N
Nam đường (南唐): Một trong 10 nước thời ngũ đại. Thế tổ
nam đường là lý Thăng (từ Từ Tri Cáo). Quốc hiệu là Tề, sau
đổi lại là Đường. Sử gọi là nam Đường. Truyền được 3 đời,
gồm 3 vị vua, được 39 năm, từ năm 973 đến năm 975.
Nam Thiệm Bộ châu (南贍部洲): là một trong bốn đại bộ
châu mà kinh điển Phật giáo nêu ra, cũng gọi là Nam-diêm-
phù-đề. Thiệm Bộ là tên một loài cây quí chỉ có ở châu này
nên mới gọi là Thiệm Bộ châu.
Nam Thiên Trúc (南天竺): Thiên Trúc là tiếng gọi nước Ấn
Độ xưa kia, lại cũng còn gọi là Thiên Đốc, Thiên Độc, Thân
Độc. Mục Tây Vực truyện sách Hậu Hán thư viết : “Nước
Thiên Trúc còn gọi là Thân Độc ở phía Đông Nam nước
Nguyệt Chi ngàn dặm, tục cho Thiên Trúc chính là nước
Nguyệt Chi”. Vậy Nam Thiên Trúc là Nam Ấn Độ.
Nam Tuyền (南泉): tức Thiền sư trứ danh Nam Tuyền Phổ
Nguyện, một trong 39 đại đệ tử của Mã Tổ Đạo Nhất.
Nan đề (難提): là từ gọi khác của tiếng Phạn tháp bà (stupa),
dịch theo ý là phương phần (mồ vuông), có hàm nghĩa là diệt
ác.
Nê-hoàn (泥洹) (S. 321): cách dịch khác của Niết-bàn.
Nghĩa học (義學??): tức là môn học chấp vào danh tướng, lý
luận, huấn nghĩa. Lại cũng gọi là giải học, là cái học của Câu
Xá và Duy thức, phân chiết danh mục cùng số lượng pháp
tướng, qui định tường tận giai vị nhân quả tu hành và giải
thích văn tự chương cú, là cái học bị Thiền tông đả phá.
Nghiêu (kiêu) ly (澆漓): bọn bạc bẽo quên ơn Phật.
Ngoại đạo (外道) (S. 320): người không được sự giáo hóa
của đạo Phật, thực hành theo tà pháp; cụ thể thì có nhiều loại
khác nhau.
Ngoại hộ (外護) (S.108): người ủng hộ vật chất cho tự viện,
cho chúng tăng trong chùa có thể yên tâm tu tập, bất luận là
tăng hay tục đều gọi là ngoại hộ của chùa.
Ngũ kỷ (五紀): mỗi kỷ là 12 năm, vậy ngũ kỷ là 60 năm, tức
là một giáp.
Ngũ quả (五果) (S. 326): Phật giáo phân tích mối quan hệ
nhân quả, thường cho rằng do nhiều loại nhân khác nhau sẽ
tạo thành 5 loại quả khác nhau.
Ngũ sắc (五色): năm màu chánh là đỏ, vàng, trắng, xanh,
đen. Thực tế thiên nhiên có tới 7 màu là tím, chàm, xanh lá
cây, xanh dương, vàng, cam, đỏ. Thường ngũ sắc tượng trưng
cho điềm lành hoặc cao quí hiển linh như hào quang ngũ sắc
của Phật, mây ngũ sắc của tiên cỡi, chim quí lông ngũ sắc.
Ngu sơn (五山) (S. 354): thiền lâm thời Nam Tống phỏng theo năm
ngọn núi nổi tiếng ở Ấn Độ mà đặt tên năm ngọn núi nổi tiếng trong
thiền lâm của Phật giáo Trung Quốc: 1. Chùa Hưng Thánh Vạn Thọ ở
Kính Sơn tỉnh Hàng Châu. 2. Mậu Phong Quảng Lợi ở núi A Dục
Vương, Ninh Ba. 3. Chùa Thiên Đồng Cảnh Đức ở núi Thái Bạch,
Ninh Ba. 4. Chùa Cảnh Đức Linh Ẩn ở Bắc Sơn tỉnh Hàng Châu. 5.
Chùa Tịnh Từ Báo Ân Quang Hiếu ở Nam Sơn tỉnh Hàng Châu.
Năm ngọn núi này đều thuộc tông Lâm Tế.
