Đ
Đái hành tăng hành (帶行僧行): là các tăng nhân mà người
chủ tang mang theo từ chùa nhà đến chùa có tang để phục thị
cho mình.
Đái hành tri sự (帶行知事): là tri sự mà trụ trì mang theo
mỗi khi ra khỏi chùa đi đến nơi nào.
Đại bi chú (大悲咒; Skt: Mahakarunikacitta dharani), lại
cũng gọi là Thiên thủ thiên nhãn Quán Thế Âm Bồ-tát đại
thần chú, Quảng đại viên mãn vô ngại đại bi tâm Đà-ra-ni.
Đại bi tâm Đà-ra-ni, tức đại chú biểu thị công đức nội chứng
của thiên thủ thiên nhãn Quán Thế Âm Bồ-tát. Toàn văn của
chú này gồm 84 câu, đọc chú này được sanh vào 15 thiện
sanh, không phải chịu 15 ác tử. Hơn nữa, tụng chú này 108
biến thì mọi phiền não tội chướng cho đến tội nặng ngũ
nghịch đều tiêu trừ mà thân – khẩu – ý cũng được thanh tịnh.
Đại Châu (大珠): tăng nhân đời Đường tên Huệ Hải, pháp tự
của Mã Tổ Đạo Nhất, từng soạn quyển “Đốn ngộ nhập đạo
yếu môn luận”. Nhân vì Mã Tổ Đạo Nhất khen Huệ Hải là
viên ngọc tròn sáng (Viên Minh) nên đời gọi ngài là Hòa
thượng Đại Châu.
Đại chúng (大眾) (S. 24): dịch nghĩa của tiếng Phạn
Mahàsamgha. Trong kinh thường chỉ cho tất cả Thánh Hiền,
trừ Đức Phật. Trong Thiền lâm thường chỉ cho tất cả Tăng
chúng, trừ Trụ trì và Lưỡng tự.
Đại dạ (大夜): đêm cuối cùng quàn quan tài tại chùa để qua
sáng hôm sau là đưa đi hỏa táng.
Đại định (大定; P: mahaggata-samadhi): đối với tiểu định của
dục giới mà nói thì bổn định thiện căn hữu lậu của sắc giới và vô sắc giới là đại định. Lại chỉ cho một trong tam đức của Phật
là đại định, đại trí, đại bi. Tâm Phật trong sáng gọi là đại định.
Đại đức (大德): nguyên là tiếng gọi đức Phật trong các kinh
Phật, sau chuyển nghĩa chỉ cho tăng nhân đạo cao đức trọng,
còn ở Việt Nam ta thì chuyển nghĩa chỉ cho bậc tu sĩ thấp
đứng sau cương vị Thượng tọa.
Đại Hân (大訴) (1284-1344) Vị thiền tăng phái Đại Tuệ thuộc
tông Lâm Tế sống vào đời Nguyên. Người Giang châu, họ
Trần, tự Tiếu ẩn. Sư xuất gia từ thuở nhỏ ở viện Thủy lục tại
quận nhà. Lớn lên, sư thông suốt cả nội và ngoại học. Mới đầu
sư tham vấn ngài Nhất sơn liễu vạn ở chùa khai tiên tại Lư sơn,
không hợp. Sau đến học ngài Hối cơ nguyên hi ở núi Bách
trượng và được nối pháp. Sau đó, sư lại tham yết ngài Trung
phong minh bản ở núi Thiên mục. Về sau, sư từng trụ trì các
ngôi chùa danh tiếng như: Giang tâm ở Vĩnh gia, Linh ẩn ở
Tiền đường v.v…, người đến tham học rất đông, cực thịnh một
thời. Vua Văn tông thỉnh sư vào cung hỏi đạo và ban hiệu:
Quảng chi toàn ngộ đại thiền sư. Vua Thuận đế đãi ngộ sư rất
trọng hậu và xin sư sửa chữa Bách trượng thanh quy. Năm Chí
nguyên thứ 2 (1336), sư được ban cho hiệu là: “Thích giáo tông
chủ”, trông coi năm chùa. Năm Chí nguyên thứ 4 sư tịch, thọ
sáu mươi mốt tuổi. Tác phẩm có: Tứ hoại ngữ lục, Bồ thất tập,
đồng thời sửa lại Sắc tu Bách trượng thanh quy 8 quyển.
Đại Huệ Thiền sư (大惠禪師) (S. 63): đáng lẽ là Đại Huệ
Thiền Sư (大慧禪師), tên Tông Cảo, tự Đàm Hối, hiệu Diệu
Hỷ. Vào thời vua Cao Tông và Hiếu Tông đời Nam Tống,
Ngài được sắc phong làm trụ trì chùa Kính Sơn–Hàng Châu,
giáo hóa rất nhiều đồ chúng. Sau khi viên tịch Ngài được ban
hiệu Phổ Giác, sau đổi lại là Đại Huệ. Trước tác gồm có 30
quyển ngữ lục, được đưa vào Đại Tạng Kinh.
Đại Nguyên quốc tự (大元國字): chỉ chữ quốc gia của nhà
Đại Nguyên, tức là chữ Mông Cổ. Tuy nhiên trong thời gian
cai trị Trung Quốc, cũng như nhà Đại Thanh, nhà Nguyên chủ
yếu cũng chỉ dùng chữ Hán mà thôi.
Đại Phật bửu điện (大佛宝殿): cũng còn gọi là Đại Hùng
bửu điện, là điện thờ tượng Phật thật to, tức chánh điện.
Đại Quan nguyên niên (大觀元年): năm đầu niên hiệu của
Tống Huy Tông (1107).
Đại triển tam bái (大展三拜): cũng còn gọi là lưỡng triển
tam bái, là lễ tiết bái kiến sư phụ hay bậc tôn trưởng trong
chùa Thiền lâm. Cách thể hiện cụ thể như sau:- Trước hết
trải tọa cụ chuẩn bị lạy. Nếu sư gia ngăn lại miễn lễ thì gấp
tọa cụ lại, cúc cung kể lể sự tình: đó là nhất triển.- Lại biểu
thị tư thế trải tọa cụ lần thứ 2. Lại bị ngăn lại thì cũng lại
biểu thị tư thế gấp tọa cụ lại, kể chuyện nóng lạnh xã giao
tâm tình: đó là lưỡng triển.- Sau cùng lấy tay cầm tọa cụ đó
gấp lại giập xuống đất 3 cái biểu thị trí ý lạy 3 lạy: đó là
hoàn thành 2 lần trải tọa cụ, 3 lần lạy vậy.
