Q
Quá ñường (過堂) (S. 224): đại chúng đi đến Tăng đường ăn
cơm gọi là Quá đường.
Quải bát (掛鉢) (S. 299): ở đây chỉ cho việc khi ăn xong mang
bát treo lên móc.
Quải đáp (掛搭): có 2 nghĩa: a- Chỗ treo y bát của các tăng
nhân. b- Tăng du phương đến chùa người được ghi tên vào
danh sách cho ở lại chùa.
Quải phúng kinh bài (掛諷經牌): treo tấm bảng, tấm bài
hiệu trong đó viết thông báo tụng kinh.
Quan chiêm (觀瞻)): nghĩa ban đầu là chỉ những gì đập vào
mắt khiến mình nhìn thấy. Sau diễn rộng nghĩa ra chỉ cái gì
gây chú ý cho mọi người, sau chuyển rộng nghĩa nữa là muốn
chỉ phong cách khiến cho người ta có cái nhìn kính trọng
mình.
Quan khách (官客): không có nghĩa đơn thuần như ngày nay
là các vị khách khứa được mời dự một buổi lễ, mà là quan
viên và khách mời thông thường.
Quan tự (官寺): là tự viện do triều đình cất lên, chu cấp kinh
tế lương bổng, tài vật và cử người đến quản lý. Ngũ sơn, thập
sát, các chùa danh tiếng xây dựng hồi đời Tống ở Trung
Quốc thuộc quan tự. Đời nào cũng vậy, chùa nhà nước thì
luôn vắng bóng kẻ hành hương. Thơ của Bạch Cư Dị: Quan tự
hành hương thiểu. Tăng phòng ký túc đa.
Quan viên (官員): tức là chỉ quan chức của triều đình, trong
chương này chủ yếu là quan huyện, quan phủ địa phương.
Quán đảnh (灌頂) (S. 321): dùng nước để rưới đỉnh đầu, vốn
là nghi thức đăng quang của vua Ấn độ thời xưa. Phật giáo
Mật tông theo cách thức này, khi vị tăng tiếp nối địa vị A-xà-
lê thì phải lập đàn cử hành nghi thức quán đảnh. Về sau thiền
môn cũng phỏng theo nghi thức này khi sa-di thọ giới.
Quán Thế Âm (觀 世 音; S: avalokiteśvara) cũng gọi là Quán
Tự Tại, Quan Âm; Một trong những vị Bồ-tát (s: bodhisattva)
quan trọng nhất trong Ðại thừa (s: mahāyāna). Có nhiều luận
giải khác nhau về nguyên nghĩa tên Ngài. Có người hiểu
"īśvara" là một "người nam" quán chiếu thế giới, có người hiểu
"svara" là "Âm", tức là vị Bồ-tát lắng nghe mọi tiếng thế gian.
Nhìn chung, Quán Thế Âm là thể hiện lòng Bi (s, p: karuṇā),
một trong hai dạng của Phật tính. Vì vậy, có khi người ta đặt
tên cho Ngài là bậc Ðại Bi (s: mahākaruṇika). Dạng kia của
Phật tính là Trí huệ (Bát-nhã; s: prajñā), là đặc tính được Bồ
Tát Văn-thù (s: mañjuśrī) thể hiện. Quán Thế Âm là vị Bồ Tát
thể hiện nguyện lực của Phật A-di-đà (s: amitābha) và được
xem như quyến thuộc của Ngài (Tịnh độ tông). Với lòng từ bi
vô lượng, Quán Thế Âm thể hiện sức mạnh huyền diệu cứu
giúp mọi chúng sinh quán tưởng đến Ngài lúc gặp hiểm nguy.
Trong nhân gian, Ngài là vị bảo hộ tránh khỏi tai họa và hay
được phụ nữ không con cầu tự. Trong các loại tranh tượng về
Ngài, người ta thấy có 33 dạng, khác nhau về số đầu, tay và các
đặc tính. Thông thường ta thấy tượng Ngài có ngàn tay ngàn
mắt, có khi 11 đầu. Trên đầu có khi có tượng của A-di-đà, xem
như đặc điểm chính. Trên tay có khi thấy Ngài cầm hoa sen
hồng, vì vậy Ngài cũng có tên là Liên Hoa Thủ (người cầm hoa
sen; s: padmapāṇi) hay nhành dương liễu và một bình nước
Cam-lộ (s: amṛta). Số tay của Ngài biểu hiện khả năng cứu độ
chúng sinh trong mọi tình huống.
Quang bạn (光伴): được người cao quí hay các bậc tôn túc
bầu bạn là quang vinh, cho nên được các bậc trên trước ăn
uống cùng với mình thì gọi là quang bạn.
Quang bạn hương (光伴香): đốt hương cảm tạ các khách mời
(quang bạn nhân).
Quang bạn vị (光伴位): người ngồi bên tay phải của trụ trì tức
là người phân thủ vị của trụ trì (cũng là quang bạn vị).
Quảng Châu (廣州): thời Tần Hán là quận Nam Hải, nay là
tên phủ thuộc tỉnh Quảng Đông.
Quảng Hàn cung điện (廣寒宮殿): cung điện Quảng Hàn,
cung điện lạnh. Theo sách Thiên Bảo di sự, Đường Minh
Hoàng du lịch lên cung trăng thấy tấm bảng hiệu đề Quảng
Hàn Thanh Hư chi phủ, nhân đó nhân gian mới gọi mặt trăng
là cung điện Quảng Hàn, ý nói trên mặt trăng lạnh lắm.
Quần mê (群迷): chỉ cho chúng sanh chưa giác ngộ, còn
đang mê hoặc trong biển trầm luân.
Qui Tông (歸宗): tức Trí Thường, pháp tự của Mã Tổ Đạo Nhất.
Qui thằng (規繩): nghĩa giống như qui tắc, qui định vậy.
Quy chân (歸眞) (S. 166): trở về thể vắng lặng, cũng là cách
nói văn hoá của nhà Phật đối với cái chết.
Quy chân tịch (歸真寂)): là từ mà nhà Phật uyển chuyển
dùng để chỉ tăng lữ qua đời.
Quỵ lô (lư) (跪爐): tức là quỳ trước lư hương mà niêm hương.
