ không phải nơi thất chỉ là buồng ngủ

riêng. Không lập các Phật điện chỉ xây pháp đường,

biểu thị nơi Phật và Tổ đích thân trao dặn, người

đời nay phải tôn trọng. Còn chỗ tụ tập của số đông

người học, không kể là nhiều ít, cao thấp, đều vào

trọn tăng đường, y theo thứ tự tuổi lạp hạ an cư mà

an bài, thiết lập giường dài liền nhau, làm giá treo

để móc đạo cụ. Nằm thì gối nghiêng đầu mép

giường, theo thế cát tường nghiêng sườn bên phải

mà ngủ, coi như tọa thiền quá lâu, tạm nghỉ ngơi

phần nào mà thôi. Còn về đầy đủ 4 oai nghi, trừ khi

vào thất thưa hỏi thầy, còn thì để mặc cho người

học cần mẫn hay trễ nhác, hoặc phải hoặc trái,

không câu nệ nơi thường chuẩn. Còn đại chúng cả

viện sáng thăm hỏi, chiều tụ tập, vị Trưởng lão vào

pháp đường lên trên tòa cao mà ngồi. Chủ sự và đồ

chúng, đứng thành hàng như nhạn bay lắng nghe.

Chủ – khách vấn đáp mà kích dương tông yếu, biểu

thị nương theo pháp mà trụ vậy. Cháo cơm tùy nghi, hai thời đều cùng khắp, nhằm tiết kiệm biểu thị

pháp thực song vận vậy. Thi hành phép phổ thỉnh

(tức lao động tập thể) trên dưới đều phải gắng sức

ngang nhau. Đặt 10 nhiệm vụ phòng liêu, mỗi thứ

đều dùng một người thủ lĩnh trông coi nhiều người

làm việc, khiến mỗi người đều điều khiển, trông coi

thuộc hạ của mình. Hoặc có kẻ giả hiệu trộm hình

lộn sòng vào thanh chúng, gây chuyện rùm beng lộn

xộn thì duy-na kiểm soát biết được, tước bỏ vị trí

dùng cơm, gạch tên khỏi danh sách chư tăng đuổi ra

khỏi viện nhằm tôn quí việc tu tập an ổn thanh tịnh

của đại chúng. Hoặc có kẻ phạm lỗi thì tập hợp

chúng lại, công cộng bình nghị khiển trách, tức

dùng hèo mà đánh, hoặc trục xuất buộc phải theo

cửa hông mà ra khỏi viện, biểu thị sỉ nhục. Xét kỹ

điều chế này có b?n cái lợi ích:

1. Không làm ô uế chúng trong sạch, nảy sanh

chuyện cung kính, tin tưởng.

2. Không hủy hoại tăng hình, tuân theo Phật chế định.

3. Không phiền quan lại công môn, tránh chuyện

ki?n tụng.

4. Không tiết lộ ra ngoài, bảo hộ kỷ cương của

Tông phái.

Đại chúng cùng ở chung, Thánh hay phàm ai mà

phân biệt được. Vả lại, thời đức Như Lai ứng thế

còn có nhóm 6 tỷ-kheo xấu ác, huống hồ nay là thời tượng pháp mạt thế, há có thể hoàn toàn không có

những kẻ xấu được sao? Tuy nhiên nếu mỗi lần thấy

một ông tăng có chút lỗi là lôi cả luật lệ sấm sét

chê mắng thậm tệ mà không biết đó là khinh chúng,

hoại pháp, tổn hại lớn lắm đấy!

Nay đây chốn Thiền môn mà muốn phần nào không

có chuyện phương hại, thì nên nương theo qui thức

của Bách Trượng tùng lâm mà lượng sự, xử phân.

Đành rằng lập pháp phòng gian là không dành cho

bậc thiện sĩ, tuy nhiên nên hữu cách vô phạm, mà

không nên hữu phạm vô giáo. Ích lợi hộ pháp của

Thiền sư Đại Trí thật lớn lao thay! Độc hành của

Thiền môn bắt đầu từ ông lão đó vậy. Nét đại yếu

của Thanh Qui trải soi khắp kẻ hậu học, khiến

không quên gốc vậy. Các phép tắc đường lối, sách

này đều tập hợp rành rõ đầy đủ cả.

Dương Ức tôi lạm được đọc chỉ ý sâu xa, san định

Truyền đăng. Sách thành định dâng lên Thánh

thượng, nhân đó viết lời tự dẫn. Ngày lành tháng tốt

năm Giáp thìn, niên hiệu Cảnh Đức cải nguyên.

*

* *



勅修百丈清規敘

[1159a05] 天曆至順間文宗皇帝建大龍翔集慶寺

於金陵。寺成以十方僧居之。有旨行百丈清規。

元統三年乙亥秋七月。今上皇帝申前朝之命。若

曰。近年叢林清規往[3]往增損不一。於是特勅百

丈山大智壽聖禪寺住持德煇重輯。其為書仍勅大

龍翔集慶寺住持大訢。選有學業沙門。共校正

之。期於歸一使遵行為常法。德煇等奉命唯謹。

書將成。屬玄為敘。玄嘗聞諸師曰。天地間無一

事無禮樂。安其所居之位為禮。樂其日用之常為

樂。程明道先生一日過[4]定寺。偶見齋堂儀。喟

然嘆曰。三代禮樂盡在是矣。豈非清規綱紀之力

乎。曰服行之熟故能然乎。循其當然之則。而自

然之妙行乎其中斯則不知者以為事理之障。而知

之者則以為安樂法門固在是也。然使是書龐然雜

而不倫。則有序而和之意。久而微矣。故校讐之

功有益於是書甚大。而兩朝嘉惠學人之旨。相為

無窮焉。宋清規行。楊文公億為敘本末。條目具

詳。茲不重出云。至元二年丙子春三月上澣。翰

林直學士中大夫知制誥同脩國史國子祭酒廬陵歐

陽玄敘。

勅修百丈清規卷第八(終)



SAÉC TU BAÙCH TRÖÔÏNG THANH QUI TÖÏ

[1159a05] Thiên lịch Chí Thuận gian Văn Tông

hoàng đế kiến Đại Long Tường Tập Khánh tự ư Kim

Lăng. Tự thành dĩ thập phương tăng cư chi, hữu chỉ

hành Bách Trượng thanh quy. Nguyên Thống tam

niên Ất hợi thu thất nguyệt, kim thượng hoàng đế

thân tiền triều chi mệnh, nhược viết: “Cận niên tùng

lâm thanh quy vãng vãng tăng tổn bất nhất, ư thị đặc

sắc Bách Trượng sơn Đại Trí Thọ Thánh thiền tự Trụ

trì Đức Huy trùng tập.” Kỳ vi thư nhưng Sắc Đại

Long Tường Tập Khánh tự Trụ trì Đại Hân tuyển hữu

học nghiệp sa-môn, cộng hiệu chính chi, kỳ ư qui

nhất sử tuân hành vi thường pháp. Đức Huy đẳng

phụng mệnh duy cẩn. Thư tương thành, chúc Huyền

vi tự, Huyền thường văn chư sư viết: “Thiên địa gian

vô nhất sự vô lễ nhạc. An kỳ sở cư chi vị vị lễ. Lạc

kỳ nhật dụng chi thường vị nhạc.” Trình Minh Đạo

tiên sinh nhất nhật quá Định Lâm tự, ngẫu kiến trai

đường nghi, vị nhiên thán viết: “Tam đại lễ nhạc tận

tại thị hỹ. Khởi phi thanh qui cương kỷ chi lực hồ?

Viết phục hành chi thục cố năng nhiên hồ? Tuần kỳ

đương nhiên chi tắc, nhi tự nhiên chi diệu; hành hồ

kỳ trung tư tắc bất tri giả dĩ vi sự lý chi chướng, nhi

tri chi giả tắc dĩ vi an lạc pháp môn cố tại thị dã”.

Nhiên sử thị thư bàng nhiên tạp nhi bất luân, tắc hữu

tự nhi hoà chi ý, cửu nhi vi hỹ. Cố hiệu thù chi công

hữu ích ư thị thư thậm đại. Nhi lưỡng triều gia huệ

học nhân chi chỉ, tương vi vô cùng yên. Tống thanh qui hành, Dương văn công Ức vi tự bổn mạt, điều

mục cụ tường, tư bất trùng xuất vân.

Chí Nguyên nhị niên Bính tý xuân tam nguyệt

thượng cán. Hàn lâm trực học sĩ trung đại phu tri chế

cáo đồng tu quốc sử quốc tử tế tửu Lư Lăng Âu

Dương Huyền tự.

Sắc tu Bách Trượng thanh quy quyển đệ bát chung

BAØI TÖÏA SAÙCH SAÉC TU BAÙCH TRÖÔÏNG THANH QUI

[1159a05] Vào khoảng năm Thiên Lịch Chí Thuận

(1328-1332) Hoàng đế Văn Tông kiến tạo ngôi chùa

Đại Long Tường Tập Khánh tại Kim Lăng. Đến khi

chùa hoàn thành, tăng chúng mười phương đến cư trú,

thì được thánh chỉ truyền lệnh thực hành thanh quy

của Bách Trượng. Tháng bảy mùa thu, năm Ất Hợi,

niên hiệu Nguyên Thống năm thứ ba, đức Kim Thượng

hoàng đế vâng theo mệnh lệnh của triều trước, dạy

rằng: “Những năm gần đây, Thanh quy của tùng lâm

thỉnh thoảng bị thêm bớt không còn thống nhất. Do

vậy, trẫm truyền lệnh cho Trụ trì chùa Thiền Đại Trí

Thọ Thánh núi Bách Trượng là Đức Huy sưu tập các

bộ sách ấy, đồng thời truyền lệnh cho Trụ trì chùa Đại

Long Tường Tập Khánh là Đại Hân tuyển chọn các

Sa-môn có học thức cùng nhau hiệu chính để bộ

Thanh quy được thống nhất, ngõ hầu dùng làm phép

tắc hằng ngày tại chốn tùng lâm”.