Đại xuyên (大川) đàm châu đại xuyên thiền sư 潭州大川禪師
Đàm hoa ((曇花; Skt: va-udumbara, P: udumbara) gọi đủ là
Ưu-đàm-bát-la hoa, cũng còn gọi là ưu-đàm-ba hoa, ưu-đàm
hoa v.v… ý dịch là không thoại hoa, không khởi hoa. Theo
Tuệ Châu âm nghĩa quyển 8 thì đây là hoa thiêng mà trên
trời – dưới đất không có, đây là loài hoa sở cảm điềm lành
rất linh dị, khi nào có Như Lai hạ sanh thì mới cảm được loài
hoa này xuất hiện.
Đàn-na (檀那((S. 56): tức Đàn Việt, còn dịch là Đà Na.
Đàn thiên, kích (chiết) tiểu, thán đại, bao viên [彈偏擊(
折) 小歎大褒圓]: gọi tắt là đàn thiên, chiết (kích) tiểu. Đàn
hàm ý là đàn xích, bài xích. Thiên có nghĩa là giáo pháp
thiên lệch quyền tạm, chứ không phải viên dung cứu cánh.
Chiết hàm ý là bẻ gãy, tiểu là chỉ cho Tiểu thừa giáo, hoặc
giáo thuyết hay tư tưởng nông cạn hẹp hòi. Thán tức là xưng
thán, khen dồi. Đại là chỉ cho Đại thừa giáo, hoặc tư tưởng
hay giáo pháp sâu rộng viên dung không thiên lệch. Bao tức
là khen lao. Viên là chỉ cho viên giác. Thiên Thai tông đem
một đời thuyết pháp của Phật Đà chia ra 5 thời, tám giáo.
Năm thời là Hoa Nghiêm thời, Lộc Uyển thời, Phương Đẳng
thời, Bát Nhã thời và Pháp Hoa Niết Bàn thời. Thiên Thai
tông cho rằng đặc điểm của Phương Đẳng thời là ở “đàn
thiên, chiết (kích) tiểu, thán đại, bao viên”, nói chung là bài
xích tính cách thiên lệch nông cạn chẳng rốt ráo của tam giáo
“Tạng – Thông – Biệt” mà khen dồi diệu nghĩa thâm sâu
viên dung của Viên giáo.
Đàn tràng (壇場): có 2 nghĩa: a/ Chỉ cái đàn mà Phật gia lập
ra để làm lễ, thuyết giáo pháp. b/ Mạn-đồ-la của Mật giáo,
nghĩa như đạo tràng (Skt: mandala). Trong ngữ cảnh bài Kỳ
đảo này thì đàn tràng có nghĩa thứ nhất.
Đàn việt (檀越) (S. 28): dịch nghĩa của tiếng Phạn Danapati,
còn dịch là Thí chủ, dịch âm Đà-na-bát-để, chỉ cho tín đồ cư
sĩ cúng thí tài vật và thức ăn cho tự viện hoặc tăng chúng,
nhờ thế mà vượt qua khổ đau.
Đán quá (旦過): là từ gọi tắt của đán quá liêu, tức là liêu xá mà
chùa Thiền lâm cung ứng cho tăng du phương chỉ ghé tham quan
chùa trong đôi ngày rồi ra đi, chứ không dừng trụ lâu
Đán vọng (旦望) (S. 23): theo Am lịch, ngày đầu tiên của
mỗi tháng gọi là Sóc nhật, còn gọi là Đán; ngày 15 gọi là
Vọng. Đán vọng tức là ngày mồng 1 và 15 âm lịch, còn gọi là
Sóc vọng.
Đao Lợi thiên (忉利天;; Skt: Trayastrimsa, P: Tavatimsa),
dịch theo âm là Đa-la-dạ-đăng-lăng-xá, lại cũng gọi là cõi
trời 33. Trong vũ trụ quan của Phật giáo thì trời này ở tầng
thứ 2 trong 6 tầng của Dục giới, là cõi trời mà Đế Thích cư
ngụ, tọa lạc trên đỉnh núi Tu-di.
Đào thải đệ tử (淘汰第子): đào thải nghĩa là đuổi bỏ, gột
rửa. Đào thải đệ tử chỉ cho việc dùng tư tưởng Đại thừa để
gột rửa các chấp pháp tu Thanh văn Tiểu thừa của đệ tử để tu
Đại thừa.
Đảo nhương (禱禳): nghĩa cũng như kỳ đảo, tức là cúng
kiếng cầu xin trời Phật gia hộ cho tai qua nạn khỏi.
Đạo, lộ (道,路): trong ngữ cảnh ở bài thiên thu tiết này, thì 2
từ đạo và lộ là chỉ 2 đơn vị địa lý hành chính, tùy thời có
cương vị và bề thế khác nhau, đại khái theo thứ tự huyện –
đạo – lộ. Nhà Đường chia nước làm 10 lộ đạo, bốn phía của
một khu vực lớn chia ra Đông – Tây – Nam – Bắc lộ.
Đạo Nhất (道一) (709-788) Thiền tăng nổi tiếng đời Đường,
họ Mã, tên Đạo Nhất, hoặc được gọi “Mã Tổ Đạo Nhất”, người
huyện Thập Phương, Hán Châu (nay thuộc tỉnh Tứ Xuyên)
Trung Quốc. Sư xuất gia nơi Hoà thượng Đường ở Tứ Châu,
thụ giới cụ túc nơi luật sư Viên ở Du Châu. Sư tập thiền ở viện
truyền pháp tại Hành sơn, thờ Thiền sư Hoài Nhượng làm thầy,
theo hầu suốt 10 năm, được truyền tâm ấn. Sư đến ngọn núi
Phật Tích ở Kiến Dương, Lâm Xuyên, núi Cung Công ở Nam
Khang để hoằng truyền thiền pháp. Khoảng niên hiệu Đại Lịch
(766-779), sư ở chùa Khai Nguyên tại Chung Lăng, học giả
bốn phương vân tập, là 1 trong những trung tâm truyền bá thiền
pháp lớn nhất trong nước thời ấy. Chủ trương: “Ngoài tâm
không có Phật nào khác, ngoài Phật không có tâm nào khác”.