Thông thường nghi thức này được cử hành tại các buổi lễ như
chúc thọ Hoàng đế, giỗ kỵ quốc gia, lễ Phật đản, hay giỗ kỵ
các Tổ sư. Nghi thức cử hành như sau :Lưỡng tự phân thành 2
ban đứng đối diện nhau, trụ trì quỳ trước lư hương. Sau đó tri
khách quỳ dâng lư hương cầm tay, thị giả quỳ dâng hộp hương.
Sau khi duy-na bạch Phật tuyên sớ xong, tri khách lại quỳ tiếp
nhận lư hương cầm tay, chừng đó trụ trì mới thu tọa cụ. Nghi
thức này rất thịnh hành trong tùng lâm Hoa – Việt.
Quyến ngôn (眷言): là cố quyển tịnh ngôn. Kinh thi Nãi
quyến Tây cố. Chú Ấy là cố quyến tịnh ngôn vậy, ý nói chiếu
cố rất tha thiết.
Quyết nghi (決疑)): trừ bỏ, dẹp tan điều nghi ngờ để đạt đến
trạng huống chính xác.
S
Sa giới (沙界) (S. 332): thế giới nhiều như cát sông Hằng, dụ
cho sự rộng lớn của thế giới.
Sam tiên (攙先): sam là chen lấn, sam tiên là chen lấn giành
lên trước mà không tuân theo thứ tự trước sau.
Sám tạ (懺謝): cũng còn gọi là sám hối, tức sám hối tội lỗi
để cầu xin tạ tội. Sám là gọi tắt từ sám ma, là quên lãng, tức
là cầu xin người khác quên lãng tội lỗi của mình. Hối có
nghĩa là hối lỗi, tức truy hối điều lầm lẫn tội lỗi trước đó. Sau
khi chấm dứt lễ cầu đảo phải sám hối là ý cho rằng khi mình
làm lễ cầu xin (cầu đảo) tức là do có tội lỗi bị quở phạt, vậy
nay phải sám hối cầu xin tha lỗi.
Sanh tử (生死: Skt: samsara, jatimarana), cũng còn gọi là luân
hồi, nghĩa là y theo nghiệp nhân mà chìm nổi trong lục đạo là
trời – người – A-tu-la – ngạ quỷ – súc sanh, sanh tử nối tiếp,
chẳng bao giờ cùng tận, là cảnh giới đối lập lại với Niết-bàn.
Sanh tử sự đại (生死事大): ý nói vấn đề sanh tử là sự việc
hết sức trọng đại không thể coi thường được, tức là khuyên
chúng sanh cần phải mau tu hành giải thoát.
Sai đơn (差單): bảng ghi danh sách chư tăng được luân phiên
cử lên trực trên chánh điện trong tháng cử hành chúc thiên
thọ Thánh Hoàng.
Sát-đế-lợi (剎帝利: skt: Ksatriya), dịch ý là địa chủ, Vương
chủng, gọi tắt là Sát-lợi, là dòng họ thuộc giai cấp thứ 2 trong
4 dòng họ giai cấp chánh ở Ấn Độ, địa vị chỉ đứng sau giai
cấp Bà-la-môn, là giai cấp của Vương tộc, quí tộc, sĩ tộc,
thường nắm giữ các cương vị quân sự và chính trị. Thế Tôn
xuất thân từ giai cấp này.
Sắc (勅): vì Phật là pháp vương tức cũng là một vị vua nên
lệnh lạc của Phật ban ra gọi là sắc, tuân theo lệnh của Phật
gọi là tuân chỉ (??).
Sấn (䞋) (S. 80): gọi tắt thuật ngữ Đạt sấn, Đàn sấn v.v… chỉ
cho vật bố thí, bao hàm hai hình thức: tài vật thí chủ dâng
cúng cho chư Tăng (tài thí) và chư Tăng thuyết pháp cho thí
chủ (pháp thí).
Si Tuyệt Xung Công (癡絕沖公): một thiền sư nổi tiếng vào
thời Nam Tống, Ngài họ Tuần pháp danh Đạo Xung, biệt
hiệu là Si Tuyệt. Ngài đã từng trụ trì nhiều ngôi chùa nổi
tiếng và tinh thông thư pháp. Sư viên tịch vào năm thứ 3 niên
hiệu Bảo Khánh đời Tống Lý Tông ( 1227 CN).
Song tự danh (雙字名): là ghi đủ tên cả giới và tuổi lạp, đối
lại là đơn tự danh chỉ ghi tên giới thôi. Tên giới tức giới danh,
là tên do sư phụ mà mình quy y đặt cho lúc mình thọ tam quy
giới, còn gọi phổ thông là pháp danh.
Sơ bát (初八): là ngày mùng 8 âm lịch mỗi tháng, là một
trong ba ngày tốt mùng 8, 18 và 28.
Sơn môn (山門) (S. 80): cổng ngoài của Tự viện, còn được
chỉ cho toàn thể Tự viện.
Suất chúng tài (率衆財): gặp các ngày giỗ kỵ, đường ty
quyên tiền của đại chúng để sắm sanh hương, hoa, trà, quả.
Còn gọi là suất tiền.
Suất hóa (率化): kính phục tuân theo sự giáo hóa của đức Phật.
Sư biểu (師表): vị thầy gương mẫu, Thiền sư đạo cao đức
trọng làm gương tốt cho mọi người noi theo. Riêng đức
Khổng Phu Tử được gọi là vạn thế sư biểu tức là ông thầy
gương mẫu muôn đời.
T
Tác đầu lão lang (作頭老郎): người coi các công việc làm
bằng tay chân của bộc dịch trong chùa Thiền lâm.
Tác phạm Xà-lê (作梵闍黎) (S. 314): Xà-lê là vị thầy mô
phạm dạy dỗ, uốn nắn những hành vi của đệ tử. Tác phạm
Xà-lê là v? thầy dùng tiếng Phạn niệm tụng, lễ bái khi sa-di
thọ giới ở trong thiền lâm.