Ngũ tề (五齊): Phương pháp chế rượu chia làm năm mức độ
trung bình giữa trong và đục. Mỗi lần tế lễ, châm chước mức
rượu trong đục hòa lẫn mà dâng cúng cho thích hợp.
Ngũ tham (五參): 5 ngày tham v?n gồm 3 ngày tham kiến trụ
trì là mùng 10 – 20 và 25, cộng với 2 ngày thượng đường của
trụ trì là mùng 1 và rằm.
Ngũ tham thượng đường (五參上堂)) (S. 25): thiền lâm,
trong mỗi tháng vào 5 ngày: 10, 20, 25 ngày Đán và Vọng,
tất cả chúng đều phải tham kiến Trụ trì để nghe thuyết pháp
khai thị, vừa đúng năm ngày tham vấn một lần cho nên gọi là
Ngũ tham. Mỗi khi gặp thượng đường vào ngày Ngũ tham gọi
là Ngũ tham thượng đường.
Ngũ thiên thất tụ (五篇七聚) (S. 62): cách gọi khái quát luật
nhà Phật được sắp xếp theo từng phẩm loại. Các giới cụ túc
của tăng ni sau khi được phân làm 8 nhóm, 7 nhóm, lại được
phân làm Ngũ thiên: Ba-la-di, Tăng-tàn, Ba-dật-đề, Đề-xá-
ni, Đột-kiết-la; Ngũ thiên và các giới điều ngoài Ngũ thiên
lại được tóm lược thành 7 loại, gọi là Thất tụ: Ba-la-di, Tăng-
tàn, Thâu-lan-giá, Đọa, Đề-xá-ni, Ác tác, Ác thuyết.
Ngũ thông (五通) (S. 314): tức là nam thần thông: 1. Thiên
nhãn thông: có thể thấy tất cả s? v?t; 2. Thiên nhĩ thông: có
thể nghe tất cả âm thanh; 3. Tha tâm thông: có thể biết hết
tất cả những suy nghĩ trong tâm của mọi người; 4. Túc mạng
thông: biết được các việc trong quá khứ của mình; 5. Như ý
thông: còn gọi là thần cảnh thông nghĩa là tự do tự tại, đi qua
vách đá cũng không trở ngại.
Ngũ trược chúng sanh (五濁衆生): ngũ trượ c (Skt: panca
kasayah), cũng còn gọi là ngũ chỉ, là 5 thứ cặn đục khởi lên
trong giảm kiếp, đó là kiếp trược, kiến trược, phiền não trược,
chúng sanh trược, mạng trược mà chúng sanh phải nhận chịu.
Ngụy Hiếu Minh Đế Thái Hòa thập niên (魏孝明帝太和十年):
Thái Hòa là niên hiệu của vua Ngụy Hiếu Văn Đế triều Bắc
Ngụy, còn gọi là Hậu Ngụy hay Nguyên Ngụy, còn niên hiệu của
vị vua kế tiếp Văn Đế là Ngụy Hiếu Minh Đế là Chính Quang.
Nguyên Hòa (元和)): là niên hiệu của Đường Hiếu Tông
(806), Đường Nguyên Hòa cửu niên là năm (814).
Nguyên Thống tam niên (統三年): Nguyên Thống là niên
hiệu của Nguyên Thuận Đế. Thực ra niên hiệu Nguyên
Thống chỉ có 2 năm (1333-1334). Ở đây nói Nguyên Thống
tam niên (năm thứ 3) có lẽ nhằm.
Nguyện lực (願力): chỉ cho lực dụng của bổn nguyện, cũng
còn gọi là bổn nguyện lực, đại nguyện nghiệp lực, túc nguyện
lực, nơi Tịnh độ tông thường chỉ nguyện lực của Phật A-di-đà.
Nguyệt Am Quả công (月菴果公) (S.168): thiền sư Thiện
Quả Nguyệt Am, họ Dư, người Tín Châu (nay thuộc huyện
Thượng Nhiêu tỉnh Giang Tây) ngài tham gia vào pháp hội
của hòa thượng Phước Ninh và đắc pháp, khoảng niên hiệu
Tuyên Hòa được vua Tống phong thưởng, đổi hiệu là Đạo
Ngô, ngài dạy chúng nghiêm minh, sống đơn giản được mọi
người kính mến, nổi tiếng khắp các nơi, khoảng niên hiệu
Thiệu Hưng, ngài vào tỉnh Phúc Kiến, núi Hoàng Bá ở đó 10
năm. Sau Ngài trở về Đại Quy (tỉnh Hồ Nam). Ngài thị tịch
vào năm 22 niên hiệu Thiệu Hưng (1152 CN) thọ 74 tuổi.