Thuỵ hiệu: Đại Tịch Thiền sư.
Đạo tràng ((道場): bao hàm nhiều nghĩa, trong ngữ cảnh bài
này là chỉ tên riêng của tổng tự viện.
Đạt-ma (達磨) (S. 17): gọi đủ là Bồ-đề-đạt-ma (skt:
Bodhidharma), dịch ý là Đạo pháp. Trong đó Ma (磨) còn
dịch là Ma (摩). Vị tăng người Nam Thiên Trúc (nay là miền
Nam Ấn Độ) đến Quảng Châu bằng đường biển, vào cuối đời
Tống thuộc Nam Triều (có thuyết nói là vào thời Lương Vũ
Đế). Sau chuyển đến Bắc Ngụy, vân du các nơi như Lạc
Dương, Tung Sơn v.v… và truyền bá thiền học, đề xướng ra
phương pháp tu hành lý nhập và hành nhập. Về sau truyền
trao y, pháp cho Huệ Khả. Thiền tông đời sau tôn Ngài làm
Tổ thứ 28 của Thiền tông Tây Thiên Ấn Độ, đồng thời là sơ
Tổ của Thiền tông Đông Độ Trung Hoa. Vua nhà Đường ban
cho Ngài thuỵ hiệu là Viên Giác Thiền Sư.
Đặc vị vị (特為位): người ngồi đối diện với vị trụ trì buổi lễ
(thường là vị phương trượng) gọi là đặc vị vị.
Đâu Suất thiên ((兜率天): Đâu Suất (Skt: Tusita, P: Tusita),
tên Tây Tạng là Dgah-ldan. Cũng còn gọi là Đô Suất thiên,
Đô Thuật thiên, Đâu Suất Đà thiên, Đâu Suất Đa thiên v.v…
dịch theo ý là Tri Túc thiên, Diệu Túc thiên, Hỉ Túc thiên, Hỉ
Lạc thiên, là tầng trời thứ tư của 6 tầng trời trong cõi Dục.
Đầu thủ (頭首)): là chức vụ chủ yếu của Tây tự trong chùa
Thiền lâm, mà nhiệm vụ chính là thống lý đại chúng, nói rõ
hơn 6 vị lãnh đạo bên Tây tự là thủ tọa, thư ký, tạng chủ, tri
khách, dục chủ, khố đầu; gọi chung là lục đầu thủ.
Đế hợp tế ((禘祫祭): tế đế và tế hợp. Tế đế có 3 loại là thời đế
– ân đế và đại đế. Thời đế là tế theo 4 mùa trong năm, mùa
xuân tế dược, mùa hè tế đế, mùa thu tế thường, mùa đông tế
chưng. Tế hợp là hợp chung tiên tổ thân sơ, gần xa mà tế.
Đế sư (帝師): nghĩa đen là thầy Hoàng đế, là tên chức quan
thống lãnh tăng ni trong thiên hạ của nhà Nguyên. Năm đầu
Nguyên Thế Tổ Chí Nguyên (1254) sắc phong cao tăng Bát
Tư-ba của phái Tát-già Phật giáo Tây Tạng (Tạng văn là Sa-
skya-pa) làm quốc sư thống lãnh Tổng Chế viện (sau đổi lại
là Tuyên Chính viện) sự. Đến năm thứ 7 đời Chí Nguyên [có
thuyết nói năm đầu Trung Thống (1260)] thăng hiệu Đế sư
thống lãnh 2 quyền to của Tây Tạng là Chính và Giáo. Về
sau, hễ nói đến chức Đế sư là thống lãnh Tuyên Chính viện
sự, trật ngang nhất phẩm, được ban cho ấn ngọc. Đế sư chứng
nhận đăng quang nên mới nói là trên cả vua, đến cuối đời
Chí Nguyên mới phế bỏ chức này.
Đế thích (帝釋): gọi đủ là Đế Thích thiên (skt: Sakra
Devanam-Indra), dịch theo âm là Thích Già-đề-hoàn Nhân
Đà-la, gọi tắt là Thích Đề-hoàn Nhân, Thích Già-đề-bà. Lại
cũng gọi là Thiên Đế Thích, Thiên chủ, hoặc Nhân-đà-la,
Kiều-thi-già, Dà-bà-dà v.v… nguyên là vị thần của Ấn Độ
giáo, về sau gia nhập Phật giáo tu hạnh bố thí phước đức
được sanh lên cõi trời Đao-lợi, làm chúa tầng trời 33.
Địch nghiệp ((敵業) (S. 367): Địch có hàm nghĩa chống lại,
triệt tiêu. Địch nghiệp giống như nói chống lại hoặc tiêu trừ
nghiệp chướng.
Điểm thang (點湯) (S.80): nghi thức dâng nước uống trong
Thiền lâm, như nước nấu từ gạo, bảy loại hương v.v...
Điền y (田衣) (S. 336): tên khác của ca-sa, hình dáng y ca-sa
được cắt theo chiều ngang, dọc; không thừa không thiếu
giống như thửa ruộng nên gọi là Điền y.
Điển tọa (典座) chức vụ của vị tăng phụ trách việc ăn uống
của đại chúng trong tùng lâm, là một trong sáu vị tri sự thuộc
Đông tự. Chức vụ này tuy lo việc ăn uống lặt vặt, nhưng từ xưa
đã rất được coi trọng và thường thỉnh cử vị tăng đức hạnh cao
khiết đảm nhiệm. Bởi vì công việc này cũng là một phương
pháp tu trì, nếu giao cho một người không có tâm đạo phụ trách
thì chỉ luống công vô ích.
Điện hạ (殿下): nghĩa đen là dưới điện. Hoàng thái tử cư trú
tại điện các, khi giao tiếp với thái tử thì mọi người gọi ngài là
điện hạ, ý khiêm nhường tôn kính là mình chỉ dám nói
chuyện với phía dưới điện, chân điện chứ không dám tiếp
xúc trực tiếp. Đây cũng là ý tôn xưng ở các từ bệ hạ, các hạ.