Tái hiện đàm hoa (再現曇花) (S. 183): người đời cho rằng
ba ngàn năm hoa đàm mới nở một lần, còn trong truyền
thuyết nói rằng khi đức Phật ra đời hoa này mới nở. Ở đây
dùng hoa Đàm để chỉ cho vị trụ trì đã viên tịch, cầu nguyện
vị đó đời sau chuyển sanh làm bậc cao tăng đại đức.
Tam ác đạo (三惡道) (S. 331): ba đường mà chúng sanh tạo
nghiệp ác thường lui tới: địa ngục, ngạ quỷ và súc sanh; còn
gọi là Tam ác thú.
Tam bảo (三寶) (S. 326): Phật giáo gọi Phật, Pháp và Tăng là
Tam bảo. Phật tức là Phật Thích-ca Mâu-ni, còn chỉ chung cho
tất cả chư Phật; Pháp là giáo pháp do Phật dạy; Tăng là Tăng
chúng kế thừa và truyền bá giáo pháp của Phật.
Tam bát nhật (???): chỉ 3 ngày mùng 8, 18 và 28 âm lịch
mỗi tháng, là các ngày Thiền tăng phải tụng niệm trên điện.
Thời xưa lấy các ngày 3 (mùng 3, 13, 23) cộng với ba ngày 8
làm 6 ngày tụng niệm trên điện. Các ngày 3 tụng niệm cầu
cho quốc gia trường tồn, Phật pháp long thịnh, thí chủ an
khang. Còn các ngày 8 tụng niệm cầu cho hoàn thành một
đời tu niệm của mình.
Tam đồ (三塗): Chỉ cho Ba đường đó là Hoả đồ (đường lửa),
Đao đồ (đường dao), và Huyết đồ (đường máu), đồng nghĩa với
Tam ác đạo là 1. Ðịa ngục (地 獄; skt: naraka); 2. Súc sinh (畜
生; skt: tiryañc); 3. Ngạ quỉ (餓 鬼; skt: preta) là những nơi do
các nghiệp ác của thân khẩu ý dẫn đến.
Tam giới lưu chuyển (三界流轉) (S. 367): luân hồi chịu khổ
trong tam giới: dục giới, sắc giới và vô sắc giới.
Tam hạ (三下): ba tiếng, như minh bản tam hạ, là đánh 3
tiếng bản, còn tam thông là 3 hồi, như minh cổ tam thông là
gióng 3 hồi trống.
Tam hiền (三賢) (S. 326): theo đại thừa Phật giáo, Tam hiền
là 3 cấp bậc từ Thập tâm trụ, Thập hạnh và Thập hồi hướng,
những vị Bồ-tát ở trong 3 giai đoạn này được gọi là hiền giả,
vì những vị đó chưa diệt sạch hết mê hoặc, chưa bước vào địa
vị thánh giả nên gọi là “Hiền”.
Tam học (三學; Skt: tisrah siksah, P: tisso sikkha) chỉ cho 3 môn
học giới – định – huệ của Phật giáo, cũng còn gọi là tam thắng
học, gọi đủ là giới – định – huệ tam học. a- Tăng thượng giới
học: môn học phòng chỉ ác nghiệp thân – khẩu – ý. b- Tăng
thượng định học: môn học giúp trừ vọng niệm hầu thấy tánh
thành Phật. c- Tăng thượng huệ học: môn học giúp hiển phát bổn
tướng, đoạn trừ phiền não, thấy thực tướng chư Phật.
Tam hữu (??): hữu (Skt: bhava). Tam hữu có nhiều loại
nghĩa: a- Dục hữu, sắc hữu, vô sắc hữu; nghĩa đồng với từ
Tam giới. b- Sanh hữu, bổn hữu, tử hữu, là một đời của chúng
sanh hữu tình. c- Thiện thành hữu, tính đẳng hữu, biến dị hữu,
là số luận do ngoại đạo lập ra.
Tam môn (三門) (S. 97): cũng gọi là “Sơn môn”. Chỉ cho
cổng ngoài của Tự viện. Chính giữa dựng một cửa lớn, phối
hợp hai cửa nhỏ hai bên. Có chỗ chỉ xây một cửa giữa và
dựng thêm hai cây trụ hai bên. Hình thức Tam môn này tượng
trưng cho ba cửa giải thoát: Không, Vô tướng, Vô tác trong
giáo nghĩa của nhà Phật.
Tam muội (三昧) (S. 191): dịch âm từ tiếng Phạn Samadhi,
dịch ý là Định, tức là nhiếp tâm trong Thiền định để đạt đến sự
hòa hợp trong các hành.
Tam quy (??) (S. 326): còn gọi là “Tam quy y”, tức là quy
y Tam bảo Phật, Pháp và Tăng.
Tam sự (三歸) : tam sự có rất nhiều nghĩa, trong ngữ cảnh ở
bài “Kỳ tuyết” này chỉ “chính đức, lợi dụng và hậu sinh” là
đức và tài mà bậc trị dân phải có. Thiên “Đại vũ mô” trong
Kinh thư viết: “Đế nói: ‘… đất bằng do trời hình thành; lục
phủ, tam sự đều đầy đủ”. Một nghĩa gần với nghĩa trên là : sự
thiên, sự địa và trị nhân dân.
Tam thế (三世) (S. 92): còn gọi là Tam tế, tức quá khứ, hiện
tại, vị lai. Còn chỉ chung cho mọi thời gian.
Tam thiên thế giới (????): lấy núi Tu-di làm trung tâm,
chu vi 4 đại châu và 9 núi 8 biển làm một tiểu thế giới. Một
ngàn tiểu thế giới tập hợp lại thành một tiểu thiên thế giới,
một ngàn tiểu thiên thế giới thành một trung thiên thế giới,
một ngàn trung thiên thế giới thành một đại thiên thế giới.
Đại thiên thế giới này nhân do tiểu – trung – đại ba loại thiên
thế giới hợp thành nên gọi là tam thiên đại thiên thế giới hay
tam thiên thế giới.
Tam thời (三時) (S.165): chỉ cho ba khoảng thời gian sáng
sớm, giữa trưa và chiều tối.
Tam y (三衣) (S. 342): chỉ cho ba loại y chính thức của chúng
tăng: y năm điều (An-đà-hội), y bảy điều (Uất-đa-la-tăng), y
chín điều (Tăng-già-lê), khi may thường dùng một số điều
tướng sắp xếp theo chiều dọc để may thành giống như hình
chữ điền.