Nguyệt đán (月旦): là ngày mùng một âm lịch mỗi tháng.
Nguyệt vọng (月望): là ngày rằm âm lịch mỗi tháng.
Nhai phường hóa chủ (街坊化主) Chức vụ trong thiền lâm có
trách nhiệm đi vào làng xóm, phố phường khuyến hóa tín đồ
cúng dường tài vật cho Tam bảo.
Nhãn đồng ((眼同): là tục ngữ đời Nguyên, chỉ việc gì mà
nhiều người cùng thấy để chứng minh.
Nhạn lập (雁立): đứng sắp thành một hàng dài như hình bầy
nhạn bay thành hàng trên trời.
Nhân duyên (因緣): trong ngữ cảnh là chỉ cho tên gọi khác
của công án Thiền tông, chứ không phải là nhân và duyên
của Skt: hetu – pratyaya.
Nhân lực (人力): là những người công dịch phục vụ lao động
trong chùa Thiền tông.
Nhân sự (人事): có 2 nghĩa: a- Chỉ cho quà cáp đem tặng khi tới
thăm nhau. b- Chỉ cho tự pháp hay pháp quyến đến thăm trụ trì.
Trong ngữ cảnh của bài này thì nhân sự chỉ cho quà cáp.
Nhân thiên nhãn mục (人天眼目): nhân thiên chỉ cho các vị
thần ở cõi trời – người, tức là hết thảy mọi người. Nhân thiên
nhãn mục dụ cho ai cũng nhìn mình như tiêu chuẩn mẫu mực
đầy tôn kính vậy.
Nhân Vương Ma-ha-bát-nhã Ba-la-mật kinh (仁王摩訶船
苦波羅密經): cũng còn gọi là Nhân Vương Hộ Quốc Bát-
nhã-ba-la-mật kinh, Nhân Vương kinh, nói về việc Phật Đà vì
đại quốc vương thuyết thị giữ gìn Phật quả, hạnh thập địa, và
nhân duyên thủ hộ quốc thổ. Giống như nói thọ trì kinh này
thì tiêu trừ tai nạn mà được phước, cùng với kinh Pháp Hoa,
kinh Kim Quang Minh được coi là 3 bộ kinh hộ quốc.
Nhập Bát Niết-bàn (入般湼槃): cũng còn gọi là nhập diệt,
tức là qua đời.
Nhập khám (入龕) (S.174): thường gọi là nhập quan, đem
người chết tắm rửa đặt vào quan tài, sau đó làm lễ Nhập khám.
Nhập thất (入室) (S. 42): trong Thiền môn, người đệ tử đã
tham vấn nhiều lần vào thất Thầy để tham học và hỏi đạo,
gọi là nhập thất. Điều này còn chỉ cho việc người đệ tử được
Thầy đích thân truyền trao yếu chỉ sâu xa.
Nhập thất thỉnh ích (入室請益): đệ tử vào thất trụ trì thưa
hỏi đạo pháp.
Nhập viện (入院): tân thọ mạng trụ trì lần đầu tiên vào tự
viện mà mình nhận lệnh tựu chức làm trụ trì.
Nhất dương sinh (一阳生): Tức tiết Đông chí, khoảng tháng
11 Âm lịch.
Nhất ma, nhất mễ (一麻一米): thuở ban đầu lúc Thế Tôn
mới xuất gia cầu đạo, lấy khổ hạnh tự tu, mỗi ngày chỉ ăn
một hạt mè và một hạt gạo. Đại trí độ luận quyển 34 chép:
“Thích-ca Văn Phật tại rừng cây ở Au-lâu-tần-loa, mỗi ngày
chỉ ăn một hạt mè và một hạt gạo. Các ngoại đạo nói: ‘Tiên
sĩ của chúng tôi tuy cũng tu khổ hạnh, nhưng cũng không thể
cần khổ như vậy trong 6 năm dài’”.
Nhất nguyệt nhật trục nhật (一月日逐日): tất cả các ngày
liên tiếp trong tháng.