Điện hạ tiếng Pháp gọi là Son Excellence.
Định (定) (S. 365): chỉ thiền định. Thông qua sự tinh cần tu
tập khiến cho tâm an trú vào trong một cảnh giới nhất định.
Định huệ kiêm tu (定慧兼修): cũng còn gọi là định huệ
đẳng trì, ý nói là phải vận dụng giữa thiền định và trí huệ
bằng nhau, song vận tịnh tu chẳng phân biệt nặng nhẹ, trước
sau. Bởi vì tự tánh có thể là định, dụng là huệ có quan hệ với
nhau. Thể tức là dụng, mà huệ chẳng rời định. Dụng tức là
thể, mà định không rời huệ.
Định Lâm tự (定林寺): chùa do Huệ Giác xây vào đầu niên
hiệu Nguyên Hỉ đời Lưu Tống Nam triều.Năm Lương Đại
Thánh thứ 2 (528), Đạt Ma thị tịch chôn ở núi Hùng Nhĩ và
xây tháp ở chùa Định Lâm này.
Định thủy (定水) (S. 367): ví cho tâm định vắng lặng, giống
như mặt nước lắng trong không một gợn sóng.
Đoạn Kiều (斷橋) (S. 244): thiền sư Diệu Luân đời Tống, tự
Đoạn Kiều, hiệu Tùng Sơn Tử, họ Từ, người Hoàng Nham tỉnh
Chiết Giang. Ngài từng trụ trì nhiều ngôi chùa nổi tiếng, viên
tịch vào năm thứ hai niên hiệu Cảnh Định (năm 1261 CN).
Đô giám tự (都監寺) (S. 250): cũng gọi là Giám viện, Viện
chủ, Chủ thủ là một trong sáu vị tri sự thuộc Đông tự của
thiền lâm. Trước khi chưa có Đô tự, vị này quản lí tất cả
những việc trong chùa; về sau mới lập thêm chức Đô tự thì
vị này phụ tá cho Đô tự.
Đô tự (都寺): gọi đủ là đô giám tự, là một trong sáu vị tri sự
của Đông tự chùa Thiền lâm, cương vị trên giám tự, là tổng
quản của các giám tự, còn gọi là đô tổng hay đô thủ.
Độ điệp (度牒?) (S. 253): tăng tịch tùy thân do quan phủ cấp
cho tăng ni hợp pháp.
Đối xúc lễ (對觸礼): hai người đối diện nhau cùng giập tọa
cụ xuống nền trí ý lạy chào nhau.
Đông đường (東堂) (S.131): chỗ của các vị đã từng làm trụ
trì trước đây, sau khi thoái chức lui về an dưỡng, gọi là Đông
đường, cũng gọi là Đông am.
Đông Sơn Diễn Tổ (東山演祖) (S.227): thiền sư Pháp Diễn
đời Tống, họ Đặng người Miên Châu (nay thuộc vùng Miên
Dương, Tứ Xuyên). Ngài đã hoằng pháp một thời gian dài ở tổ
đình thiền tông tại Đông Sơn-Kì Châu, (nay thuộc phía Đông
Kì Xuân, Hồ Bắc), nơi đây hưng thịnh một thời, người đời gọi
Ngài là Đông Sơn Diễn Tổ hoặc là Ngũ Tổ Thiền Sư.
Đông tự (東序): là ban vị đứng ở mé bên Đông của Phật điện,
pháp đường, chỉ tăng chúng thông hiểu thế pháp, tức chỉ tri sự,
tri sự vị. Đứng ở bên mé Tây thì gọi là Tây tự, chỉ người giỏi
học vấn và đầy đủ đạo đức, tức đầu thủ, đầu thủ vị. Lại cũng
đứng bên Đông tự là lục tri sự gồm: đô tự, giám tự, phó tự,
duy-na, điển tọa, trực tuế, gọi là Đông tự tri sự.
Đồng hành (童行): thông thường chỉ cho các thiếu nhi chưa
hoàn toàn thế phát, đầu còn chừa chỏm tóc trong chùa Thiền
lâm (chú điệu). Tuy nhiên từ đồng hành trong ngữ cảnh bài
này chỉ cho các hành giả nói chung trong chùa Thiền lâm,
không kể là lớn bé.
Đồng văn (同文): nghĩa đen là cùng một thứ văn tự, tức là
chỉ toàn thể nhân dân Trung Quốc những người cùng dùng
một thứ chữ Hán vậy.
Đới hành Tri sự (帶行知事) (S. 88): tri sự theo trụ trì ra ngoài.
Đơn liêu (單寮) (S. 31): đơn liêu là phòng một người ở trong
tăng xá. Các Đầu thủ, Tri sự sau khi thoái chức, những vị
danh đức ở Tây đường, cho đến Thủ tọa đương nhiệm đều có
thể ở đơn liêu. Cho nên dùng Đơn liêu gọi thay cho các vị
Thủ tọa, các vị danh đức và Đầu thủ, Tri sự đã thôi chức ở tại
phòng đơn này.
Đơn vị (單位) (S. 349): chỗ ngồi có dán tên của mình trong
Thiền đường.
Đức Huy (德煇) vị thiền tăng thuộc tông Lâm tế sống vào đời
Nguyên, hiệu là Đông dương. Năm Thiên lịch thứ 2 (1329) đời
vua Minh tông, sư trông coi chùa Bách Trượng. Niên hiệu Chí
thuận năm đầu (1330) đời vua văn tông, sư làm lại nhà pháp
đường. Niên hiệu Chí nguyên năm đầu (1335), sư phụng mệnh
vua biên tập lại Bách trượng thanh quy và năm sau cho phổ
biến khắp các tùng lâm trong nước, được vua ban hiệu là:
“Quảng tuệ thiền sư”. Năm sinh năm mất và quê quán của sư
đều không được rõ. Trong mục lục của tăng tập lục truyền đăng
lục quyển 4, có nêu tên mười vị nối pháp ngài Hối cơ Nguyên
hi thuộc phái ngài đại tuệ Tông cảo đời thứ năm, trong đó có
tên thiền sư Đông Dương Đức Huy ở Đông lâm, nhưng chưa
chép tiểu sử của sư.