Tạm đáo (暫到): các tăng du phương mới đến một chùa nào đó
tạm cư ngụ chưa được ghi tên cho lưu ngụ.
Tán kỵ (散忌): nghĩa như tán cúng (??), nghĩa là lúc giỗ
phóng tán các thứ tiền vật như tán hoa, tán tiền v.v…
Tạng chủ (藏主): là tiếng gọi khác của tri tạng, tức tăng
quản lý kho kinh.
Tạng kinh (藏經): tức là chỉ Đại tạng kinh, còn gọi là Nhất
thiết kinh, Nhất đại (?) tạng kinh, Đại tạng, Tam tạng Thánh
giáo, bao hàm tam tạng Thánh điển, cũng chỉ kinh, luật, luận
là tổng hợp trung tâm kinh điển Phật giáo.
Tạng điện (藏殿): chỉ lâu điện cất chứa kinh tạng (tức kinh
đường) và chỗ xem kinh. Kinh tạng cũng chỉ nơi cử hành nghi
thức chúc diên thiên thọ Thánh hoàng hay cung phụng tượng
Phật, hoặc tụng kinh theo yêu cầu của thí chủ. Khán kinh
đường là nơi tăng chúng xem đọc tạng kinh. Đến đời Nam
Tống thì công năng của kinh tạng chuyển sang Phật điện, còn
công năng của khán kinh đường chuyển sang các liêu, cho
nên tạng điện không còn lý do để tồn tại.
Tạng ty (藏司): chỉ liêu xá nơi tạng chủ trú ngụ và làm việc.
Tánh hỏa (性火) (S. 191): chỉ cho hiện tượng vật chất phổ biến
thể hiện trên tất cả các sự vật, đối lập với tánh hỏa là “Sự hỏa”,
tức là bốn hiện tượng vật chất cụ thể như đất, nước, lửa, gió.
Tăng đường (僧堂): là điện đường nơi các tăng chúng hằng
ngày tu Thiền khởi ngọa ăn uống, cũng còn gọi là vân đường,
tọa đường, tuyển Phật đường, Thánh tăng đường, khô mộc
đường. Tăng đường là một trong bảy đường già lam của
Thiền tông. Phàm người đã được ghi tên ở lại chùa Thiền
tông, tất phải y theo giới lạp mà an bài vị thứ để khi tọa
Thiền, khởi ngọa, ăn uống đều diễn ra ở tăng đường này.
Tăng đường là điện đường quan trọng nhất trong các đường
của chùa Thiền tông.
Tâm châu (心珠) (S. 367): tâm tính thanh tịnh, ví như hạt
minh châu.
Tẩm đường (寢堂): tẩm thất của trụ trì, là nơi trụ trì tiếp đãi
khách khứa, tăng chúng, liên quan đến việc công. Vì cách bố
trí có ba kiểu: a- Bố trí bên ngoài thất phương trượng. b- Thất
phương trượng chia làm 2 phòng lớn – nhỏ, tẩm đường bố trí tại
phòng lớn. c- Tại một gian của thất phương trượng (không nên
lầm lẫn là buồng ngủ của trụ trì).
Tẩm phân (祲氛): các thứ khí độc hại, bất thường, hay gây
ra dịch bệnh cho súc vật hoặc hoa màu.
Tân mệnh (新命): tức tân mệnh trụ trì, là trụ trì vừa mới nhận
mệnh lệnh làm trụ trì mà chưa đáo tân nhiệm làm việc.
Tân quải đáp (新掛搭): chỉ cho tăng nhân mới đến chùa
khác và vừa được cho ghi tên ký ngụ lâu dài.
Tẩn (擯) (S. 62): còn gọi là Tẩn trị, là một trong bảy loại
hình trị phạt Tỳ kheo gồm có 3 mức độ: 1. Tẩn xuất: áp dụng
cho Tỳ kheo phạm lỗi ở mức độ nhẹ, bị đuổi ra khỏi chùa,
đợi sám hối rồi mới cho phép trở lại. 2. Mặc tẩn: tất cả Tăng
chúng không ai được nói chuyện với người phạm lỗi. 3. Diệt
tẩn: áp dụng cho người phạm tội nặng không thể sám hối, bị
xóa bỏ tên họ, đuổi ra khỏi chùa, vĩnh viễn không được phép
trở về. Tẩn trong đoạn văn này thuộc về Tẩn xuất.
Tẫn xuất (擯出): lỗi nhẹ, tạm đuổi ra khỏi chùa chỉ cho trở
lại sinh hoạt trong tăng chúng khi đã sám hối.
Tập hóa quyền (戢化權): đây là lời nói khiêm chỉ việc trụ trì
qua đời. Hóa quyền là quyền tạm giáo hóa đệ tử, tức là chỉ
cho sinh hoạt bình sanh của trụ trì. Tập là gãy gập, đứt hết.
Vậy tập hóa quyền là gãy đứt công việc giáo hóa tạm thời
cho đồ chúng, tức là trụ trì qua đời.
Tây đường (西堂): là cao tăng đã từng làm trụ trì ở một chùa
khác, nay đã thoái vị khách cư tại bổn tự, cũng còn gọi là
Tây am, còn vị trụ trì tiền nhiệm tại bổn tự (tức nay đã thoái
nhiệm) thì gọi đối lại là Đông tự, Đông am. Do phương Đông
là phương chủ, phương Tây là phương khách, cho nên thỉnh
trụ trì miễn nhiệm ở chùa khác về bổn tự thì bố trí ở Tây tự,
và đối đãi như khách cho nên mới gọi là Tây đường.
Tây phương Thánh nhân (西方聖人): Chỉ đức Phật ở Ấn
Độ, tức đức Thích-ca Mâu-ni Phật, chứ không phải đức Phật
A Di Đà ở cõi nước Tây Thiên Cực Lạc.
Tây Vực (西域): thông thường chỉ vùng đất phía Tây của
Trung Quốc, nhưng trong lịch sử, Tây Vực không gồm một
phạm vi nhất định nào, và cải biến tùy theo từng thời kỳ, còn
trong lịch sử Phật giáo thì chỉ có các nước từ Ấn Độ qua
Trung Quốc mà theo đó Phật giáo Tây Thiên đã du nhập vào
Trung Quốc, cụ thể chỉ nước Đại Hạ và A Phú Hãn.