Đức Huy và các người khác kính cẩn phụng mệnh thực

hiện Thánh chỉ. Khi sách sắp hoàn thành, Sư bèn đến nhờ Huyền tôi viết lời tựa. Huyền tôi từng nghe các bậc

tôn sư dạy rằng: “Trong khoảng trời đất này không có

một việc gì là không dùng đến lễ nhạc. Sự ăn ở được

yên ổn, có trật tự là nhờ có lễ. Mọi sinh hoạt hằng ngày

diễn ra vui vẻ là nhờ có nhạc.” Một ngày nọ, tiên sinh

Trình Minh Đạo ghé qua chùa Định Lâm, ngẫu nhiên

trông thấy nghi thức của bữa thọ trai, cảm động tán

thán: “Lễ nhạc của ba thời đại (Hạ, Thương, Chu) đều

có tại đây vậy. Há chẳng phải do năng lực kỷ cương

của Thanh quy mà được như thế ư? Chính nhờ tuân

hành thuần thục Thanh quy mới được như thế! Do tuân

thủ những phép tắc nhất định mà tự nhiên đạt được sự

diệu dụng. Khi thực hành những quy cũ này, kẻ không

biết thì cho đó là chướng ngại sự lý, còn người thông

hiểu thì bảo rằng tất cả pháp môn an lạc đều hội tụ nơi

đây.” Nhưng để cho cuốn sách rối rắm này trở nên

mạch lạc thì cần có bài tựa để điều hòa các ý nghĩa,

nhờ vậy sẽ có giá trị tốt đẹp lâu dài. Thế nên, công lao

của sự hiệu chính sẽ đem lại lợi ích rất lớn cho bộ sách

này. Và ân huệ mà hai triều đại (Tống, Nguyên) đã ban

cho người học là vô cùng lớn lao vậy. Bộ Thanh quy

này đã được ban hành từ đời Tống, và quan Hàn lâm

học sĩ Dương Ức đã viết tựa trình bày đầu đuôi điều

mục đầy đủ rõ ràng, ở đây không cần phải lập lại nữa.

Thượng tuần tháng ba mùa xuân năm Bính Tý, niên

hiệu Chí Nguyên năm thứ hai (1336), Hàn lâm trực

học sĩ Trung đại phu tri chế cáo đồng tu quốc sử

quốc tử tế tửu Lô Lăng Âu Dương Huyền viết tựa.

Sắc tu Bách Trượng thanh quy quyển thứ 8 hết


Phụ Lục

TỪ NGỮ CHÚ THÍCH

SÁCH SẮC TU BÁCH TRƯỢNG THANH QUY

A-di-đà (阿 彌 陀): Danh từ dịch âm từ chữ amita, dạng viết

tắt của hai chữ Phạn (sanskrit) là Amitābha và Amitāyus.

Amitābha nghĩa là Vô Lượng Quang, ánh sáng vô lượng,

Amitāyus là Vô Lượng Thọ, là thọ mệnh vô lượng; Tên của

một vị Phật quan trọng, được tôn thờ nhiều nhất trong Ðại thừa

(s: mahāyāna). A-di-đà là giáo chủ của cõi Cực lạc (s: su-

khāvatī) ở phương Tây. Phật A-di-đà được tôn thờ trong Tịnh

độ tông tại Trung Quốc, Nhật Bản, Việt Nam và Tây Tạng,

tượng trưng cho Từ bi và Trí huệ.

A-la-hán ((阿羅漢; S: Arhat, P: Arahant): Là một trong 4 quả

của Thanh văn, là một trong 10 hiệu của Phật Như Lai. Lại

cũng gọi là a-lô-hán, a-la-ha, a-lợi-kha, gọi tắt là La-hán, dịch

theo ý là Ứng, Ứng Cúng, Ứng Chân, Sát Tặc, Bất Sanh, Vô

Sanh, Vô Học, Chân Nhân, chỉ đoạn dứt trọn kiến của tam giới

hoặc của tư (?), chứng được tận trí, là vị Thánh có thể nhận sự

cúng dường của thế gian. Thực ra, La-hán là quả vị cao nhất

cho cả Đại và Tiểu thừa nhưng thường bị ngộ nhận cho là quả

vị tối cao của Tiểu thừa.

A-na-luật ((阿那律: S: Aniruddha, P: Anuruddha): Lại cũng

gọi là A-ni-lô-đà, A-na-luật, dịch theo ý là Vô Diệt, Như Ý,

Vô Chướng, Vô Tham, Tùy Thuận Nghĩa Nhân, Bất Tranh

Hữu Vô, là một trong 10 đại đệ tử của Phật, là tùng đệ của

Phật Đà trong dòng họ Thích tại thành Ca-tỳ-la-vệ ở Trung

Ấn thời cổ đại.

A-xà-thế vương (????): A-xà-thế (S: Ajatasatru, P:

Ajatasattu), là con vua nước Ma-yết-đà Tần-bà-sa-la, dịch

theo ý là Vị Sanh Oán Vương, Pháp Minh Vương. Mẹ vua tên

Vi-đề-hy cho nên cũng còn gọi là A-xà-thế Vi-đề-hy tử. Vua

này tự thí cha lên làm vua và chinh phạt các nơi tạo cơ sở

thống nhất Ấn Độ.

Ác nghiệp (惡業) (S. 326): Phật giáo cho rằng những hành vi

của thân, khẩu, ý là “Nghiệp”. Do năng lực thiện ác của

nghiệp nên đưa đến báo ứng tương xứng. Ác nghiệp là những

hành động sai lầm dẫn đến quả báo xấu.

Ác tập (惡習?): Thói hư tật xấu huân tập lâu ngày.

Ái võng (愛?W): Lưới tình, ví dụ tình ái như mắc lưới quấn

cột người không ra khỏi được.

An cốt (安骨) (S.174): Sau khi hỏa táng, nhặt các tro, xương rồi

tôn trí vào tháp, lễ này được gọi là “lễ An cốt”, còn gọi là “An vị”.

An cư (安居S. ṣika, varṣa. P. vassa). Dịch ý là thời kì mưa.

Còn gọi là hạ an cư, vũ an cư, tọa hạ, hạ tọa, kết hạ, tọa lạp,

nhất hạ, cửu tuần cấm túc, kết chế an cư, kết chế. Thời kì mưa

ở Ấn Độ kéo dài suốt ba tháng mùa hạ. trong ba tháng này,

người xuất gia không được đi ra ngoài mà phải tập trung ở yên

một chỗ, dốc sức tu hành gọi là an cư. Trong thời kì mưa nhiều,

đi ra ngoài, sợ dẫm đạp lên các loại côn trùng và mầm non các

loại cây cỏ trên mặt đất, khiến người đời chê cười, vì thế phải ở

yên một chỗ để tu hành, không đi ra ngoài. Tứ phần luật san bổ

tùy cơ yết ma sớ quyển 4 giải thích nghĩa chữ an cư như sau:

thu nhiếp thân tâm yên tĩnh là an, ở tại một chổ là cư.

An lạc ((安樂) (S. 366): Thân thể khỏe mạnh, tâm trạng vui vẻ.

An thiền (安禪) (S. 367): Trạng thái tinh thần ngồi thiền

không suy nghĩ, không tri giác.

Anh Lạc kinh (???): Là bộ kinh thuyết minh tác pháp thọ

giới rất được Pháp tướng tông và Thiên Thai tông tôn vọng.

Ấp hương (揖香): Cung kính chắp tay xá chào mời cắm

hương.


Ấp trà (揖茶): Xá chào mời uống trà.

Ba cõi: Tức Ba thế giới của vòng sinh tử, là nơi mà loài Hữu

tình tái sinh trong Lục đạo (skt: gati), có thể hiểu là Vũ trụ

quan của đạo Phật. Ba thế giới bao gồm: 1. Dục giới (欲 界;

skt, p: kāmaloka, kāmadhātu), có Ái dục về giới tính và những

ái dục khác. 2. Sắc giới (色 界; skt: rūpaloka, rūpadhātu): các

vị ở đây thuộc nam tính nhưng đã chấm dứt mọi dục tính, ăn

uống, nhưng còn có khoái lạc. Ðây là thế giới của các thiên

nhân trong cõi Thiền (skt: dhyāna). Hành giả tu tập thiền định

có thể tái sinh trong cõi sắc. 3. Vô sắc giới (無 色 界;

arūpaloka, arūpadhātu): thế giới này được tạo dựng thuần túy

bằng tâm thức và gồm Bốn xứ (arūpasamādhi). Hành giả tu

học Tứ thiền bát định có thể tái sinh vào bốn xứ này.
Ba-la-đề-đề-xá-ni ((波羅提提舍尼: S: patidesaniya): Là một

trong cụ túc giới mà tỉ-kheo hay tỉ-kheo-ni thọ trì, gọi tắt là

Đề-xá-ni, dịch theo ý là Đối Tha Thuyết, Hối Quá Pháp

v.v… Khi phạm giới này thì phải hướng về tỉ-kheo thanh tịnh

mà nói cho họ biết để sám hối.