Đương cơ (當機) (S. 47): Phật Tổ khi thuyết pháp luôn liên
hệ chặt chẽ đến khí chất, đặc điểm của chúng sanh, hầu đem
lại lợi ích cho họ, gọi là “Đương cơ”. Về sau dùng “Đương
cơ” chỉ cho việc thuyết pháp trước đại chúng.
Đương đại (當代) (S.100): ý nói người đang nhậm chức.
Đương đại trụ trì (當代住持): tức trụ trì đang còn tại chức là
từ phản nghĩa của thoái chức trụ trì.
Đường chủ (堂主) Gọi đủ: Diên thọ đường chủ. Chức vụ trông
coi tất cả việc trong Diên thọ đường (phòng chữa và dưỡng
bệnh). Điều Diên thọ đường chủ tịnh đầu trong Thiền uyển
thanh quy quyển 4 (Vạn tục 111, 449hạ), nói: “Khi tuyển chức
vụ Đường chủ, phải thỉnh người có lòng rộng lượng, nhẫn nại,
chịu khó, đạo niệm chu toàn, chăm nuôi, an úy bệnh tăng, biết
rõ nhân quả”. Ngoài ra, những người trông coi các việc khác
cũng gọi là Đường chủ, như: Thủy lục đường chủ, La hán
đường chủ. Nhưng danh từ Đường chủ đây chỉ đặc biệt chỉ cho
Diên thọ đường chủ là dùng tên chung là tên riêng.
Đường đầu Hòa thượng ((堂頭和尚): Đường đầu là tên gọi
khác của phương trượng, cho nên mới dùng từ Đường đầu
Hòa thượng để chỉ cho phương trượng tức là trụ trì.
Đường ty (堂司) (S. 24): tên riêng của liêu Duy na trong
Thiền lâm. Vì Duy-na quản lý các sự việc trong Tăng đường,
nên gọi tên phòng ở của Ngài là Đường ty. Vì lý do đó nên lấy tên Đường ty chỉ cho Duy na. Người giúp việc cho Duy na
ở Đường ty gọi là Đường ty hành giả.
Đường ty hành giả ((堂司行者): đường ty là một trong sáu tri
sự, cũng còn gọi là duy-na, phụ trách chỉ đạo tăng chúng tại
tăng đường. Liêu thất của duy-na gọi là đường ty, vị dịch
tăng chưởng quản tạp vụ dưới quyền duy-na, gọi là đường ty
hành giả hay đường hành.
E
Ế lý chi thần (瘞履之辰): ngày chôn dép. Tương truyền khi
Đạt Ma viên tịch được chôn ở núi Hoàng Nhĩ, nhưng khi
Tống Vân đi sứ về tới Thông Lĩnh (Pamir) thì gặp Đạt Ma vai
vác gậy xỏ một chiếc dép đi về Tây nên về báo lại với vua.
Vua sinh nghi cho khai quật mộ thì thấy trong áo quan chỉ
còn lại một chiếc dép. Do đó cụm từ ngày chôn dép chỉ ngày
sơ Tổ Bồ-đề-đạt-ma qua đời.
G
Gia pháp (家法): trong ngữ cảnh bài này chỉ môn phong và qui
củ do trụ trì thiết lập, hình thành tại một ngôi chùa nào đó.
Già-đà (伽陀: Skt, p: gatha) là một trong 12 thể loại kinh, cũng
còn gọi là già-tha, kệ, dịch theo ý là phúng tụng, kệ tụng, cô khởi
tụng, bất trùng tụng kệ, là thể văn vần, thi ca của Phật giáo.
Già-lam ((伽藍)) (S. 55): tiếng gọi tắt của Thần Già-lam, vị thần
hộ trì Già-lam (tự viện). Kinh Phật nói có 18 loại thần giữ gìn
bảo hộ Già-lam. Nhưng từ sau đời Nguyên, Minh các chùa đa
số gọi Quan Vũ-vị tướng nhà Hán-là Thần Già-lam.
Giác (覺) (S. 365): có hai nghĩa: giác ngộ và giác sát. Ở đây
chỉ giác sát, tức là biết rõ việc xấu.
Giác hoa (覺華): chỉ cho chân giác. Giác tức là trí huệ, trí
huệ mở như hoa nở, nên gọi trí huệ là giác hoa.
Giác hoàng (覺皇): vua giác ngộ, tức là chỉ đức Phật.
Giác linh (覺灵): tiếng gọi tôn vọng linh hồn người chết, ý nói
linh hồn này đã giác ngộ không còn mê muội nữa, về sau
chuyển nghĩa chỉ vị Hòa thượng qua đời.
Giác tự, giác tha (覺自覺他): cũng còn nói là tự giác – giác
tha, chỉ cho Bồ-tát Đại thừa tu hành tự mình giác ngộ, lại còn
giúp cho kẻ khác giác ngộ nữa, nhưng chỉ có Phật mới đạt
được cảnh giới tự giác – giác tha – giác hạnh viên mãn.
Giám viện (監院) tức giám tự, viện chủ, chủ thủ, tự chủ. Chức
vụ lãnh đạo chúng tăng và giám sát các việc trong chùa. Một
trong sáu chức Tri sự của Thiền tông, đứng sau chức Đô tự.
Giang hồ (江湖) (S. 91): có hai cách giải thích: 1. Giang Tây
và Hồ Nam là những nơi Thiền tông cực thịnh, do đó chỉ
chung cho các đệ tử Thiền tông là giang hồ. 2. Giang Hồ là
nơi kẻ sĩ ẩn dật. Ở đây chỉ hạng người thứ hai là những vị cao
tăng ở các ngôi chùa lớn thuộc những núi danh tiếng, không
màng thế sự, cũng gọi là chúng Giang hồ.
Giang Tây (江西): vùng đất đối xứng với Giang Đông của
nước Sở.
Giáng thần (降神): nghĩa như giáng cách, giáng lâm, tức là
Thánh thần – Phật xuống trần.
Giảng (講): trong Sắc tu Bách Trượng thanh qui thì chữ giảng
này có nghĩa đặc biệt là cử hành, tiến hành, chứ không phải
giảng giải kinh điển.