Tế Bắc (濟北): là từ Thiền lâm dùng để chỉ đại Thiền sư
Lâm Tế Nghĩa Huyền, bởi Nghĩa Huyền vào năm thứ 8 niên
hiệu Đại Trung từng trụ tại viện Lâm Tế ở Trấn Châu Hà
Bắc, cho nên mới có tên gọi như thế.
Tha duyên (他緣): thuật ngữ Phật giáo, nghĩa là có việc khác.
Thác đề (拓提): gọi đủ là thác đấu đề đồ, có nghĩa là tăng phường
tức chỗ chư tăng ở, về sau trở thành tên gọi khác của tự viện.
Thạch Song (石窻) (??) (S. 250): Thiền tăng đời Nam Tống, họ
Lâm, hiệu Pháp Cung, người Phụng Hóa, Minh Châu (nay là
Ninh Ba tỉnh Chiết Giang), là môn đồ của thiền sư Hoằng Trí
Thiên Đồng.
Thạch Sương (石霜) (S.233): ngài Khánh Chư cuối đời Đường,
họ Trần, người Lô Lăng. (nay là Kiết An, Giang Tây). Ngài đã
hoằng pháp một thời gian dài ở núi Thạch Sương, Trường Sa,
tỉnh Hồ Nam, nên lấy tên núi Ngài đã ở làm hiệu.
Thạch Sương Sở Viên (石霜楚圓): tăng nhân thời Tống
thuộc tông Lâm Tế đời thứ 6 (986 – 1029), họ Lý, tên Sở
Viên, tự Từ Minh, đệ tử nối pháp của Thiền sư Phần Dương
Thiện Chiêu, thị tịch năm Bảo Nguyên thứ 2 đời Tống Nhân
Tông, thọ 54 tuổi. Sau này phái của ngài Thạch Sương Sở
Viên chia ra 2 nhánh là Dương Kỳ và Hoàng Long.
Thái (thải) phiền (采蘩): tên thiên Thiệu Nam của Kinh thi.
Phu nhân các chư hầu Nam quốc đều trọn thành kính tế tự.
Phiền (蘩) là tên của một loài rau cỏ lá nhọn sắc. Từ “thái (thải)
phiền” về sau diễn rộng nghĩa chỉ lời nói khiêm cung khi cúng tế
(cũng có người cho chữ phiền (蘩) có nghĩa là con tằm).
Thái Định gian (泰定間) (S. 295): khoảng niên hiệu Thái
Định đời vua Thái Định Tông nhà Nguyên trị vì, tức năm
1324-1327 CN.
Tham (參): thuật ngữ Thiền tông do kẻ dưới nói với người
trên hàm ý: “Bọn mỗ ở đây sẵn sàng chờ lệnh?”, giống như
trong quân đội Pháp khi cấp dưới trình diện cấp trên chào
“cốp” thì nói to: “À votre service !”, có nghĩa là: “Sẵn sàng
thừa lệnh ngài !”.
Tham đầu (參頭) (40S): một chức vụ của tăng chúng trong
Thiền lâm, do một vị tăng thành thục về nghi lễ đảm trách
hướng dẫn quy cách lễ nhạc cho người bốn phương đến học,
đồng thời hướng dẫn người dự học tham gia các nghi thức cáo
hương thông dụng, gọi là Tham đầu. Người trợ lý cho Tham
đầu gọi là Phó tham. Người chờ để bổ sung vào vị trí này gọi
là Vọng tham, cũng chỉ người lanh lợi được các hành giả chờ
ghi tên ở lại bầu ra để quan hệ với chức sự trong chùa.
Tham đầu hành giả (參頭行者): là hành giả chịu sự sai
khiển của tham đầu.
Tham hậu (參後) (S. 360): sau giờ vãn tham hoặc phóng tham.
Tham thỉnh (參請): người học đạo cầu Thiền sư khai thị.
Tham ỷ (參椅)) (S. 354): ghế dựa để thiền sư ngồi khi có
người cầu học đến tham vấn. Chân của loại ghế này thường
làm bằng gỗ chéo nhau có thể xếp gấp lại.
Thán đầu (炭頭): Tên chức vụ coi về than củi vào mùa lạnh
trong thiền viện.
Thanh Lương tự (清涼寺) Chùa trên núi Trạm Lô huyện
Tùng Khê tỉnh Phúc Kiến, Trung Quốc; được xây dựng vào
niên hiệu Thần Long thứ 3 (707) đời Đường, để kỉ niệm Âu Trị
Tử, gọi là “Thượng Từ”. Niên hiệu Nguyên Phù thứ 2 (1099)
đời Tống chùa được mở rộng thêm, gọi là Trạm Lô Thiền Am.
Từ đó về sau trải qua nhiều đời đều có sửa sang. Niên hiệu
Tuyên Thống thứ 2 (1910) đời Thanh, chùa được xây dựng đại
quy mô, đến năm 1930 thì công trình hoàn tất, đổi tên là
“Thanh Lương Tự”. Điện trước thờ Phật Di-lặc, điện giữa thờ
thiền sư Tịnh Không, sau lưng thiền sư có thờ Bồ Tát Vi Đà.
Chùa nằm trên núi Thanh Lương, thành phố Nam Kinh tỉnh
Giang Tô, Trung Quốc, được xây dựng bởi ngài Từ Ôn, đời
Ngũ Đại, đầu tiên gọi là Hưng Giáo Tự. Đầu niên hiệu Thăng
Nguyên (937-942) triều Nam Đường chùa được đổi tên là
“Thạch Thành Thanh Lương Đại Đạo Tràng”, còn gọi “Thanh
Lương Báo Ân Thiền Viện”, gọi riêng là “Quảng Huệ Tự”.