Nhất như (一如) (S. 365): điều mà Phật giáo gọi là chân lý,
chân như hay nhất như là không hai không khác, không phân
không biệt.
Nhất Sơn (一山) Hiệu của thiền tăng Liễu Vạn đời Nguyên.
Nhất trung (一中): gồm 4 nghĩa: a. Một trai đường, một chổ
ngồi. Đây là dụng ngữ của Thiền tong trong lúc châm trà. Tức
là đi rót trà cho tất cả mọi người; b. Chỗ ngồi ở chính giữa, vì
tòa chính đặt ngay ở chính giữa nên gọi là nhất trung. Chỉ cho
chỗ ngồi của vị vhur tọa; nếu mời người khác ngồi là biểu thị
lòng tôn kính vị đó; c. Giữa ngày ăn một bữa vào giờ ngọ; d.
Nhất trung đạo ( dụng nghĩa của thiên thai): một trung thì tất cả
đều trung, không có Không, Giả nào mà chẳng trung, vì tất cả
đều trung quán vậy.
Nhật dụng (日用): qui tắc hành sự hằng ngày, nguyên lý của
sự việc.
Nhật hạ (日下): nghĩa đen là mặt trời rơi rụng, mà mặt trời
rơi rụng cũng tức là Lạc dương. Phần đông người ta cho rằng
đây là lời nói mí mửng (sấm ngữ) của Tổ Bát-nhã-đa-la để
chỉ cho kinh đô Lạc Dương (洛陽).
Nhật thực (日蝕): thực (蝕) là bị ăn, tức là mặt trời bị mặt
trăng ăn, bị mặt trăng cạp theo tín ngưỡng ngày xưa. Đây là
hiện tượng thiên văn tự nhiên khi trái đất – mặt trăng – mặt
trời ở vị trí thẳng hàng thì mặt trăng che mất mặt trời, nhưng
thời xưa tin đây là điềm gở báo trước nhiều tai ương sẽ xảy
ra nên phải cầu cúng.
Nhị bất định (二不定): bất định (Skt: aniyata), còn gọi là bất
định pháp, nhị bất định (dvà-aniyata) là một bộ phận của tỉ-
kheo thọ trì trong cụ túc giới, có nghĩa là vi phạm giới nào
còn chưa xác định được, gồm bình xứ bất định giới và lộ xứ
bất định giới.
Nhị thập tam (二十三): là ngày 23 âm lịch mỗi tháng, là một
trong 3 ngày tốt mùng 3, 13 và 23.
Nhị thời (二時) (S.165): chỉ cho hai khoảng thời gian sáng và tối.
Nhiễm (染) (S. 320): nhơ nhớp, ô uế, không trong sạch, là chỉ
vọng niệm chấp trước và sự vật bị chấp trước.
Ni-liên hà (尼蓮河): cũng còn gọi là Ni-liên-thiền hà (Skt:
Nairanjana, P: Neranjara) dịch theo ý là Bất lạc trước hà, là chi
lưu của con sông Hằng. Theo kinh Quá khứ hiện tại nhân q?a
thì sau khi xuất gia, Thế Tôn tu khổ hạnh bên bờ sông Ni-liên
trong 6 năm. Sau đó, Ngài từ bỏ phép tu khổ hạnh, xuống tắm
ở dòng sông này, và nhận bát cháo nhừ pha với sữa của cô gái
chăn bò cúng dường mà uống. Tiện đây cũng xin đính chính là
có nhiều dịch giả sơ ý đọc lầm chữ mi (糜 là cháo nhừ thành
chữ mi (麋)) là con nai, từ đó lầm cháo nấu nhừ pha với sữa
thành sữa nai của cô gái chăn nai cúng dường, mà thật ra theo
kinh nêu trên thì đây là cô gái chăn bò!
Ni-tát-kỳ (尼薩耆): gọi đủ là ni-tát-kỳ-ba-dật-đề, ni-tát-kỳ
có nghĩa là xá đọa, ý nói là xả bỏ tài vật, sám hối tội đọa.
Niêm hoa (拈華): gọi đủ là niêm hoa vi tiếu, chỉ Phật Đà giơ
cành hoa sen lên thị chúng, Tôn giả Ca-diếp nhân đó liễu ngộ
nên nhếch mặt mỉm cười, chỉ cho Thiền pháp chánh truyền.