Giáo ngoại biệt truyền (敎外別傳) (230): Thiền tông truyền
pháp không dựa vào văn tự trong kinh điển mà chỉ thẳng tâm
người để đồ chúng trực tiếp thể hội tâm ấn của Phật Tổ nên
gọi là giáo ngoại biệt truyền.
Giới chí (界至) (S. 276): bốn phương biên giới đất đai tức là
các hướng Đông Tây Nam Bắc của đám ruộng.
Giới cụ (戒具): cũng còn gọi là giới lạp, chỉ số năm sau khi
tăng lữ thọ giới cụ túc, gọi phổ thông là tuổi lạp. Tăng lữ lấy
tuổi lạp mà phân định lớn nhỏ, chứ không theo tuổi đời.
Giới lạp (戒臘): Cũng gọi là Pháp lạp, hạ lạp, toạ lạp.
Pháp tuế, gọi tắt là Lạp. Lạp nguyên chỉ cho lễ cúng cuối năm.
Trong Phật giáo hạ lạp dùng để tính số năm của chư Tăng
sau khi thọ giới cụ túc. Vì ngày 15 tháng 7 mỗi năm là ngày
kết thúc an cư kiết hạ được xem là ngày kết thúc của giới lạp.
Sau ngày 16 là thêm một tuổi mới.
Giới sư ((戒師): cũng còn gọi là giới Hòa thượng, là người
tinh thông giới luật, được thỉnh mời chủ trì lễ thọ giới của sa-
di, truyền trao giới luật cho sa-di.
H
Hạ (夏) (S. 40): gọi tắt của Hạ an cư, còn gọi là An cư, Vũ an
cư. Ở Ấn Độ thời xưa, Phật giáo quy định vào 3 tháng mùa
mưa (khoảng tháng 5 đến tháng 8) Tăng Ni không được ra
ngoài. Vì ra ngoài sẽ dễ làm thương tổn đến cây cỏ, côn
trùng nhỏ nhít, nên phải ở trong chùa thọ nhận của cúng dường và chuyên tâm tọa thiền, tu học. Phật giáo Trung Quốc
kế thừa truyền thống này, quy định thời gian an cư vào ngày
16 tháng 4 đến ngày 15 tháng 7 âm lịch. Hạ an cư gọi tắt là
Hạ tọa, Tọa hạ.
Hạ bát (下鉢) (S. 88): đến giờ dùng cơm tập thể của chư
Tăng trong Thiền lâm thì đánh Vân bản trước nhà bếp, hoặc
nghe tiếng hành giả hô to, chúng tăng nhất loạt hạ túi bát
đang treo phía trên đơn xuống.
Hạ đường (下堂): sau khi dùng cơm hay cháo xong, tăng
chúng rời khỏi tăng đường thì gọi là hạ đường, còn ngược lại
là thượng đường.
Hạ đường chung (下堂鐘): sau khi chư tăng dùng cơm cháo
xong thì dộng 3 tiếng chuông để họ rời khỏi tăng đường.
Hạ gian (下間)) (S. 42): theo quy định của Thiền lâm khi vào
thiền đường, phía bên trái của mình gọi là Hạ gian. Vị trí
phương vị ngược lại gọi là Thượng gian.
Hạ ngữ (下語) (S. 41): lời vị thầy dùng để giáo huấn học trò.
Lời phát biểu hoặc trình bày kiến giải của mình sau công án
hoặc kệ tụng, cũng gọi là Hạ ngữ.
Hàm Thuần Qui (咸淳規) (S. 295) : tỳ-kheo Duy Miễn ở Hậu
Hồ soạn lại Thanh qui thiền lâm vào khoảng năm Hàm
Thuần (1265-1274 CN) đời Nam Tống.
Hành đường (行堂): chỉ nơi cư trú của hành giả, cũng còn
gọi là hành giả đường, hành giả liêu, hành giả phòng, tuyển
tăng đường, ý cho rằng từ nơi này hành giả được tuyển chọn
thế độ làm tăng.
Hành giả (行者) (S. 24): chỉ cho người làm công quả trong
Tự viện Phật giáo mà chưa xuống tóc xuất gia. Cũng chỉ tăng
du phương mới đến chùa được ghi tên cho ở lại lâu dài.
Hành ích (行益) (S. 233): dọn cơm và thêm thức ăn, tức là
dọn và thêm thức ăn tại mỗi chỗ cho đại chúng thọ trai.
Hành phổ thỉnh ((行普請): tăng chúng cả chùa lao động tập
thể, sau chuyển nghĩa chỉ tập họp tăng chúng, nhưng nghĩa
này không được dùng phổ biến.
Hành thị giả (行侍者): có lẽ chỉ cho thị giả tùng hành, tức là
đi theo phục vụ tôn túc.
Hành thực (行食) (S. 88): Hành là phân phát, thực là thức
ăn. Hành giả đem từng phần thức ăn phân phát cho Tăng
chúng gọi là Hành thực.
Hành Tuyên Chánh Viện (行宣政院) (S. 295): cơ quan quản
lí Phật giáo trong cả nước và điều hành quân sự ở khu vực dân
tộc Tạng vào đời Nguyên gọi là Tuyên chánh viện. Còn cơ
quan trực thuộc Hành tuyên chánh viện đặt tại các tỉnh.
Hào mang (豪芒): cũng viết là (毫), đồng nghĩa với hào mạt
(毫末)), chỉ cho cái gì thật nhỏ nhoi. Truyện Quách Ngọc
trong sách Hậu Hán thư chép: “Châm thạch chi gian, hào
mang tức quai”. Hào mang thường được hiểu là mảy lông.
Hát thực hành giả (喝食行者) (S. 66): gọi tắt là Hát thực.
Đến giờ đại chúng dùng cháo, thọ trai, các đồng hành theo
thứ tự báo tên người dự bữa trai phạn đứng đợi bên phía nam
Trai đường.
Hắc phạn (黑飯) [1155a02]: Còn gọi là ô phạn, đồng phạn,
nghĩa là cơm đen. Cơm được nấu bằng lá cây nam thiên chúc
nên có màu đen. Cây này là chú của loài thảo mộc, ăn vào làm
cho thần khí sảng khoái, tuổi thọ tăng thêm. Loại cơm này
được nấu cúng trong dịp lễ tắm Phật ngày Phật đản.