Ba-la-đề-mộc-xoa ((波羅提木叉; S: Pratimoksa, Pratimoksa,

P: Pratimokkha, Pratimokkha): Chỉ phòng ngừa lỗi lầm của

thân, miệng và 7 chi của 7 chúng, là giới luật phải thọ trì để

xa lìa mọi phiền não hoặc nghiệp mà được giải thoát. Lại còn

gọi là Bát-la-để-mộc-xoa, dịch theo ý là Tùy Thuận Giải

Thoát, Xứ Xứ Giải Thoát, Biệt Biệt Giải Thoát, Biệt Giải

Thoaùt, Toái Thaéng, Voâ Ñaúng Hoïc. Giôùi naøy ñeå phoøng hoä caùc

caên, taêng tröôûng thieän phaùp, laø phaàn nhaäp moân trong caùc

thieän phaùp, cho neân môùi goïi laø Ba-la-ñeà-moäc-xoa.

Ba-la-nại (波羅奈; skt: vārāṇasī): Một quốc gia thời cổ đại Ấn

Độ, nằm phía Tây nước Ma-kiệt-đà và phía Bắc xứ Kośola.

Thủ đô còn được gọi là vārāṇasī, ngày nay là Ba-la-nại. Là nơi

đức Phật Thích ca mâu-ni truyền dạy pháp giác ngộ cho năm vị

đệ tử đầu tiên.

Ba Lăng tam chuyển ngữ (巴陵ý轉語): Đy là công án

Thiề tông, lạ còn gọ là Ba Lăg tam cú, chỉcho 3 câu nói

mà Thiề sưBa Lăg Hạ Giám dùng đ? kích thích kẻhậ

họ giúp cho họchuyể mê khai ngộ tứ là “hén bạ đ?ng

đầ tuyế” “an hô cành cành chốg trăg” “à lạh leo lên

cây, vị lạh lộ xuốg nư?c” Vân Môn Vă Yể nghe đ?ợ

câu này rấ lấ làm thích thú.

Ba-li (波离 S, P. Upāli). Gọi tắt của Ưu-ba-li, Ô-ba-lợi. Hán

dịch: Cận chấp, Cận thủ. Một trong 10 vị đại đệ tử của đức

Phật, người nước Ca-tì-la-vệ thuộc Ấn Độ, xuất thân từ giai

Thủ-đà-la, làm thợ hớt tóc trong cung đình. Ưu-ba-li chuyên về

giới luật, tu trì nghiêm cẩn, được khen là “Trì luật đệ nhất”;

trong lần kết tập đầu tiên, sư đã tụng lại Luật bộ.

Bà-la-môn (婆 羅 門; S, P: brāhmaṇa): Danh từ chỉ một giai

cấp, một hạng người tại Ấn Ðộ. Thuộc về giai cấp Bà-la-môn

là các tu sĩ, triết gia, học giả và các vị lĩnh đạo tôn giáo. Dân

chúng Ấn Ðộ rất tôn trọng cấp người này. Trong thời đức Phật

hoằng hóa, cấp này là cấp thứ hai của bốn cấp (sau thời đức

Phật đến bây giờ là cấp cao nhất) trong hệ thống xã hội và vì

vậy, họ rất kiêu mạn. Nhiều Bà-la-môn cho rằng, chỉ họ mới

mang dòng máu “trắng” là dòng máu trong sạch và tất cả các

hạng người còn lại chỉ sống để phụng thờ họ. Trong những bài

kinh thuộc văn hệ Pā-li (Bộ kinh), Phật không hề chống đối giai

cấp Bà-la-môn nhưng lại bảo rằng, không phải sinh ra trong
một gia đình, dòng dõi Bà-la-môn, là tự nhiên trở thành một

Bà-la-môn. Người ta “trở thành” một Bà-la-môn với những

hành động, những ý nghĩ cao thượng và đó chính là những tiêu

chuẩn đích thật. Bất cứ người nào cũng có thể được gọi là Bà-

la-môn nếu họ đạt những tư cách nói trên. Ðây là một chiến

thuật tuyệt vời của đức Phật khi Ngài chuyển ý nghĩa “giai cấp

Bà-la-môn” thành một danh từ đạo đức Bà-la-môn, tức là một

người có đầy đủ đức hạnh, vượt mọi giai cấp xã hội thời đó

(Tập bộ kinh).

Bách thị ((百氏):Trăm nhà, nghĩa tương đương như bách gia,

chư tử, tức là toàn bộ mọi hệ thống tư tưởng triết lý chính trị,

học thuyết của tất cả các triết gia có dòng tư duy khác nhau

trong toàn cõi Trung Quốc.

Bách Trượng (百丈) gọi đủ Bách Trượng Hoài Hải (百丈

懷海) (720-841) Vị tăng đời Đường. Người huyện Trường Lạc,

Phúc Châu, họ Vương (có thuyết cho rằng họ Hoàng). Từ nhỏ

đã thích đến thăm các tự viện, năm hai mươi tuổi theo ngài Tuệ

Chiếu ở Tây Sơn xuất gia, sau theo luật sư Pháp Triêu ở Nam

Nhạc thụ giới cụ túc, không lâu, đến Lư Giang (ở Tứ Xuyên)

đọc Đại tạng. Gặp được ngài Mã Tổ-Đạo Nhất hoằng pháp tại

Nam Khang, đem tâm hướng theo và được Đạo Nhất ấn khả.

Vì cùng với các sư Trí Tạng ở Tây Đường, Phổ Nguyện ở Nam

Tuyền đều được trao truyền phép thiền, nên thời bấy giờ gọi là

Tam đại sĩ. Sau ra làm chủ tại Tân Ngô (huyện Phụng Tân tỉnh

Giang Tây), núi Bách Trượng, tự lập ra thiền viện, chế định

thanh qui, suất chúng tu trì, thực hành sinh họat nông thiền

(làm ruộng). Sư từng nói (Đại 48, 1119 trung); “Một ngày

không làm, một ngày không ăn”. Năm Nguyên Hòa thứ 9, viên

tịch, thế thọ chín mươi lăm tuổi. Nhà vua ban thụy “Đại Trí

thiền sư”, tháp hiệu “Đại bảo thắng luân”. Môn hạ có Hi Vận ở

Hoàng Bá, Linh Hựu ở Qui Sơn đứng đầu. Về sau các vua đời

Tống, Nguyên lại ban thụy hiệu “Giác Chiếu thiền sư”, “Hoằng

tông Diệu Hạnh thiền sư”.
Bạch chùy (白椎): Là một nghi thức trong lễ khai đường. Lúc

khai đường, một vị tôn túc am tường lễ nghi đánh chùy gỗ

một tiếng để báo hiệu dừng mọi tiếng huyên náo an bày trật

tự rồi cất tiếng thỉnh mời trụ trì thuyết pháp gọi là bạch chùy.

Sau khi trụ trì kết thúc buổi thuyết pháp, lại đánh một tiếng

chùy gỗ nữa để báo hiệu thuyết pháp thành công hoàn mãn

gọi là kết chùy. Người giữ nhiệm vụ bạch chùy và kết trùy

cũng gọi là bạch chùy.

Bái nhạc (唄樂) (S. 187): Ban nhạc diễn xướng những lời

bằng tiếng Phạn trong nghi lễ.

Bàn phục (柈袱): Cũng viết là (盤袱), tức cái khăn vải đậy

lên cái mâm đựng thiếp sớ.

Bản trướng (板?¤) (S.171): còn viết là (板~), khi vị trụ trì

bị bệnh nặng, Giám viện chuẩn bị nhóm họp các vị có chức

vụ như: Tri sự, Đầu thủ để đưa người bệnh đến ở Đông đường

và đem những tài vật tùy thân của người bệnh ghi chép lại

thành bản liệt kê gọi là Bản trướng.

Bán trai (半ýS): Tức là bữa ăn điểm tâm nhẹ giữa bữa cháo

sáng và bữa trai trưa.

Bàng bái (霶霈¬): Mưa rào tuôn rơi ào ào, tức là mưa to trút xối xả.

Báo địa (報?地) (S.165): tứ là báo đ?, là mộ cõi Tịh đ?

đ?ợc trang nghiêm bằg muôn vàn công đ?c.

Báo tạ(報?謝x): báo ơ, tạđ?c. Ởngữcảh trong bài có nghĩ

là đp tạơ mọ ngư?i đ?a trụtrì nhậ việ.

Báo thân (報身) (S. 253): Một trong ba thân Phật, tức sắc thân

của Phật, trải qua sự tu tập mà được thân Phật ngộ đạo triệt để.

Bát bộ (八部): gọi đủ là thiên long bát bộ, hay bát bộ chúng

gồm Thiên (deva), Long (nàga), Dạ-xoa (yaksa), A-tu-la

(asura), Ca-lâu-la (garuda), Càn-thát-bà (gandharva), Khẩn-

na-la (kimnara), Ma-hầu-la-già (mahoraga). Đây là các thần

có sức mạnh lớn để bảo hộ Phật pháp. Tromg bát bộ thì lấy

thiên và long là chủ yếu, cho nên gọi là Thiên Long bát bộ.

Bát cụ (鉢具) (S. 342): dụng cụ đựng thức ăn của chúng tăng.

Bát cực (八極): chỉ nơi xa xôi cùng cực ở 8 hướng, “Minh đế

ký” sách Hậu Hán thư viết: “Khôi hoàng đại đạo, bị chi bát

cực”, Hoài Nam Tử chú: “Ngoài 9 châu có bát dần, ngoài bát

dần có bát hoang, ngoài bát hoằng có bát cực”.