Niêm hương (??): dâng, đốt hương. Tiện đây chúng tôi xin
trình bày đại khái những gì liên quan đến hương (tức là
nhang). Đốt nhang tức là thiêu hương, còn gọi là phần hương,
niêm hương, niệm hương, cáo hương, tháp hương, chú hương.
Tuy nhiên từ niêm hương là được dùng phổ thông nhất trong
các trường hợp như tại ngày khai đường, tại ngày cầu chúc
Thánh thọ Hoàng đế, trong các pháp hội v.v… Ngoài ra, tự
tăng trụ chức phải đốt hương đến trước thầy mình báo cáo đã
thành tự pháp thì gọi là tín hương. Thầy đốt hương đáp lễ lại
trò đã dâng hương cho mình thì gọi là hoàn hương hay đáp
hương. Mình thay người khác đốt hương kính lễ ai đó thì gọi
là đại hương. Lúc thọ trai đối với đại chúng ban hương, hoặc
lúc tuần đường đốt hương trước các tôn túc thì gọi là hành
hương (hành có nghĩa là ban tặng). Tham bái tự viện đốt
hương thì gọi là tấn hương.Hộp đựng hương gọi là hương cử,
hương tưởng, hương hiệp, hương hạp. Lư để đốt hương gọi là
hương lô, huân lô, hỏa lô. Lư hương có 2 tay nắm gọi là bính
hương lô, thủ lô. Hoặc lấy hương để tỉ dụ công đức của Phật
như giới hương, định hương, huệ hương, giải thoát hương, giải
thoát tri kiến hương.
Niệm (念) (S. 365): chỉ cho sự nhớ nghĩ.
Niên lạp (年臘) (S. 81): Niên là tuổi tác, Lạp là giới lạp.
Niên Lạp tức là tuổi tác và giới lạp.
Niên triêu (年朝): Tức ngày đầu năm.
Niết-bàn đài (?(湼槃臺): đài làm bằng củi đặt quan tài người
chết lên đó để hỏa thiêu.
Niết-bàn môn (涅槃門) (S. 331): cửa bước vào cảnh giới
Niết-bàn. Kinh Phật gọi cảnh giới Niết-bàn là nơi cư trú của
thánh nhân.
Noãn liêm (暖簾): Dung bông hay vải phủ trên mặt tấm rèm để
đề phòng gió tạt, gọi là noãn liêm.
O
Oa tôn (漥樽): Một loại chén dùng để uống nước hay uống rượu.
P
Phạm đàn (梵檀; Skt, P: brahma-damda), dịch theo ý là mặc
tẫn, phạm pháp, phạm thiên pháp trị, phạm thượng, là một pháp trị đối với tỉ-kheo hay tỉ-kheo-ni vi phạm giới luật, tức
là không cho các tăng ni khác chuyện vãn với người có tội, là
một trong 9 pháp trị tội, là một trong 6 pháp tẫn dành cho
người có tội nhẹ, đúng lý ra phải viết là (梵壇), tức là mặc
tẫn, ý chỉ phạm tội nhẹ, chỉ bị cấm không cho mọi người nói
chuyện với mình.
Phạm Thiên (梵天; Skt: Brahma), dịch theo âm là Bà-la-hạ-
ma, dịch theo ý là thanh tịnh, Nan Dục, nguyên là đại thần do
Bà-la-môn giáo và Ấn Độ giáo sáng tạo ra, về sau thần thoại
Phật giáo cũng thái dụng. Tuy nhiên, thường thường từ Phạm
vương là chỉ cho Đại Phạm Thiên vương, tên là Thi Khí hoặc
Thế chúa, nguyên có 5 đầu và 4 tay.
Phạm trọng (犯重) (S. 63): phạm vào trọng tội của giới luật.
Giới Tiểu thừa có 4 loại trọng tội, giới Đại thừa có 10 loại
trọng tội.
Phan mộ (攀慕): phan nghĩa đen là thấp bé vin vói lên cao,
mộ là ngưỡng mộ. Đây là lời khiêm xưng, ý nói mình thân
phận thấp hèn không đáng ngưỡng mộ Phật mà cố lạm
ngưỡng mộ vậy.
Pháp âm (法音): lời Phật thuyết pháp vi diệu gọi là pháp âm.