Hằng hà (恒河 : Skt: Ganga) lại còn gọi là Hằng-ca-hà,
Hằng-già-hà v.v…, hàm ý là “do Thiên đường mà lại”, là
một trong 3 con sông lớn của Ấn Độ, phát nguồn từ Tây
Tạng.
Hậu bản ((後板): trong tăng đường, hai bên hông khám thờ
tượng Thánh tăng đều có mở 2 hàng xuất nhập bản. Nhân khi
vào tăng đường thì phần bên trái thân mình vào sau, cho nên
bản bên mé trái gọi là hậu bản mà cũng là từ dùng để ám chỉ
hậu đường.
Hậu đường (後堂) (S. 47): tiếng gọi tắt của Hậu đường Thủ
tọa. Thiền lâm phân Tăng đường ra làm Tiền đường và Hậu
đường. Người được phân công trông coi hậu đường gọi là
Hậu đường Thủ tọa.
Hoa nghiêm kinh (華嚴經): gọi đủ là Đại phương quảng
Phật hoa nghiêm kinh, (Skt: Buddha-vatamsaka-
mahavaipulya-sutra), cũng còn gọi là Tạp hoa kinh, là một
trong các yếu điển của Phật giáo Đại thừa, nêu lên ý chỉ
pháp giới duyên khởi, sự sự vô ngại.
Hòa hội (和會) (S. 40): có nghĩa là trao đổi điều hòa, cân
nhắc điều nào nên áp dụng, điều nào không nên áp dụng.
Hòa hợp (和合) (S. 314): ba vị tăng trở lên cùng sống chung,
cùng giữ giới và tu tập nên gọi là Hòa hợp.
Hòa hợp hải (和合海) (S. 332): tăng chúng hòa hợp làm một,
giống như nước biển chỉ một vị mặn, mà tăng chúng thì nhiều
giống như biển lớn sâu rộng nên gọi là Hòa hợp hải.
Hòa nam (和南): là dịch âm tiếng Phạn Vandana, lại cũng
còn được dịch là Bà nam, Bạn đàm, Bàn đàm, dịch theo ý là
cúi đầu, kính lễ, biểu thị bằng cách chắp 2 bàn tay để tỏ vẻ
trí kính khi gặp nhau.
Hòa thượng (和 尚 ; skt: upādhyāya; P: upajjhāya) dịch âm
Hán Việt là Ưu-ba-đà-la; Là bậc tôn sư thân cận dìu dắt các Sa-
di hoặc Tỷ-kheo, vì vậy cũng được gọi là Thân giáo sư hoặc
Lực sinh. Trong thời gian đầu của Phật giáo tại Ấn Ðộ, người
ta phân biệt hai vị thầy của một người mới nhập Tăng-già, đó
là Hòa thượng và A-xà-lê (hoặc Giáo thụ; skt: ācārya; p: ā-
cāriya). Hòa thượng là người dạy các đệ tử biết trì Giới, thực
hành nghi lễ, và vị Giáo thụ là người giảng Pháp, ý nghĩa của
kinh sách.
Hóa duyên (化緣) (S. 190): chỉ cho nhân duyên giáo hóa khi ở
thế gian, tức là sinh mạng.
Hóa nghi (化儀): chỉ phương pháp, hình thức mà Phật Đà hóa
đạo chúng sanh, nội dung kinh điển hóa đạo chúng sanh gọi
là hóa pháp. Hóa nghi như chất thuốc, hóa pháp như vị thuốc.
Cả hai phải bổ sung cho nhau thì mới hiệu nghiệm trong việc
trị bệnh.
Hóa thành, bảo sở (化城宝所): đây là chữ trong kinh Pháp
Hoa. Hóa thành Skt là rddhi-nagara, chỉ cho cái thành do biến
hóa mà ra, dụ cho Niết-bàn của Nhị thừa. Còn bảo sở là từ
phản nghĩa của hóa thành, ý chỉ cơ sở trân bảo, dụ cho Niết-
bàn rốt ráo, là an trụ nơi chứng ngộ chân chánh.
Hỏa bản (火板) (S. 88): cái bản treo phía trên bếp lò ở Khố
ty. Khi cơm chín thời Phạn đầu đánh lên 3 tiếng, Hỏa đầu
liền tắt lửa, cho nên gọi là Hỏa bản.
Hỏa khách (火客) (S. 185): cũng gọi là Hỏa bạn, Hỏa điền, là
người lo việc đốt lửa trong Thiền lâm.
Hoài Nhượng (懷讓) (677-744) Thiền tăng đời Đường, họ Đỗ,
người xứ An Khang, Kim Châu (nay thuộc tỉnh Thiểm Tây)
Trung Quốc; nối pháp Lục Tổ Huệ Năng, là học trò giỏi của
Ngài. Sư trụ chùa Bát Nhã ở Hành Sơn, hoằng dương học
thuyết của Huệ Năng, dùng cách giáo hoá cao vút, khó khăn,
mở ra 1 phái Nam Nhạc nên người đời gọi Sư là “Nam Nhạc
Hoài Nhượng”. Thuỵ hiệu “Đại Huệ Thiền sư”. Tác phẩm:
Nam Nhạc Đại Huệ Thiền sư ngữ lục.
Hoàng Bá (黃檗) (S. 222): tức thiền sư Hi Vận ở núi Hoàng
Bá đời Đường. Thiền sư là người xứ Mân (nay là Phúc Kiến),
thuở nhỏ ở quê nhà, núi Hoàng Bá (nay thuộc huyện Phước
Thanh), đã đắc pháp với thiền sư Bách Trượng Hoài Hải.
Hoàng đạo (黄道): chí Thiên văn trong Hán thư viết: “Mặt
trời có trung đạo. Trung đạo ấy là hoàng đạo, cũng gọi là
quang đạo”. Từ khoa học ngày nay gọi là ecliptic tức là quỹ
đạo trái đất quay quanh mặt trời 365 ¼ ngày. Theo các nhà
chiêm tinh xưa thì ngày hoàng đạo là ngày cực tốt, còn gọi là
“hoàng đạo lương thần”. Theo Thần xu kinh thì “Thanh long,
minh đường, kim quỹ, thiên đức, ngọc đường, tư mệnh” là
hoàng đạo lục thần.