Ban đầu do ngài Hưu Phục (Ngộ Không) ở, về sau Nam Đường
Chủ mời ngài Văn Ích, tổ tông Pháp Nhãn ở chùa này truyền
pháp, nên người đời gọi ngài là Thanh Lương Văn Ích. Sau đó
các Thiền sư Thái Khâm, Văn Thuý cũng trụ chùa này. Niên
hiệu Thái Bình Hưng Quốc thứ 5 (980) đời Tống, đem Thanh
Lương Quảng Huệ Tự ở núi Mạc Phủ dời về chùa này. Niên
hiệu Thuần Hựu thứ 12 (1252), dựng đình Thuý Vi trên núi.
Đầu đời Minh, Vua xuống chiếu đổi Thanh Lương Quảng Huệ
Tự thành Thanh Lương Tự. Về sau chùa bị thiêu huỷ bởi nạn
binh lửa, chỉ còn 1 giếng nước được đào từ niên hiệu Bảo Đại
thứ 3 (945) triều Nam Đường. Tương truyền chư tăng trong
chùa thường uống nước giếng này, dù tuổi già nhưng đầu
không bạc nên gọi là “Hoàn dương tỉnh”. Cuối đời Thanh, chùa
được xây cất lại cùng dạng kiến trúc nhưng thu nhỏ hơn. Trong
thời gian kháng chiến chùa bị huỷ hoại, rừng cây chung quanh
chùa bị đốn sạch. Sau khi dựng nước, chùa Thanh Lương từng
được sửa sang, núi Thanh Lương sau nhiều năm cấm khai thác
gỗ, trồng lại rừng đến nay cây cối xanh tươi rợp mát.
Thanh sắc (聲色): thanh là tiếng nói, còn sắc là hình tướng,
chỉ cho trạng thái hữu hình – hữu vi trong thế giới.
Thanh Văn giới (聲聞戒) (S. 342): chỉ cho giới luật của hàng
Tiểu thừa, Thanh văn là người xuất gia hành trì theo lời dạy
của đức Phật và lấy sự giải thoát tự thân làm mục đích.
Thánh đế đệ nhất nghĩa (聖帝第一義): đế là lý chân thực
bất hư, Thánh đế là một cảnh giới tịch tịnh mà các bậc Thánh
đều biết, hệ thuộc đại nghĩa căn bản của Phật pháp, cho nên
còn gọi là Thánh đế đệ nhất nghĩa, chân đế, là nghĩa thâm
sâu của cảnh giới xuất ly pháp thế gian.
Thánh Tăng (聖僧) (S. 55): tượng được đặt ở chính giữa
Tăng đường trong Thiền lâm gọi là Thánh Tăng, nhưng tượng
này là vị nào thì không nhất định. Các chùa theo Đại thừa
thường đặt tượng Văn Thù; Các chùa theo Tiểu thừa thường
đặt tượng Kiều-trần-như hoặc Tân-đầu-lô; Cũng có thể đặt
tượng đại Ca-diếp hoặc Tu-bồ-đề dùng chung cho cả Đại
thừa và Tiểu thừa.
Thánh tiết (聖節): lễ chúc mừng thiên thọ cho đương kim
Hoàng đế.
Thảo đơn (草單): là bản thông báo sơ sài chưa hoàn bị còn
được sửa chữa.
Thảo hạ (草賀): thảo là sơ sài, thảo hạ là chúc mừng sơ sài
qua loa.
Thảo phạn (草飯) (S. 284): bữa cơm đơn sơ đạm bạc.
Tháp đơn (插單) (S. 224): lúc mới vào thiền lâm, đem đơn
của mình đặt chung với đơn của chúng tăng gọi là Tháp đơn.
Đây chỉ cho vị Thủ tọa ở hậu đường đem đơn từ hậu đường ra
đặt ở Tiền đường.
Thần châu (神州): Lô Diễn đời Chiến Quốc gọi Trung Quốc
là Xích Huyện Thần Châu, người đời sau nhân đó gọi Trung
Quốc là Thần Châu.
Thập địa (十 地 ; skt: daśabhūmi) Mười quả vị tu chứng của
các vị Bồ tát. Có nhiều hệ thống khác nhau nhưng theo Bồ Tát
địa (菩 薩 地 skt: bodhisattva-bhūmi) và Thập địa kinh (十 地
經 skt: daśabhūmika-sūtra) thì Thập địa gồm: 1.Hoan hỉ địa (歡
喜 地; skt: pramuditā-bhūmi): Ðắc quả này Bồ tát rất hoan hỉ
trên đường Giác ngộ (bodhi). Bồ tát đã phát Bồ-đề tâm và thệ
nguyện cứu độ tất cả các chúng sinh thoát khỏi Luân hồi (saṃsā-
ra), không còn nghĩ tới mình, Bố thí (dāna) không cầu phúc và
chứng được tính Vô ngã (anātman) của tất cả các Pháp (dhar-
ma). 2. Li cấu địa (離 垢 地; vimalā-bhūmi): Bồ Tát giữ Giới
(śīla) và thực hiện thiền định (dhyāna, samādhi). 3. Phát quang
địa (發 光 地; prabhākārī-bhūmi): Bồ-tát chứng được qui luật
Vô thường (anitya), tu trì tâm Nhẫn nhục (kṣānti) khi gặp
chướng ngại trong việc cứu độ tất cả chúng sinh. Ðể đạt đến cấp
này, Bồ Tát phải diệt trừ Ba độc là tham, sân, si, thực hiện được
bốn cấp định an chỉ (dhyāna) của Bốn xứ và chứng đạt năm
thành phần trong Lục thông (abhijñā). 4. Diệm huệ địa (燄 慧 地
; skt: arciṣmatī-bhūmi): Bồ-tát đốt hết tất cả những quan niệm
sai lầm, tu tập trí huệ, Bát-nhã (prajñā) và 37 Bồ-đề phần (bo-
dhipākṣika-dharma). 5. Cực nan thắng địa (極 難 勝 地; skt:
Sudurjayā-bhūmi): Bồ Tát nhập định, đạt trí huệ, nhờ đó liễu
ngộ Tứ diệu đế và Chân như, tiêu diệt nghi ngờ và biết phân
biệt. Bồ tát tiếp tục hành trì 37 giác chi. 6. Hiện tiền địa (現 前
地; skt: Abhimukhī-bhūmi): Bồ tát liễu ngộ mọi pháp là vô ngã,
ngộ lí Mười hai nhân duyên và chuyển hóa trí phân biệt thành trí
bát-nhã, nhận thức tính Không. Trong xứ này, Bồ tát đã đạt đến
trí huệ Bồ-đề (bodhi) và có thể nhập Niết-bàn thường trụ
(pratiṣṭhita-nirvāṇa). Vì lòng từ bi đối với chúng sinh, Bồ tát lưu
lại trong thế gian, nhưng không bị sinh tử ràng buộc, đó là Niết-
bàn vô trụ (apratiṣṭhita-nirvāṇa). 7. Viễn hành địa (遠 行 地;
bt-nh, nh?n th?c tính Khơng. Trong x? ny, B? tt d d?t d?n
trí hu? B?-d? (bodhi) v cĩ th? nh?p Ni?t-bn thu?ng tr?