Bát hoang (八»): nghĩa như bát cực (xin xem chú thích chữ

“bát cực”). “Thuyết uyển biện vật” chép: “Trong khoảng bát

hoang (tám cõi xa xôi cùng cực có 4 biển, trong 4 biển có 9

châu. Thiên tử ở tại trung châu mà chế ngự 8 phương vậy”.

Bát nạn (八) (S. 315): Phật giáo cho rằng có tám trở ngại

khiến cho chúng sanh không gặp Phật và nghe pháp: 1. Địa

ngục; 2. Ngạ quỷ; 3. Súc sanh; 4. Sanh nơi Bắc-cu-lô-châu;

5. Sanh lên cõi trời trường thọ; 6. Đui, điếc, câm, ngọng; 7.

Trí thông minh của thế gian; 8. Sinh ra trước hoặc sau Phật.

Nghĩa là sanh vào khoảng thời gian không có Phật pháp giữa

hai thời kỳ này.

Bát-nhã-ba-la-mật-đa (船苦?¨羅密?): cũng gọi là Bát-nhã-

ba-la-mật, dịch theo ý là trí huệ đáo bỉ ngạn (đến bờ bên kia),

trí độ, minh độ, phổ trí độ vô cực, hoặc huệ ba la mật đa, là

một trong sáu ba la mật, hoặc một trong mười Ba la mật, tức

trọn chiếu trí huệ thực tướng mà đến tận cùng bờ mé của trí

huệ, độ sanh tử bờ bên này đến Niết-bàn bờ bên kia.


Bát-nhã-đa-la tôn giả ((般若多羅尊者: S: Prajnatara), là Tổ

thứ 27 trong số 28 Tổ Tây Thiên do Thiền tông lập ra, cũng

còn gọi là Anh Lạc Đồng Tử, là người Đông Thiên Trúc,

thuộc chủng tộc Bà-la-môn, sớm mồ côi cha mẹ, thường đi

lang thang trong làng xóm, hành tung giống như Bồ-tát

Thường Bất Khinh. Năm 20 tuổi gặp Tổ thứ 26 là Bất Như

Mật Đa thọ phó chúc trở thành Tổ thứ 27 Thiền tông Tây

Thiên, phó chúc cho Bồ-đề Đạt-ma thành Tổ thứ 28.

Bát-nhã kinh ((般若經: S: Prajđa), lại gọi là Ba-nhã, Ba-la-

nhã, dịch theo ý là huệ, trí huệ, minh, hiệt huệ, tức do tu tập

Bát chánh đạo và Ba La Mật mà hiển hiện trí huệ chân thực,

thấy rõ mọi sự vật và đạo lý. Bát Nhã kinh gọi đủ là Ma-ha

Bát-nhã-ba-la-mật-đa Tâm kinh, (S: Prajnàpàramita-hrdaya-

sùtra), chủ yếu tuyên thuyết lý chư pháp giai không qua các

pháp ngũ uẩn, thập nhị nhân duyên, tứ đế, sắc tức thị không,

không tức thị sắc.

Bát-nhã trí ((般若智 (S. 331): Bát-nhã là dịch âm của tiếng

Phạn là Prajnà, một trong sáu độ mà Phật giáo cho là có thể

đạt đến bờ kia; dịch ý là trí tuệ, nghĩa là sự nhận thức đặc thù

theo Phật giáo. Còn gọi là trí tuệ siêu việt đạt đến bờ bên

kia, niết-bàn.

Bát niết-bàn (般涅槃): cũng gọi là Bát nê-hoàn, (S:

Parinirvana) chỉ trạng thái tắt ngúm hay thổi cho tắt. Sau khi

phiền não thiêu đốt đã tắt, đến được cảnh giới giác ngộ, trí

tuệ hoàn thành, cho nên Phật giáo lấy cảnh giới này làm mục

đích sau cùng. Niết-bàn tịch tịnh là một trong 3 pháp ấn, vì

thế Phật nhập diệt gọi là Bát Niết-bàn.

Bát phước điền ((八福田) (S. 266): có nhiều thuyết không

đồng, một thuyết cho rằng, cúng dường đối với tám người

sau: 1. Phật, 2. Thánh nhân, 3. Hòa thượng (người trao giới

pháp cho mình), 4. Xà-lê, 5. Tăng, 6. Cha, 7. Mẹ, 8. Người

bệnh, thì được phước vô lượng cho nên gọi là tám phước

điền. Một thuyết khác cho rằng làm tám việc thiện như: làm

giếng dọc đường, sửa cầu, sửa sang đường sá, hiếu thuận cha

mẹ, cúng dường sa-môn, cung cấp cho người bệnh, cứu kẻ

hoạn nạn, lập đàn chẩn tế, đây chính là tám phước điền.

Bát vị (鉢位) (S. 130): vị trí ngồi dùng cơm của chư tăng tại

Tăng đường trong thiền lâm.

Bạt Già Tiên (跋伽仙): Còn gọi là Bạt Già Bà Tiên, Bạt Già

Xà, (S: Bhagava, P: Bhaggava), dịch theo ý là Ngõa sư, cũng

còn gọi là Vô Bất Đạt, là tên tiên nhân tu hành khổ hạnh

trong rừng. Khi Thế Tôn đang đêm trèo thành trốn đi đã đến

nơi này hỏi đạo vị tiên này, nhưng tiếc là hiện không rõ học

thuyết của ngài ra sao.

Bất đoạn luân (不斷輪): Chỉ tăng chúng đọc tụng kinh liên

tục không gián đoạn phút giây nào trong các lễ cầu tạnh, cầu

mưa ở tự viện. Hình thức là hoặc người này đọc tiếp theo người

kia, hoặc giả nhóm này đọc tiếp theo nhóm kia, tuần tự tụng

niệm câu chú suốt ngày nối tiếp nhau không gián đoạn.

Bất thẩm (不審) (S. 66): Tăng chúng gặp mặt chào hỏi nhau,

nếu là người dưới hỏi người trên, nên nói: “Xin hỏi, Ngài có

được ít bệnh ít não, đi đứng nhẹ nhàng tiện lợi chăng?”. Nếu

là người trên quan tâm đến người dưới, nên nói: “Có được

mạnh khỏe an lành; khất thực dễ dàng không? Chỗ đến

không có những người ác; xuống nước, lên bờ không đạp

phải côn trùng chứ?”. Người đời sau gọi tắt cách chào hỏi

này là “Bất thẩm”.
Bí chương (祕章): tức là bí mật chú, đó là gọi chung chân

ngôn Đà-ra-ni. Đà-ra-ni là chú văn bí mật trong các kinh, chỉ

phiên âm mà không dịch nghĩa.

Bỉ ngạn (彼岸) (S. 183): dịch từ tiếng Phạn là Pāra, nhà Phật

xem cảnh giới sanh tử là bờ bên này, xem việc thấu triệt nguồn

gốc của sự sanh tử, tiến lên các cõi Phật là bờ bên kia.

Biện hương ((瓣香): lòng thành kính, ngưỡng mộ, tôn trọng rất mực.

Biện sự (辦事) từ gọi chung các chức sự trong thiền viện như:

người trông coi các phòng tăng, người trông coi nhà dưỡng

bệnh, tiếp khách, làm vườn, bửa củi, gánh nước, bếp núc, gặt

hái v.v… đều gọi là biện sự.

Biểu (俵) (S. 84): tức Biểu tán, nghĩa là đem phẩm vật mà

mỗi người được nhận chia cho họ.

Bình (瓶): trong ngữ cảnh này là cái bình loại to đựng trà để

rót cho số đông tăng chúng uống.

Bỉnh cự (秉巨): Là một nghi thức cử hành trước khi di thể được

hỏa thiêu. Vài người cần cây đuốc gỗ sơn màu đỏ như hình cây

đuốc đang cháy, ra bộ dạng như đang châm đuốc đốt di thể,

đồng thời thuyết giảng Thiền lý gọi là Phật sự bỉnh cự.

Bỉnh phất ((秉拂) (S. 30): Phất chỉ dụng cụ để lau bụi, tức

cây xơ quất. Thiền sư khi thuyết pháp, tay thường cầm “Phất

trần”. Các vị Đầu thủ trong Thiền lâm như Thủ tọa, Đông

Tạng Chủ, Thư ký v.v… có đủ tư cách thay thế Trụ trì cầm

phất trần lên pháp tòa khai thị cho đại chúng, nên gọi những

vị tăng chấp sự này là “Bỉnh phất”.
Bồ-đề (菩提) S, P. bodhi. Dịch ý là giác, trí, tri, đạo. Nói theo

nghĩa rộng bồ đề là trí tuệ đoạn tuyệt phiền não thế gian mà

thành tựu Niết-bàn.
Bồ-đề thọ (菩提樹: S: bodhi-druma, bodhi-taru, bodhi-vrksa,

hoặc viết gọn là bodhi, P: bodhi-rukkha), lại còn gọi là giác

thọ, đạo thọ, đạo trường thọ, tư duy thọ, Phật thọ, là cây ở

phía Nam thành Ca-da nước Ma-kiệt-đà mà đức Phật đã ngồi

dưới gốc cây đó thành chánh giác. Cây này nguyên có tên

gọi là bát-đa (S: asvattha), bối đa, a thuyết tha, a bái đa, dịch

theo ý là cát tường, nguyên cát, tên khoa học là

Fecusreligiosa, trái của nó gọi là tất-bát-la (S: pippala).

Bồ-tát giới (菩薩戒) (S. 342): giới luật của Bồ-tát Tăng đại

thừa, theo Kinh phạm võng, nội dung gồm 10 giới trọng và 48

giới khinh là chỗ y cứ giới Bồ-tát.