Hoàng Long Nam Công (黃龍南公) (S. 227): thiền sư Tuệ
Nam đời Tống, họ Chương, người Tín Châu, (nay là Thượng
Nhiêu tỉnh Giang Tây). Vì Ngài đã trụ trì tại viện Sùng Ân
núi Hoàng Long một thời gian dài nên người đời gọi Ngài là
Hoàng Long Nam Công.
Hoàng thái tử thiên thu lệnh tiết ((皇太子千秋令節): là lễ chúc
mừng sinh nhật Hoàng thái tử, cầu cho thái tử sống thọ ngàn năm.
Hoàng thiên chi hạ, nhất nhân chi thượng … Đại Nguyên
Đế sư (皇天之下一人之上 … 大元帝師): Hoàng thiên chỉ
trời, còn nhất nhân chỉ Hoàng đế. Do đời Nguyên, đế sư là
thầy của vua nên mới nói là trên hết thảy người, số một trong
nước và chỉ dưới thượng đế. Đây là tôn hiệu của Quốc sư Bạt
Hiệp Tư Bát.
Hoằng phạm ((弘範) (S. 62): làm chuẩn mực cho thế gian.
Hoaèng Trí (宏智) (S. 250): thiền tăng đời Nam Tống, họ Lí,
hiệu Chánh Giác, người Thấp Châu (nay là huyện Thấp, tỉnh
Sơn Tây). Ngài trụ trì chùa Thiên Đồng ở Minh Châu, có thêm
hiệu là HoằngTrí.
Hồ Nam Vân Cái sơn (湖南雲蓋山): tọa lạc tại huyện Thiện
Hóa Trường Sa Hồ Nam, tức phía Nam Động Đình Hồ. Tổ
của phái Dương Kỳ là Thiền sư Phương Hội từng trụ ở núi
Vân Cái này.
Hồ quỵ (胡跪) (S. 314): tư thế quỳ lạy của vị tăng nhân Tây
Vực (Hồ) ngày xưa, gối phải chạm đất, gối trái co thẳng lên
mà quỳ. Lúc mệt mỏi hai chân có thể đổi tư thế cho nhau nên
gọi là Hồ quỵ.
Hỗ dụng (互用) (S. 84): tức tội hỗ dụng, tội dùng lẫn lộn vật
của Tam Bảo. Luật Phật quy định rất nghiêm khắc đối với việc
sử dụng tài vật của chùa, ví dụ như tài vật được chỉ định vào
việc cúng dường tượng Phật, lại đổi cúng dường cho Tăng
chúng hoặc dùng vào việc chế tạo pháp khí; tài vật được chỉ
định tạo tượng Phật Thích-ca, lại chuyển dùng tạo tượng Phật
A-di-đà v.v…, trái với luật, bị xem là phạm tội Hỗ dụng.
Hồi hướng (回向) (S. 91): đem công đức tu hành của mình
hồi hướng cho mục tiêu mà mình nhắm tới. Như mong muốn
đem công đức tu hành của mình ban cho người khác, tức là
hồi hướng cho chúng sanh; mong muốn đem công đức tu hành
của mình làm cho mình và người đều thành Phật quả, gọi là
Hồi hướng Phật đạo.
Hồng tao (紅糟): Ngày xưa khi Phật thành đạo đã được cô gái
chăn bò dâng sữa bò cho Ngài. Ngày nay chế tạo món “hồng
tao” là mô phỏng theo món sữa bò ngày xưa. Hồng tao còn gọi
là “Ôn Tao”. Đạo Trung nói: “Trái cây trộn với ngũ cốc nấu
thành cháo; màu trắng của gạo bị biến đổi ( thành màu hồng)
nên họi là “hồng”, nhiều loại hòa lẫn vào nhau nên gọi là “tao”.
Hùng Nhĩ sơn (熊耳山): núi tai gấu, tọa lạc tại Hà Nam. Do
núi có 2 ngọn nhô lên song song như 2 tai gấu nên có tên như
thế, là nơi an táng sơ Tổ Bồ-đề-đạt-ma.
Húy nhật (諱日): ngày vía, ngày giỗ kỵ người đã mất.
Hư kháng ((虛亢 ): kháng là kiêu ngạo, hư kháng là kiêu ngạo
xằng bậy, làm phách rỗng tuếch.
Hương chí (香至): tên một nước ở Nam Thiên Trúc mà vua
là phụ vương của Tổ Bồ-đề đạt-ma.
Hương đình (香亭): Là một cái đình nhỏ để đặt lư hương lớn.
Đình nhỏ hình thể là một cái đình thật thu nhỏ, nhưng trên
biểu ngạch đề 2 chữ hương đình. Trong đám tang các bậc tôn
túc, thì hương đình luôn được sắp xếp trước chân đình, tức là
đình nhỏ đựng chân dung người chết.
Hương nhân (鄉人) (S. 92): chỉ cho người đồng quê với trụ trì.
Hương Lâm (香林) (S. 240): ngài Trừng Viễn, vị thiền tăng
đời Tống, họ Thượng Quan, người Miên Trúc (nay là Miên
Trúc, Tứ Xuyên), là đệ tử của Vân Môn Văn Yển. Cuối đời,
Ngài ở viện Hương Lâm, núi Thanh Thành thuộc Thành Đô,
do đây nên lấy tên viện làm hiệu.
Hữu cách vô phạm (有格無犯): có khuôn phép chế tài để
khỏi vi phạm giới luật.
Hữu hiếp cát tường (右脇吉祥): còn gọi là hữu hiếp ngọa,
hữu hiếp sư tử ngọa, sư tử ngọa, tức nằm nghiêng, mép bên
phải sườn nép xuống giường, hai chân xếp tréo nhau, lấy
cánh tay phải làm gối, tay trái duỗi thẳng, là phép qui của tỉ-
kheo, cấm nằm nghiêng bên trái, nằm ngửa, nằm sấp.
Hữu tình (有情) (S. 331): chỉ cho tất cả các vật có mạng
sống tức là chúng sanh.
Chia sẻ với bạn bè của bạn: |