Pháp điệt (??): tức là cháu trong đạo pháp. Đây là Phật
giáo thái dụng chế độ tông pháp của thế tục, gọi anh em
cùng học một thầy là pháp huynh pháp đệ, đệ tử của các sư
huynh đệ là pháp diệt.
Pháp đường (法堂): là điện đường diễn bố đại pháp của tùng
lâm, tọa lạc ở phía sau Đại hùng Bửu điện và trước thất phương
trượng, tương đương như giảng đường, ngầm biểu thị Tông chỉ
giáo ngoại biệt truyền của Thiền tông.
Pháp giáo (法教) (S. 330): sự dạy dỗ theo giáo pháp.
Pháp giới (法界; Skt: dharma-dhatu, P: là dhamma-dhatu),
dịch theo âm là Đạt-ma-đà-đô, chỉ cho tất cả mọi sự vật sở
hữu là đối tượng của ý thức sở duyên, diễn rộng nghĩa ra là
chỉ cho tất cả các pháp hữu vi lẫn vô vi, tức mọi pháp (être).
Pháp hoa kinh (法華經) (S. 367): gọi đủ là Diệu Pháp Liên
Hoa kinh, tư tưởng chủ yếu nói rõ Tam thừa chỉ là phương
tiện, Nhất thừa mới là chân thật, cuối cùng trở về Tịnh độ,
tuyên dương tinh thần nhập thế độ đời, là một trong những
kinh điển căn bản của tông Thiên Thai. Phẩm Phổ Môn trong
kinh Pháp Hoa chủ yếu tuyên dương Phổ môn thị hiện của
Bồ-tát Quán Thế Âm, là tín ngưỡng đặc thù tôn sùng Bồ-tát
Quán Âm.
Pháp ngữ (法語): tức là tuyên thuyết chánh pháp. Ban đầu chỉ
cho giáo pháp của Thế Tôn, sau Thiền tông dùng để chỉ cơ ngữ
do các Tổ sư khai thị trong các buổi lễ, chủ yếu là lễ thượng
đường, khai đường.
Pháp quyến (法眷) (S. 80): những người cùng tu học trong
thiền lâm được xem là quyến thuộc trong Phật pháp nên gọi
là Pháp quyến.
Pháp tòa (法座): chỉ cái tòa mà Phật ngồi trên đó thuyết
pháp, lại cái tòa cao mà các Thiền sư lúc thuyết pháp ngồi
cũng gọi là pháp tòa, hoặc gọi là tòa Tu-di, sau chuyển rộng
ý đồng nghĩa với pháp diên, pháp tịch.
Pháp tràng (法幢) (S. 284): diệu pháp cao siêu giống như lá
cờ bay phấp phới trên cao, cho nên gọi là Pháp tràng.
Pháp Vân (法雲) (S. 365): vị thiền tăng cuối đời nhà Kim, người
Lâm Hải – Chiết Giang, họ Lưu, ban đầu sư xuất gia ở Hồng Động – Sơn Tây, cầu học với ngài Quảng Hóa, tham học thiền
pháp ở Thiều Sơn. Về sau sư trụ trì Sùng Thắng Quan Âm viện
ở Nam Dương, và xây chùa Báo Ân ở Linh Sơn.
Pháp vị (法味) (S. 366): do hiểu rõ tận tường giáo pháp vi
diệu của Phật mà tâm được an lạc, hương vị loại diệu pháp
này gọi là Pháp vị.
Pháp vương (法王): vua pháp, nguyên dùng để tôn xưng Thế
Tôn là vua của pháp, nhưng do đời Nguyên, Đế sư thống lãnh
Phật giáo cả nước, nên từ này cũng được dùng để chỉ Đế sư.
Pháp y (法衣) (S. 71): y phục của người xuất gia có một thể
thức nhất định, phải may đúng theo thể thức ấy, nên gọi là
Pháp y, hoặc gọi là ca-sa. Nhưng trong Thiền lâm đặc biệt
gọi y Kim lan, một tín vật truyền pháp tiêu biểu, là pháp y,
chỉ khi thuyết pháp mới được đắp y này.
Pháp yếu (法要): là yếu điểm, mấu chốt của pháp nghĩa
được trụ trì tuyên thuyết.