Bổ xứ Trụ trì (補處住持) (S. 214): do vị trụ trì trước viên tịch

nên suy cử vị trụ trì mới thay vào đó.

Bộ sứ giả (部使者) (S.139): đời nhà Nguyên, Tuyên chánh

viện hoặc Hành tuyên chánh viện giữ việc quản lý Phật giáo

toàn quốc. Riêng Lễ Bộ thuộc Thượng Thư Tỉnh cũng là bộ

phận phụ trách công việc của Tăng già, bộ sứ giả chỉ sứ giả

do Lễ bộ sai khiến mà phái đi, chỉ sứ giả do Tuyên chánh

viện hay Hành tuyên chánh viện phái đến.

Bồi thiếp (陪貼) (S.171): ngoài cơm rau, còn phụ giúp thêm

những vật dụng cho Tăng già.

Bổn hoài (本懷): còn gọi là tố chí, tố hoài, tức là điều lo lắng

tưởng nghĩ căn bản trong lòng mình. Như Phật và chư Bồ-tát

từ xa xưa đến giờ, tâm niệm căn bản mà các ngài hằng ôm

ấp là cứu độ chúng sanh ra khỏi bể khổ. Pháp Hoa huyền

nghĩa quyển 1 viết: “Nhưng lập danh hiệu đốn đại mà không

lập nhất thừa độc diệu thì đó không phải là bổn hoài của Thế

Tôn”.


Bổn tích (本迹): tức là bổn tích nhị môn, cũng còn gọi là

“bổn địa thùy tích”, do ngài Trí Giả tông Thiên Thai lập ra.

Bổn chỉ cho bổn địa đã thành từ lâu, còn tích là chỉ cho thùy

tích mới thành, tức là chỉ thực thể và ảnh hiện. Bổn môn là

nơi Như Lai thực ra đã thành đạo từ lâu lắm rồi, hiển thị bổn

địa của Phật-đà. Tích môn là chỉ cho Phật-đà mới thị hiện

gần đây, đây là sự phân chia 2 phần, mỗi phần 14 phẩm ở

trong kinh Pháp hoa.

Bửu điện (宝殿): còn gọi là Đại Hùng bửu điện, Đại điện,

Đại Phật điện, Phật điện, tức là chánh điện chùa Thiền lâm.

C

Ca-sa (袈裟: S: Kasaya, P: Kasaya) dịch theo ý là bạc màu



(hoại sắc), nhiễm sắc v.v…, chỉ pháp y quấn quanh mình tăng sĩ.

Ca-tì-la-vệ 迦毗羅衛 (skt: kapilavastu; P: kapilavatthu) Thành

phố sinh trưởng của đức Phật lịch sử, Tất-đạt-đa Cồ-đàm (skt:

siddhārtha gautama), dưới chân Hi-mã-lạp sơn, ngày nay

thuộc nước Nepal. Ca-tì-la-vệ ngày xưa là thủ đô của dòng họ

Thích-ca (skt: śākya). Ðức Phật được sinh ra tại Lam-tì-ni (skt:

lumbinī) gần đó và sống thời niên thiếu tại Ca-tì-la-vệ.

Canh tường chi tư (羹牆之思): canh là canh chan cơm, còn

tường là tường vách. Truyện Lý Cố trong Hậu Hán thư chép:

“Xưa khi vua Nghiêu băng hà, vua Thuấn quá ngưỡng mộ vua

Nghiêu, trong 3 năm ngồi thì thấy hình ảnh vua Nghiêu nơi

vách tường, ăn cơm thì thấy hình ảnh vua Nghiêu trong tô

canh”. Vậy canh tường chi tư là lòng ngưỡng mộ tha thiết.

Cảnh mạng hảo nhật ((景命好日): ngày tốt cảnh mạng, cảnh

mạng là ngày Hoàng đế tức vị. Cảnh mạng có nghĩa là mạng

lệnh lớn lao, ý nói Hoàng đế vâng theo mạng lệnh lớn lao của trời. Từ đời Nguyên về sau, chốn Thiền lâm gặp ngày rằm mỗi

tháng đều phải cử hành nghi thức chúc tán tụng kinh.

Cảnh vĩ (景緯): nghĩa tương đương như cảnh tượng lớn lao.

Cao hoang (高肓): cao là chỗ dưới trái tim, hoang cũng thế.

Cao hoang là chỗ ách yếu của cơ thể con người, như nói bệnh

nhập cao hoang tức là bệnh nặng sắp chết.

Cáo hương (告香): là nghi thức kẻ tham học thắp hương để

thỉnh cầu sư gia phổ thuyết hay khai thị Thiền lý. Trong thời

gian cáo hương thì mọi chức sự trong chùa cũng như các hành

giả mới đến đều đứng theo vị trí ghi trong bảng đồ gọi là cáo

hương đồ.

Cáp giá (給假): cho nghỉ phép.

Cần sách (勤策) (S. 327): vị sa-di đã thọ mười giới, vì muốn

lập chí trở thành một vị tăng chính thức, tự mình nỗ lực khích

lệ bản thân nên gọi là Cần sách.

Cần cựu (勤舊) (S. 41): chỉ cho những vị Tăng có chức trách

cũ như Tri sự, Thị giả v.v… đã thối chức trong Tùng lâm. Vì

đã từng làm việc hết mình với chúng nên gọi là Cần, hiện đã

thối chức nên gọi là Cựu.

Câu-hi-la-trì (拘絺羅池) là một địa danh.

Câu-lưu-tôn Phật (拘留孫佛 S. Krakucchandha-buddha, P.

Kakusandha-buddha): Là đức Phật thứ tư trong bảy đức Phật ở

quá khứ, vị Phật thứ nhất trong một nghìn đức Phật ở kiếp hiện

tại. Còn gọi Ca-la-cư-tôn-đà Phật, Yết-lạc-ca-tôn-đà Phật, Ca-la-

ca-tôn-đà Phật, Câu-lâu-tần Phật, Ca-cưu-lưu Phật, Cưu-lưu-tần

Phật. Dịch ý là lãnh giữ, diệt lụy, đã dứt những điều phải dứt,

thành tựu mỹ mãn. Về di tích của đức Phật này, cứ theo Cao

tăng pháp hiển truyện chép thì Ấp na tỳ già cách thành Xá vệ về

mạn đông nam mười hai do diên, là nơi sinh của Phật Câu-lưu- tơn,

tôn, là nơi cha con gặp nhau đều cũng có dựng tháp Phật. Lại cứ

theo Đại đường Tây Vực ký, quyển 6, mục kiếp-tỷ-la-phạt-tốt-

đỗ quốc chép thì vua Vô-ưu (vua A-dục) có dựng cột đá trước

tốt đỗ ba (tháp) Xá-lỵ của đức Phật Ca-la-ca-tôn-đà.

Câu Thi (拘尸) (S. 187): gọi tắt của từ Câu-thi-na-yết-la, là tên

thành, nơi đức Phật Thích-ca Mâu-ni nhập Niết-bàn.

Chánh giác (正覺): Skt là Samyak-sambodhi, Pàli là Sammà

sambodhi, ý chỉ giác ngộ chân chánh. Cũng còn gọi là chánh

giải, đẳng giác, đẳng chánh giác, chánh đẳng chánh giác,

chánh đẳng giác, chánh tận giác, là tiếng gọi tắt của vô

thượng đẳng chánh giác tam miệu tam bồ đề.

Chánh nghiệp (正業) (S. 331): nghiệp trong sạch, thoát khỏi các

tà vọng. Tịnh độ tông lấy việc niệm Phật làm Chánh nghiệp.

Chánh niệm (正念) (S. 366): vứt bỏ vọng tưởng, chỉ tư duy và

thể hội tính chất chân thực của Phật pháp, gọi là Chánh niệm.

Châm cơ (砧基): chỉ cho châm cơ bạ, tức là sổ sách ghi chép

ruộng vườn, tài sản, thập vật của chùa.

Chân đình (真亭): là cái đình thật nhỏ treo di ảnh cố trụ trì.

Hình dáng như một cái đình lớn thu nhỏ lại, có treo tùng bằng

lụa mỏng, phía trước biển ngạch viết 2 chữ Chân đình. Trước

chân dung đặt một bài vị, có nơi còn viết hẳn một bài tán,

trong khi đưa quan tài đi hỏa thiêu thì chân đình được 2 người

khiêng đi trước quan tài.

Chân tể (真宰): trời là chủ tể của muôn vật nên gọi là chân

tể, nhưng trong ngữ cảnh này thì hình như từ “chân tể” là chỉ

cho thần già-lam.

Chân thường (真常): là pháp chân thực thường tại, tức là

cảnh giới Niết-bàn.