(prati??hita-nirva?a). Vì lòng từ bi đối với chúng sinh, Bồ tát lưu
lại trong thế gian, nhưng không bị sinh tử ràng buộc, đó là Niết-
bàn vô trụ (apratiṣṭhita-nirvāṇa). 7. Viễn hành địa (遠 行 地;
dūraṅgamā-bhūmi): đạt tới cảnh giới này, Bồ tát đầy đủ khả
năng, có mọi phương tiện (upāya) để giáo hóa chúng sinh. Ðây
là giai đoạn mà Bồ tát tùy ý xuất hiện trong một dạng bất kì.8.
Bất động địa (不 動 地; acalā-bhūmi): trong giai đoạn này,
không còn bất kì cảnh ngộ gì làm Bồ tát dao động. Bồ tát đã biết
lúc nào mình đạt Phật quả.9. Thiện huệ địa (善 慧 地;
sādhumatī-bhūmi): Trí huệ Bồ tát viên mãn, đạt Mười lực (daśa-
bala), Lục thông (ṣaḍabhijñā), Bốn tự tín, Tám giải thoát. Biết
rõ cơ sở mọi giáo pháp và giảng dạy giáo pháp.10. Pháp vân địa
(法 雲 地; dharmameghābhūmi): Bồ tát đạt Nhất thiết trí (sarva-
jñatā), đại hạnh. Pháp thân của Bồ tát đã đạt tới mức viên mãn.
Ngài ngự trên tòa sen với vô số Bồ tát chung quanh trong cung
trời Ðâu-suất. Phật quả của Ngài đã được chư Phật ấn chứng.
Những Bồ tát đạt cấp này là Di-lặc (maitreya), Quán Thế Âm
(avalokiteśvara) và Văn-thù (mañjuśrī).
Thập nhị nhân duyên ((十二因緣: Skt: dvadasanigapatitya-
samuttada), ý chỉ 12 loại nhân duyên sanh khởi, cũng còn gọi
là nhị lục chi duyên, thập nhị chi duyên khởi, thập nhị nhân
duyên khởi, thập nhị duyên sanh, thập nhị duyên môn, thập
nhị nhân sanh, tức 12 điều kiện cấu thành hữu tình sinh tồn,
đó là vô minh, hành, thức, danh sắc, lục xứ, xúc, thọ, ái, thủ,
hữu, sanh, lão tử.
Thập phương tự viện (十方寺院) (S. 96): còn gọi là Thập
phương sát, chỉ cho vị Trụ trì sau khi thối vị, không nhất thiết
phải do đệ tử của mình kế vị, mà có thể chọn một người có
đức hạnh ở các chùa khác kế thừa làm Trụ trì Tự viện.
Thất bảo sàng (七宝床): giường quí giá có nạm 7 thứ báu
vật trên thế gian là vàng, bạc, lưu ly, pha lê, xa cừ, xích châu,
mã não (hoặc cũng có cách tính khác).
Thất diệt tránh (七滅諍: Skt: adhikarana-samatha), là pháp
ngưng dứt tăng – ni tranh luận vô bổ, là một bộ phận trong cụ
túc giới mà tăng – ni thọ trì, nhân vì có 7 loại nên mới gọi là
thất diệt tránh.
Thất Phật (七佛): đó là 7 vị Phật trong quá khứ theo giáo
thuyết của bộ phái Phật giáo. Đó là các vị Phật : Phật Tỳ-bà-
thi, Phật Thi-khí, Phật Tỳ-xá-phù, Phật Câu-lưu-tôn, Phật
Câu-na-hàm-mâu-ni, Phật Ca-diếp, Phật Thích-ca Mâu-ni.
Thế duyên (世緣): nhân duyên của mỗi chúng sanh tại thế
gian, tức là sanh mạng của mỗi người.
Thế lễ (世禮): Nghi lễ của thế gian, tức của người thế tục.
Thế Tôn (世尊): là một trong 10 tôn hiệu của Như Lai, hàm
ý là được người cả thế gian tôn trọng, hoặc là chỉ cho người
được tôn trọng nhất trong thế giới. Từ “Thế Tôn” ở tiếng Skt
được biểu thị rất nhiều cách như loka-nàtha (thế chúa), loka-
jyestha (thế trung tối tôn giả), loka-vid (thế gian giải),
lokàdhipati (thế chi thắng giả), nàyaka (đại sư), sugata (thiện
thệ), mahà-rsi (đại tiên), mahà-vira (đại hùng giả), anuttara
(vô thượng sĩ), dharma-ràja (pháp vương).
Thế, xuất thế gian (世,出世間): tức chỉ tại thế gian và ra
khỏi thế gian. Thế gian Skt là loka, hàm nghĩa hủy hoại; hay
laukika, hàm nghĩa thế tục, phàm tục, lược dịch là thế, chỉ
cho tất cả mọi hiện tượng hữu lậu, hữu vi và tam giới phiền
não trói buộc. Xuất thế gian Skt là lokottana, gọi tắt là xuất
thế, Pàli là lokuttana, hàm nghĩa siêu xuất thế gian, tức là
pháp vô lậu giải thoát, xuất ly khỏi hữu lậu trói buộc. Nếu
đối chiếu thế gian với nghĩa thế tục thì xuất thế gian là Phật
pháp. Còn đối chiếu thế với nghĩa hữu lậu phiền não thì xuất
thế gian là giải thoát.
Thế, xuất thế pháp (世,出世法(S. 218): thếpháp và xuấ thế
pháp, chỉnhân tình thếsựvà thanh quy, đề lệcủ nhà Phậ.