Phân thủ vị (分手位): người ngồi bên phải hoặc bên trái mình
gọi là phân thủ vị. Có chổ nói: phân thủ không nhất định, có
trường hợp phân thủ đối với trụ trì; có trường hợp phân thủ đối
với hậu đường.
Phân tòa (分座): trong Thiền lâm, thủ tọa thay trụ trì chùa
chia sẻ bớt công việc thuyết pháp gọi là phân tòa.
Phần Dương Thiện Chiêu (汾陽善昭): tăng nhân tông Lâm
Tế đời Tống (947 – 1024). Tuổi trẻ thông tuệ, 14 tuổi thọ giới
cụ túc, du phương tham phỏng 71 vị thạc đức, đệ tử nối pháp
của Thiền sư Thủ Sơn Tỉnh Niệm, thị tịch năm Thiên Hoàng
thứ 2 đời Tống Nhân Tông, thọ 78 tuổi, thụy hiệu là Vô Đức
Thiền Sư.
Phật đản nhật (佛誕日: là ngày đản sanh của đức Thích Ca
Mâu Ni, tức là rằm tháng 4 âm lịch.
Phật kí (佛記) (S. 336): sự huyền kí của Phật, tức là lời dự
đoán của đức Phật.
Phật Nhãn Viễn Công (佛眼遠公): là thiền sư Thạch Viễn
danh tiếng đời Tống,là môn đồ của Ngũ Tổ Pháp Diễn, tịch
thọ sắc thụy là Phật Nhãn Thiền sư.
Phật nhật tăng huy (佛日增輝)): Phật nhật (skt: buddha-
sunya). Do duệ trí, đức hạnh, từ bi của đức Phật có thể phá
tan mê vọng của chúng sanh, như mặt trời phá tan bóng tối
ban đêm, cho nên mới ví Phật Đà như mặt trời. Phật nhật
tăng huy là lời cầu mong mặt trời Phật ngày càng huy hoàng.
Phất tử (拂子) (S. 284): dụng cụ quét côn trùng, tức cây xơ
quất, thông thường lấy các vật chỉ khâu, lông dê, làm thành,
để dùng khi thuyết pháp.
Phật tử trụ (佛子住): có lẽ là Phật tử vị (佛子位) thì đúng hơn,
là một phong hiệu cho tăng nhân của triều đình nhà Nguyên.
Phi đoạn, phi thường (非斷非常): phi đoạn chỉ cho thời gian
liên tục, phi thường chỉ cho thời gian không liên tục. Vậy phi
đoạn – phi thường tức là chỉ cho trạng thái siêu thoát.
Phi đơn (飛單) (S. 256): hóa đơn thu chi mỗi ngày trong thiền
lâm, do vị phó tự kí nhận, vì điều mục được ghi trong một
ngày không nhiều, nên có thể tùy thời trình lên Phương
trượng, mọi việc diễn ra nhanh chóng nên gọi là “Phi đơn”,
còn gọi là Nhật đơn.
Phiên trấn (藩鎮): Phiên nguyên có nghĩa là bờ rào ngăn
che, bảo vệ. Vua phong cho các bầy tôi thân cận, các hoàng
thaân quoác thích ra traán ôû caùc nôi ñeå laøm pheân che chôû cho
trieàu ñình, goïi laø phieân traán.
Phó bát vị (副缽位): phó bát là 16 người ngồi đầu bản, phó
nghĩa là người thứ 2.
Phó liêu (副寮) (S. 262): người trợ lý của Liêu chủ, hợp sức
cùng Liêu chủ kiểm tra việc quét dọn và bảo quản các vật dụng
trong liêu.
Phong hỏa tương bức (風火相逼): gió lửa bức ngặt nhau, ý
nói tứ đại xung đột nhau đưa đến rã rời rồi là qua đời.
Phóng tham (放參) (S. 56): thuật ngữ Thiền lâm. Trụ trì có
công việc hoặc sắp đến giờ cầu nguyện nên bỏ giờ tọa thiền
buổi chiều, gọi là Phóng tham.
Phóng tham chung (放參鐘): là tiếng chuông gióng lên để
báo tin hủy bỏ buổi vãn tham do trụ trì có sự duyên gì đó
vướng kẹt không thể thực hiện vãn tham được.
Phổ thỉnh (普請) (S. 257): tập hợp chúng tăng cùng lao động
gọi là “phổ thỉnh”. Quy chế này do hòa thượng Bách Trượng
Hoài Hải đặt ra. Sau này còn gọi việc tập hợp chúng tăng là
Phổ thỉnh.