Chân yết thanh liễu (真歇清了)(1089~1151)Vị tăng

thuộc tông Tào động đời Tống. Là pháp tự của thiền sư Tử

thuần ở Đơn hà, người huyện An xương (tỉnh Tứ xuyên), họ

Ung. Còn gọi là Tịch am. Mười một tuổi theo ngài Thanh Tuấn

ở chùa Thánh quả xuất gia, lúc đầu học Pháp hoa. Mười tám

tuổi thụ giới Cụ túc, vào chùa Đại từ tại Thành đô học kinh

Viên giác, kinh Kim cương. Lần lượt lên núi Nga mi, Ngũ đài

lễ bồ-tát Phổ hiền và Văn thù. Đến núi Đơn hà ở Đặng châu

(tỉnh Hà nam) tham yết ngài Tử thuần, được tỏ ngộ và nối pháp

ngài. Sau sư đến làm thị giả Tổ chiếu ở Trường lư. Năm Tuyên

hòa thứ 3 (1121) ngài Tổ chiếu lâm bệnh, thỉnh sư nhận đệ nhất

tòa. Năm Tuyên hòa thứ 4, làm chủ Trường lư. Năm Kiếm

viêm thứ 2 (1128), lên núi Phổ đà lễ bồ-tát Quan Âm. Năm

Kiến viêm thứ 4 vào làm chủ chùa Tuyết phong, mở mang tông

phong Tào động. Năm Thiệu hưng 15 (1145) ở chùa Năng

nhân hưng thánh thọ thiền, năm 21 ở Viện Sùng tiên hiển hiếu

thiền. Tháng 10 năm ấy sư thị tịch, thọ sáu mươi ba tuổi, bốn

mươi lăm tuổi hạ. Thụy hiệu là Ngộ không thiền sư. Viết tín

tâm minh niêm cổ 1 quyển, Nhất chưởng lục. Học trò biên tập

Trường lư Liễu hòa thượng kiếp ngoại lục 1 quyển.

Chấn Đán (震?©): người Ấn Độ thời xưa gọi nước Trung Quốc

la¸ Cỵmisthna, được kinh điển Phật giáo dịch là Chấn đán. Sách

Phiên dịch danh nghĩa tập chú thích: “phương Đông thuộc về

Chấn, tức là nơi mặt trời mọc, cho nên mới gọi là Chấn đán”.

Chấp cục (執局): cơ cấu xử lý do trụ trì trực tiếp lãnh đạo

các sự việc trong chùa.

Chí đại quy (至大規) (S. 303): tên của bộ thanh quy do vị trụ

trì chùa Đông Lâm Lô sơn là Nhất Hàm soạn lại khoảng năm

Chí Đại đời Nguyên (1308-1311CN), gọi đủ là “Thiền lâm bị

dụng thanh quy”.

Chí Nguyên nguyên niên (至元元年) (S. 56): Chí Nguyên là

niên hiệ củ Nguyên ThếTổHố Tấ Liệ. Nă đ?u niên

hiệ Chí Nguyên là 1279 CN.

Chích lý hiển tông (隻履顯宗): truyề thuyế đ?ợ Thiề

tông Trung Quố cho là sơTổBồđ?-đ?t-ma viên tịh chôn ở

núi Hùng Nhĩ nhưg 2 nă sau thì sứNgụ là Tốg Vân gặ

ngài ở Thông Lĩnh (Pamir) vai vác gậy xỏ một chiếc dép đi

thủng thẳng vềTây. Sứ về báo lạ, vua Ngụy sinh nghi cho

quật mồ lên thì thấ trong áo quan chỉcòn mộ chiếc dép. Do

đó về sau Thiề tông lấy từ “hích lý Tây qui”hay “hích lý”

để chỉ cho Tông chỉ của Bồ Đề Đạt Ma

Chiêu công (昭公) (S. 372): thiền sư Thiện Chiêu đời Tống.

Ngài họ Du, người Thái Nguyên, trụ trì thiền viện Thái Tử,

chùa Thái Bình ở Phần Châu (nay là Tây Sơn, Phần Dương),

ba mươi năm thuyết pháp không mệt mỏi, Ngài là bậc đạo

cao đức trọng. Cả đạo lẫn đời đều cung kính ngưỡng mộ,

không dám gọi tên mà gọi là thiền sư Phần Châu. Đời sau

tôn xưng ngài là Chiêu Công.

Chiêu đề (招提 S. catur-diśa. P. catu-disa): Dịch âm là Chá

đấu đề xá. Còn gọi là Chiên đấu đề xá. Dịch ý là bốn phương,

tăng bốn phương, phòng tăng bốn phương. Tức chỉ cho nhà

khách mà tăng chúng từ bốn phương (Chiêu đề tăng) đến đều

có thể nghỉ lại qua đêm. Vì thế những vật chung của tăng đoàn,

hoặc các vật mà đại chúng cùng có thể sử dụng được gọi là

chiêu đề tăng vật, hoặc tứ phương tăng vật.

Chiến hãn (戰汗): tức là sợ đến toát mồ hôi, ở ngữ cảnh

trong bài thì chỉ là từ khách sáo.

Chiết thủy ((折水): có 2 nghĩa: a- Trong tùng lâm sau khi chư

tăng ăn cơm cháo xong thì đem nước rửa bát, muỗng, đũa đổ

đi. b- Gọi đủ là “chiết thủy dũng”, là cái thùng đựng nước rửa

bát – đũa trong Thiền lâm, lại cũng còn gọi là “khí bát thủy

dũng”. Chiết nghĩa là đổ bỏ đi, tức là khi rửa bát thì miệng

bát phải trút vào thùng. Theo sách “Nhập chúng tu tri” của

Tông Thọ thì không được dùng nước nóng mà rửa bát muỗng.

Lại khi rửa bát muỗng không được để nước rẩy ra đất, lại

cũng không được để bát chạm vào thành thùng phát ra tiếng

động. Trước khi rửa bát, không được giở cái khăn đậy hai đầu

gối ra.


Chiếu bài (照牌) (S. 80): tấm bài ghi rõ vị trí chỗ ngồi của

chúng tăng, khiến cho người vừa nhìn vào liền hiểu rõ.

Chiếu đường (照堂) (S. 55): phía sau Tăng đường trong Tùng

lâm là chỗ Thủ tọa chỉ đạo, hướng dẫn Tăng chúng. Vì ở

ngay sau Tăng đường, không được sáng lắm, nên đặc biệt

xây dựng tương đối cao, rộng, gọi là Chiếu đường.

Chính tri kiến (正知見): là tri kiến Ba-la-mật, tri kiến của

Phật, nghĩa đồng với trí huệ.

Chơn đình真(亭) (S.174): ngôi đình nhỏ để thờ di ảnh của vị

tôn túc đã viên tịch trong thiền lâm, được làm bởi 4 cột trụ, 4

mái hiên. Bốn mặt treo 4 tấm rèm mỏng, trước hiên treo một

bức hoành phi viết 2 chữ “Chân Đình”, trước di ảnh đặt một

bài vị viết những từ ca ngợi, khi đưa di thể đi hỏa táng, bài vị

được khiêng đi trước quan tài.

Chơn tể (真宰) (S. 331): trời là chúa tể của vạn vật nên gọi

là chơn tể. Trong văn dường như chỉ cho năng lực có thể làm

chủ tất cả sự vật trong thế gian, trên thực tế chỉ cho các vị

thần trong chùa.

Chơn thường (真常) (S. 191): pháp thường trụ chơn thật, tức

là cảnh giới Niết-bàn, cũng chính là chết.


Chu Chiêu Vương (周昭王): con của Kha vương, tên là Hà.

Lúc bấy giờ tuần thú phương Nam đến Hán Thủy đi thuyền

bị vỡ chết chìm, tại vị 51 năm, thụy là Chiêu. Năm Chu

Chiêu Vương thứ 26 là năm 563 trước Tây lịch.

Chu chính Kiến Tý (周正見子)): lịh nhà Chu lấ tháng Tý

làm tháng giêng, trong khi lịh nhà Hạ lấ tháng Dầ làm

tháng giêng, cho nên tháng chạ củ lịh nhà Hạ là tháng 2

nă sau củ lịh nhà Chu, do đ mớ có thuyế nói Phậ

thành đ?o vào tháng 2 là tính theo lịh Kiế Tý nhà Chu, còn

tháng 12 là tính theo lịh Kiế Dầ nhà Hạ nghĩ là 2 tháng

là mộ.

Chùa Định Lâm (定林寺) ở Chung Sơn, tỉnh Giang Tô. Năm



đầu Nguyên Gia đời Lưu Tống (424), Tuệ Lãm sáng lập chùa

Định Lâm. Mười năm sau, Đàm-ma-mật-đa vào ở chùa này, vì

chùa ở chỗ thấp liền dời đến chỗ cao để xây chùa nên có tên là

chùa Thượng Định Lâm, nguyên chùa tên là Hạ Định Lâm. Từ

khi xây đến nay, các bậc cao đức học rộng đến ở rất nhiều, tam

tạng pháp vào đời Lương dừng lại ở đây…

Chủ giả (主者) : tức là chỉ trụtrì.

Chủ tang (主喪) (S.167): người chủ trì việc tang lễ.

Chủ tang nhân (主喪?): người được mời chủ trì lễ tang của

trụ trì qua đời.

Chủ vị (主位): nếu ngôi nhà quay mặt về hướng Nam thì phía

đông (tức phía tay trái) là chủ vị, và phía Tây (tức phía tay

phải) là tân vị. Vậy, tuỳ theo hướng ngồi mà định vị trí.

Chúc hương (祝香): trong tùng lâm, lúc thượng đường chúc

thọ Hoàng đế hay chúc Phật giáng đản, trước khi thuyết pháp

thì trụ trì phải đốt hương để biểu thị lòng thành kính cầu

chúc. Bài văn đọc lúc chúc hương gọi là chúc hương văn.

Chúc lụy (囑累): chúc tức là phó chúc, phó thác, trao dặn.

Lụy tức là gánh vác phiền lao, nghĩa là đem công việc khó

nhọc giao phó cho người khác gánh vác. Trong Thiền tông,

đem đại pháp của Phật và Tổ truyền trao lại cho đệ tử đời

sau, khiến hộ trì gọi là chúc lụy.

Chúc Thánh (祝聖) (S.130): vị tăg ở chùa đ?t hư?ng cầ

phư?c cho các hoàng đ? củ triề đ?i hiệ tạ. Việ này rấ

thịh hành vào thờ nhà Nguyên, vì thiề lâm thờ nhà

Nguyên cho rằg ân đ?c củ triề đnh đ?i vớ Phậ giáo rấ

lớ, nên chúng tăg phả hế lòng báo ân.

Chung (鐘): chữ chung trong ngữ cảnh này là chỉ đại hồng chung.

Chủng trí (種智): là tiếng gọi tắt của “nhất thiết chủng trí” (一設種智), tức là trí huệ của Phật biết tất cả các chủng loại

pháp. Theo Trí độ luận thì chỉ có Phật mới có nhất thiết chủng

trí, còn Thanh văn và Duyên giác chỉ có tổng nhất thiết trí.

Chuyên sứ (專使): sứ giả chuyên biệt đem di thư hay cà-sa của

trụ trì sắp hay vừa qua đời đến thông báo tại các chùa khác.

Chuyển luân vương ((轉輪王; Skt: Cakra-varti-àjan, P: raja-

cakkhavattin): còn gọi là Chuyển Luân Thánh vương, Chuyển

Luân Thánh đế, Luân vương, Phi Hành Chuyển Luân đế, Phi

Hành Hoàng đế, ý chỉ là vua quay tròn luân bảo là một loại

chiến xa. Vương nắm giữ 7 báu là luân, tượng, mã, châu nữ,

cư sĩ, chủ binh thần, gồm đủ 4 đức (trường thọ, không tật

bệnh, dung mạo đẹp đẽ, bửu tàng long phú), thống nhất 4

châu quanh núi Tu-di, lấy chánh pháp ngự thế, đất nước giàu

có, nhân dân an lạc.


Chư bộ (諸部): chỉ tất cả học thuyết của các phái trong nội

bộ Phật giáo và các loại điển tịch đại biểu cho học thuyết các

phái.

Chư sơn (諸山) (S. 25): chỉ các Tự viện, khác bổn tự.



Chứng (證): dùng tâm trí để đạt đến chân lý của Phật giáo.

Công giới (公界): giới hạn công cộng, từ đó dẫn đến nghĩa

như chỗ công cộng, chỗ công chúng, chuyển nghĩa rộng hơn

chỉ tài sản chung của tập thể.

Công môn (公門): chỉ công đường của quan lại, nơi phân xử

việc kiện cáo.

Cộng nghiệp (共業): đó là nghiệp nhân mà chúng sanh cộng

thông, có thể chiêu cảm mình và kẻ khác cùng chung thọ

dụng núi sông đất đai, mưa nắng v.v… các thứ trên thế giới,

đó là nghiệp y báo vậy. Ngược lại, nghiệp nhân mà mỗi cá

nhân có thể chiêu cảm cho cá nhân mình thọ dụng, là nghiệp

chánh báo ngũ căn thì gọi là bất cộng nghiệp.

Cổ xướng (估唱) (S.159): đem những di vật của vị tăng đã

viên tịch ra xử lý giữa chúng tăng, trước hết định giá chúng

gọi là Cổ y, rồi nêu giá cả của từng vật để chúng tăng mua

gọi là Xướng y, hợp cả hai việc gọi là Cổ xướng.

Cù-dàm (瞿曇; Skt, P: Gautama, Gotama) là một họ trong

chủng tộc Sát-đế-lợi, là dòng dõi của tiên nhân Cù-đàm, tức

là họ gốc của Thế Tôn, dịch theo ý là đạt thật tốt, bùn đất,

ám ngưu, diệt ác. Lại còn riêng gọi là Nhật chủng, Cam Giá

chủng (giống dòng mía).

Cung đầu (供頭): tức là hành giả cung đầu có trách nhiệm

sớt thêm cơm canh, bưng trà quả phục vụ cho đại chúng trong

bữa thọ trai tại chùa Thiền lâm.

Cung đầu hành giả (供頭行者): Còn gọi: Cung quá hành giả.

Gọi tắt: Cung đầu, cung tư. Người chuyên coi về việc phân

phối cơm canh, trà quả và việc đốt đèn, sắm đặt hương hoa,

đánh chuông trong Tăng đường, Phật đường và Từ đường. Từ

ngữ Cung quá, chỉ cho chức làm việc ở Quá đường.

Cúng dường (供養): thông thường thí chủ đem tài vật cúng dường

bố thí giúp cho tăng chúng an tâm tu học gọi là cúng dường. Trong

ngữ cảnh bài này thì từ “cúng dường” chỉ cho hương hoa, trà quả,

cơm cháo, trà thang, tư tài, bày cúng tại miếu từ đường thờ tổ tông

thí chủ kiến tạo chùa ở tự viện Thiền tông.

Cử ai (舉哀) : trong buổi tế lễ thầy qua đời có nghi thức

người tế sau khi đọc xong tế văn khóc rống lên ba tiếng “Ai!

Ai! Ai!” (Đau buồn quá! Đau buồn quá! Đau buồn quá!) gọi

là cử ai.

Cử dương (舉揚) (S. 26): Cử có nghĩa là nêu ra, nêu lên;

Dương nghĩa là xiển dương, truyền bá giáo nghĩa Phật giáo.

Hợp hai chữ Cử và Dương lại chỉ cho việc nêu ra công án, ra

sức xiển dương.

Cử thoại (舉話): nêu lên chuyện cũ trong Thiền lâm, thường là

công án để mở đầu cho buổi thuyết pháp, còn gọi là cử dương.

Cử là đề xuất, đề khởi, còn dương là xiển phát giáo nghĩa Phật

giáo. Vậy cử thoại hay cử dương là đề xuất công án vậy.

Cứ tọa (據坐): ngồi vào chỗ mà nghi thức qui định sẵn tùy

theo hoàn cảnh lễ tiết.


Cửu hữu (九有) (S. 315): còn gọi là Cửu cư, chỉ ba cõi mà

chúng hữu tình thích cư tru, đó là: 1. Người và sáu từng trời

trong cõi dục; 2. Cõi trời Sơ thiền; 3. Cõi trời Nhị thiền; 4.

Cõi trời Tam thiền; 5. Cõi Vô tưởng thiên trong Tứ thiền; 6.

Cõi trời Không xứ; 7. Cõi trời Thức xứ; 8. Cõi trời Vô sở hữu

xứ; 9. Cõi trời Phi tưởng phi phi tưởng xứ.

Cửu thành (九成): Nhạc được chia làm chín thành hay chín

chung, mỗi chung là một khúc, tức là gồm chín khúc nhạc hay

chín lần trổi nhạc.

D

Dã hống (??): trong thuật luyện kim, loại trừ hết các chất



dã hống, tức là tạp chất, gọi theo bình dân là cứt vàng để lấy

vàng ròng.

Danh đức (野汞) (S. 25): vị Tỳ-kheo có danh tiếng lớn, đức

hạnh cao.

Danh đức Thủ tọa (名德首座) (S. 284): chức vụ của Tăng

trong Thiền lâm, chọn những người có uy tín, đức hạnh trong

các Thủ tọa đảm nhận chức vụ này. Danh thắng (??): cùng nghĩa với “danh đức” tức bậc cao

tăng danh cao, đức trọng.

Dẫn tòa (引座) (S. 26): trong Thiền lâm gọi việc giới thiệu

người khác với thính chúng khi thăng tòa thuyết pháp, hướng

dẫn người khác là Dẫn tòa.

Dẫn tòa cử dương (引座舉揚): trụ trì hướng dẫn trụ trì chùa

bạn lên pháp tòa giới thiệu với thính chúng để vị này thuyết

pháp, xiển dương Phật lý.

Dẫn thỉnh xà-lê ((引請闍黎): Trong lễ thọ giới sa-di ở Thiền lâm,

dẫn thỉnh xà-lê phụ trách việc dẫn đạo và giáo thọ các sa-di.

Di giá (椸架): tức là cái giá để treo móc y.

Di giá quải đáp đạo cụ (椸架掛道具): giá bằng cây để chư

tăng treo móc đạo cụ.

Di giáo (遺教): chỉ giáo pháp mà Phật và các Tổ lưu lại cho đời

sau, hoặc riêng chỉ giáo pháp mà đức Phật lúc sắp bát Niết-bàn

thuyết giảng. Kinh Di giáo do ngài Cưu-ma-la-thập đời Hậu Tần

dịch, 1 quyển, gọi là “Phật thùy Bát Niết-bàn lược thuyết giáo

giới kinh”, “Di kinh”, “Phật lâm Niết-bàn lược giới kinh”, “Lược

thuyết giáo giới kinh”, “Phật di giáo kinh”.

Di giáo viễn tôn (遺教遠孫): di giáo là chỉ giáo pháp mà

Phật hay Tổ để lại cho đời sau, cũng gọi là di pháp, di giới, di

huấn, di cáo, di hóa. Phật giáo là giáo pháp do đức Thích-ca

Mâu-ni tuyên thuyết để lại cho đời sau, cho nên Phật giáo

cũng còn gọi là di giáo của đức Thích Ca. Vậy di giáo viễn

tôn là lời trụ trì khiêm xưng, tự nhận mình là con cháu xa của

giáo pháp đức Phật để lại hay của Phật giáo vậy.

Di khám (移龕): sau khi liệm thây vào quan tài 3 ngày,

khiêng quan tài dời đến pháp đường. Tại pháp đường tiếp tục

tụng kinh thì gọi là Phật sự di khám.

Di mặc (遺墨): tức là những thứ giấy tờ, công văn, thư trác

do cố trụ trì để lại.

Di quỹ (遺軌): quỹ là vết bánh xe, vậy di quỹ là dấu vết

người xưa để lại.