Phổ thuyết (普說) (S. 41): việc thuyết pháp trong Thiền
tông, nghi thức tương đối đơn giản không cần mang khay
thỉnh, không cần đắp pháp y.
Phổ vấn tấn (普問訊): tức là phổ đồng vấn tấn, nghĩa là
cùng với đại chúng đồng thời vấn tấn qua lại.
Phu tọa (趺坐): cũng gọi là già phu tọa, chỉ cho nhà sư ngồi
bắt chéo 2 bàn chân lên trên đùi, chủ yếu là lúc tham Thiền
nhập định hay ngồi chủ lễ trên pháp tòa, gọi đủ là kiết già phu
tọa (結跏趺坐), Skt là nyasidat-paryankam àbhujya, là một trong các pháp ngồi của nhà sư Phật giáo, cũng viết là ((結加夫
坐
結跗), (跏趺正坐), (跏坐), (結坐,). Trong các pháp ngồi
thì “kiết già phu tọa” là an ổn nhất mà lại không bị mệt mỏi.
Trước khi tham bái để tỏ lòng kính trọng, các đệ tử hay hành
giả thường thỉnh mời trụ trì phu tọa.
Phù ti (罘罳) (S. 41): vừa chỉ cho cây đứng chắn gió ngoài cửa,
vừa chỉ chắn song cửa sổ có từng ô để ánh sáng xuyên vào.
Phụ nghi (賻儀) (S. 180): những lễ vật mà mọi người đem đến
phúng điếu.
Phước Châu Trường Lạc (福州長樂)): Trường Lạc là tên
quận xưa do nhà Đường thiết lập. Vương Mân đời Ngũ Đại
thăng lên làm vương phủ, Tống gọi là quận Trường Lạc
Phước Châu, tức nay là huyện Lâm Sâm tỉnh Phước Kiến.
Phương Đẳng hội thượng (方等會上): Phương Đẳng (skt:
Vaipulya, P: Vedella), dịch theo âm là Tì-Phật-Lược, Tì-phú- la,
dịch theo ý là Phương Quảng, Quảng Phá, Quảng Đại, Quảng
Bác, Quảng Giải, Quảng Vô Tỉ. Lại còn gọi là Đại Phương
Quảng, Đại Phương Đẳng, là một trong 9 bộ kinh của Nam tông,
là một trong 12 bộ kinh của Bắc tông, là kinh điển Đại thừa,
thuyết giảng rộng rãi nghĩa lý vô cùng sâu rộng.Phương Đẳng
hội thượng chỉ cho pháp hội mà nơi đó Phật thuyết kinh Phương
Đẳng, kế thuyết kinh Duy-ma, kinh Lăng già, kinh Lăng
nghiêm, kinh Bát-nhã, kinh Kim Quang Minh.
Phương tiện (方便) (S. 367): thuật ngữ của Phật giáo, chỉ cho
tài trí linh hoạt, xảo diệu.
Phương trượng (方丈) (S. 25): chỗ ở của Trụ trì trong chùa
Thiền. Trong kinh Phật nói phòng ngủ của Bồ-tát Duy Ma
Cật chỉ vuông vức một trượng (1,8 mét), nhưng lượng dung
chứa thì vô hạn. Thiền sư Hoài Hải khi chế định Thanh Quy
đã dựa theo thuyết này mà gọi phòng ở của Trụ trì là
“Phương trượng”, còn gọi là “Trượng thất”, “Hàm trượng”,
“Chánh đường”, “Đường đầu” v.v… Về sau chuyển nghĩa
“Phương trượng” được dùng chỉ cho vị Trụ trì.
Phương trượng chấp cục (方丈執局): có lẽ chỉ cho người xử lý
công việc trong chùa do phương trượng trực tiếp điều hành.
Phương trượng hành giả (方丈行者): là hành giả phụ trách
tạp dịch tại thất phương trượng, chịu sự sai khiến của thị giả.
Phương trượng khách đầu (方丈客頭): tức khách đầu hành
giả của thất phương trượng. Khách đầu hành giả gọi tắt là
khách hành, trong chùa Thiền lâm lệ thuộc phần quản lý của
tri khách, được sai phái tiếp khách.
Chia sẻ với bạn bè của bạn: |