Dị duyên ((異緣): chỉ cho việc làm không chuyên ý, lòng mãi

nghĩ ngợi lan mang chuyện đâu đâu.

Dị nhân ((異人): hàm ý chỉ dị quốc nhân tức người nước lạ.

Thời xa xưa ở Trung Quốc do cách trở về địa lý lại khác xa

về hình thù (da đen, râu ria xồm xoàm) nên người Ấn Độ bị

gọi là dị quốc nhân, về sau chỉ gọi tắt là dị nhân.

Diêm-phù ((閻浮): gọi đủ là diêm-phù-đề, là ý dịch từ Skt là

jambu-dvipa, còn gọi là diêm-phù-lợi, chiêm-bộ-đề v.v…,

tức Nam diêm-phù-đề, Nam thiệm bộ châu, là trái đất mà

chúng ta đang ở vậy.

Diên thực (涎埴): nghĩa là nhồi nặn. Thiên “Tính ác” trong sách

Tuân Tử chép: “Cố đào nhân diên thực nhi vi khí”, có nghĩa là

“Cho nên người thợ gốm nhồi nặn đất mà làm thành đồ dùng”.

Diên thọ đường (延壽堂): Ngôi nhà trong Thiền lâm dành cho

các vị tăng đau ốm nằm điều trị và tịnh dưỡng. Từ ngữ “Diên

thọ đường” hàm ý mong cầu kéo dài tuổi thọ của sắc thân để

tiếp nối tuệ mệnh của pháp thân. Cũng gọi Diên thọ viện, Diên

thọ liêu, Tương tức liêu, Tỉnh hành đường, Trọng bệnh lư

(các), Niết-bàn đường, Vô thường viện (đường). Trong đó, tên

gọi “Tỉnh hành đường” lấy ý là luôn luôn tỉnh thức quán xét

hành khổ để phát khởi bi trí.

Diệu giác (妙覺): là một trong 52 giai vị tu hành của Bồ-tát

Đại thừa, chỉ Phật quả cứu cánh của giác hạnh viên mãn, cho

nên cũng là tên gọi riêng của Phật quả, lại cũng còn gọi là

diệu giác địa. Đạt tới diệu giác này thì sẽ đoạn tận tất cả mọi

phiền não, trí huệ được viên diệu, là lý giác ngộ Niết-bàn.

Du-già luận (瑜伽論): là tiếng gọi tắt của Du Già Sư Địa

luận do Bồ-tát Di Lặc nói và được Vô Trước ghi nhớ chép

lại, là điển tịch tối trọng yếu của Pháp tướng tong

Du phương ((遊方): chỉ cho tăng nhân vân du bốn phương,

còn gọi là hành cước hay vân thủy.

Dục chủ (浴主) Người trông coi nhà tắm. Cũng gọi Tri dục,

Dục tư. Chức vụ trông nom nhà tắm trong thiền lâm, một trong

sáu vị đứng đầu tây tự trong thiền lâm. Đến giờ tắm, Dục thủ

phải treo thẻ khai dục ở trước nhà trai và sắp đặt trong nhà tắm,

xem xét củi, lửa, than v.v… Dưới quyền có vị Dục đầu hành

giả giúp đỡ.

Dục đầu (浴頭) (S. 236): hành giả lo việc cung cấp nước

nóng ở nhà tắm trong thiền lâm.

Dục Phật (浴佛): Nghi thức tắm Phật, cũng còn gọi là Quán

Phật, tức để kỷ niệm ngày đản sanh của Phật, nhà chùa cử hành

nghi thức pháp hội tụng kinh, trong đó có tắm tượng Phật. Theo

truyền thuyết sau khi Phật đản sanh thì trời trút nước thơm xuống

tắm rửa cho Ngài, căn cứ vào truyền thuyết này, ngày mùng 8

tháng 4 các chùa cử hành pháp hội tắm Phật, dùng hoa cỏ làm

một hoa đình, trong đình này thiết trí tượng Phật đản sanh, dùng

nước nấu thơm, nước trà ngon, và nước 5 màu, xối từ đầu xuống

chân tượng Phật đản sanh để tắm.

Dục Phật kệ (浴佛偈): Kệ đọc lúc tắm Phật theo kinh Dục

Phật công đức chép: “Trong nghi thức tắm Phật, khi xối nước

thơm từ đầu tượng Phật xuống đến chân, duy-na tuyên sớ

xong, cao giọng đọc kệ tắm Phật, nguyên văn có khác Sắc tu

Bách Trượng thanh qui đôi chút.

Dục Thánh (浴聖): là nghi thức chùa Thiền tông tắm rửa cho

tượng Thánh tăng.

Dục Vương (育王) (S. 64): gọi tắt tên chùa A-Dục vương,

nay tại Ninh Ba, Triết Giang..


Duệ toán thiên thu (睿算千秋): duệ là cực sáng suốt, thánh

triết. Vậy 4 chữ trên có ý chúc Hoàng thái tử thông minh,

sáng suốt trường thọ ngàn năm.

Duy-ma kinh (維摩經; Skt: Vimalakirti-nirdesa). Duy-ma

(Skt: Vimalakirti), dịch theo âm là Tì-ma-la-cật-lợi-đế, Tì-

ma-la-cật, Duy-ma-cật, Vô cấu xưng, Tịnh Danh, Diệt Cấu

Minh, đệ tử tại gia của đức Phật Đà, là trưởng giả của thành

Tỳ-xá-ly ở Trung Ấn. Tuy là tục lữ nhưng ngài rất tinh thông

Phật pháp. Kinh Duy-ma gồm 3 quyển – 14 phẩm do Cưu-

ma-la-thập đời Diêu Tần dịch, lấy Duy-ma-cật vừa nói trên

làm chủ giáo. Duy-ma-cật thường kêu bệnh nhưng nói bệnh

của ta là vì “chúng sanh bệnh nên ta bệnh”.

Duy-na (維那): Duy-na là từ đôi gồm cả hai loại tiếng Phạn và

Hán nhập lại: Duy tiếng Hán là cương duy, nghĩa là cái giềng

lưới, diễn rộng nghĩa ra là thống lý, tức là quản lý tất cả mọi

việc. Na là từ gọi tắt của tiếng Phạn Karma-dàna, dịch âm là

Yết-ma-đà-na, dịch theo ý là thọ sự (授事), có nghĩa là đem tất

cả mọi tạp sự giao phó cho người thi hành. Duy-na cũng còn

gọi là đô duy-na, xưa gọi là duyệt chúng, tự hộ, là chức tăng

thống lý mọi tạp sự của tăng chúng trong chùa.

Duy-na tri hội (維那知會): viết tắt của duy-na tri sự hội,

nghĩa là duy-na và tri sự hội họp bàn bạc.

Dược Sư hiệu (藥師號): tức 7 tên hiệu của Dược Sư Phật, đó

là: 1- Thiện Xưng Danh Cát Tường Vương Như Lai. 2- Bửu

Nguyệt Trí Nghiêm Âm Tự Tại Vương Như Lai. 3- Kim Sắc

Bửu Quang Diệu Hạnh Thành Tựu Như Lai. 4- Vô Ưu Tối

Thắng Cát Tường Như Lai. 5- Pháp Hải Lôi Âm Như Lai. 6-

Pháp Hải Huệ Du Hí Thần Thông Như Lai. 7- Dược Sư Lưu

Ly Quang Như Lai. Trong 7 danh hiệu này thì 6 danh hiệu

đầu là phân thân của đức Dược Sư Lưu Ly Quang Như Lai.

Dược thạch (藥石) (S. 42): còn gọi là Dược thực, là một ẩn

ngữ của Thiền lâm, ngầm chỉ cháo buổi chiều. Theo luật nhà

Phật quy định quá ngọ không được ăn, nhưng có một số tăng

nhân già yếu lại bị bệnh nên luật thông cảm cho ăn cơm buổi

chiều coi như đó là dược thạch (thuốc men) để trị bệnh. Về

sau, người không bệnh cũng được ăn thêm buổi chiều và gọi

bữa cơm đó là dược thạch.

Dương dương (洋洋): mênh mang như biển cả.

Dương đức (陽德): là dương khí, tức là khí mặt trời. Sách Chu

lễ tông quan đại tông bá viết: “Lấy các thực vật do đất sản

sanh làm dương đức, dùng hòa lạc mà phòng chừng”. Chữ

dương đức trong ngữ cảnh bài Nhật thực này chỉ khí mặt trời.

Dương kỳ Phương Hội (楊岐方會): là Tổ khai sáng phái

Dương Kỳ thuộc tông Lâm Tế đời Tống, đệ tử nối pháp của

Thiền sư Thạch Sương Sở Viên, trụ ở Thiền viện Phổ Thông

núi Dương Kỳ, thị tịch vào năm đầu niên hiệu Hoàng Hựu,

thọ 54 tuổi.

Dương Ức (楊億) (S. 62): một học giả nổi tiếng đời Bắc

Tống, người Phố Thành, Kiến Châu (nay là huyện Phố

Thành, tỉnh Phúc Châu), sinh vào năm 974 CN, mất vào năm

1020 CN. Vào thời Tống Chân Tông, ông đảm nhiệm chức

Hàn Lâm Học Sĩ, trước tác “Cổ Thanh Qui tự”.




tải về 6.43 Mb.

Chia sẻ với bạn bè của bạn:
1   ...   42   43   44   45   46   47   48   49   50




Cơ sở dữ liệu được bảo vệ bởi bản quyền ©hocday.com 2024
được sử dụng cho việc quản lý

    Quê hương