Thi-la (尸羅): Skt: sila, bao hàm các nghĩ hành vi, tậ quán,
tính cách, đ?o đ?c kiề thành, kính cẩ.
Thị chân thị giả(侍真侍者) (S.171): Chân tức là tấm cha
dung của người đã mất, Thị chân thị giả tức Thị giả trông co
di ảnh của vị trụ trì đã mất gọi tắt là Thị chân. Sau khi m
táng xong thì đưa di ảnh của vị trụ trì đó vào bảo tháp, thôn
thường người trông coi bảo tháp đảm nhiệm công việc này.
Thị giả (侍者 S, P. Ante-vāsin) Chỉ cho vị tăng theo hầu bên
cạnh sư phụ hoặc bậc trưởng lão. Trong tùng lâm, chức vụ thị
giả thông thường do vị sa di lợi căn hoặc vị tỳ-kheo mà tuổi hạ
còn thấp đảm nhận, quan hệ giữa vị này và trưởng lão (hoặc Sư
phụ hoặc Trụ trì) rất gần gũi, ngoài việc xử lý các việc lặt vặt, vị
thị giả chẳng những sớm hôm nghe theo lời chỉ dạy, mà còn học
tập, quán xét về đạo đức của các ngài, cho nên được bậc trưởng
lão xem trọng và thường được coi là người kế thừa y bát hoặc
pháp tịch. Lại tùy theo chức vụ khác nhau, thị giả được chia làm
nhiều loại. Theo Thiền uyển thanh quy, thị giả được chia làm hai
loại là Nội thị và Ngoại thị. Còn theo Sắc tu Bách Trượng thanh
quy thì thị giả được chia làm năm loại: Thiêu hương thị giả:
Người ở bên cạnh vị Trụ trì để đốt hương, ghi chép các pháp ngữ
khi vị Trụ trì thượng đường, tiểu tham, phổ thuyết, khai thất,
niệm tụng, phóng tham. Thư trạng thị giả: Người thay thế Trụ trì
phụ trách việc thư tín qua lại và tất cả văn kiện trong Sơn môn;
Thỉnh khách thị giả (cũng gọi là Thị khách): Người phụ trách
việc tiếp đãi tân khách, nhưng chỉ tiếp những khách có mối quan
hệ với Trụ trì, còn khách về các việc khác thì do vị Tri khách
tiếp đãi; Thang dược thị giả (cũng gọi Thị dược): Trông coi việc
thuốc thang cho vị Trụ trì; Y bát thị giả (cũng gọi Thị y): Phụ
trách việc y bát và các đồ dùng của vị Trụ trì.
Thị tật (示疾): tăng lữ, nhất là các trụ trì bệnh nặng sắp qua
đời, được nói tránh đi là biểu hiện có chút bệnh.
Thị tịch (示寂): thuật ngữ Phật giáo chỉ các tăng lữ qua đời.
Thị triện (視篆) (S.130): xem dấu ấn của chùa, vì con dấu này
được khắc bằng thể văn chữ triện. Cho nên gọi là Thị triện.
Thị ty (侍司): phòng làm việc của thị giả trong chùa Thiền lâm.
Thiên bức luân tướng (千輻輪相: có tướng tốt ngàn dấu tròn
như bánh xe dưới lòng bàn chân, là một trong 32 tướng tốt của
đức Phật, cho nên cũng còn gọi là túc hạ luân tướng, túc hạ
thiên bức luân tướng, thường hiện thiên bức luân tướng, song
túc hạ hiện thiên thiên bức luân võng cốc chúng tướng.
Thiên hóa (遷化) (S.159): tên gọi khác của sự chết, Phật
giáo cho rằng tăng lữ thị tịch chỉ là sự di chuyển từ nơi này
đến nơi khác để hóa độ chúng sanh.
Thiên long (天龍) (S. 331): chư thiên và rồng thần. Thiên là
chỉ cho Phạm thiên, Đế thích v.v…
Thiên ma (天魔) (S. 320): chỉ cho ma vương khi đức Phật còn
tại thế tên là Ba tuần; dịch ý là “Chướng” vì nó có thể làm
chướng ngại sự tu hành.
Thiên Thai chỉ quán (天台止觀) (S. 366): chỉ cho Ma-ha Chỉ
Quán, kinh điển căn bản của tông Thiên Thai, do sơ tổ của
tông Thiên Thai là Trí Khải trước tác, chủ yếu nói về phương
pháp và hiệu quả của pháp môn tu tập viên đốn chỉ quán.
Thiên trọng (偏重): thiên lệch 2 bên, tức là có cái nhìn về
Thiền lý chệch choạc không chính xác.
Thiên Trúc (天竺): là tên gọi xưa của nước Ấn Độ, lại cũng
còn gọi là Thiên Bằng, Thiên Đốc, Thiên Độc, Thân Độc, tục
cho đấy là nước Nguyệt Chi, là quê hương của đức Phật. Thiên
Trúc chia ra Đông Tây Nam Bắc và Trung Thiên Trúc.
Thiền duyệt (禪悅) Niềm vui trong thiền định. Người vào thiền
định, tâm được tự tại an vui. Phẩm Tịnh hạnh trong kinh Hoa
nghiêm (Đại 9, 432 trung) nói: “Nếu khi thụ trai, nên nguyện
cho chúng sanh thiền duyệt là thức ăn, tràn đầy pháp hỉ”.
Thiền Nguyệt (禪月) (S. 233): thiền sư cuối đời Đường, tên
Quán Hưu, tự Đức Ẩn, họ Khương người Kim Hoa, có tài làm
thơ, giỏi thư pháp. Cuối đời đến đất Thục, được chúa đất
Thục họ Vương dùng lễ tiếp đãi, ban hiệu là Thiền Nguyệt
Đại Sư.
Thiền tịch (禪寂): trong lúc tọa thiền trừ bỏ mọi tạp niệm, tư
lự Phật nghĩa, cảnh giới tịch tịnh này gọi là thiền tịch.
Thiện Chiêu 善 昭 (947-1024) Thiền tăng đời Tống, họ Du,
người Thái Nguyên (Sơn Tây) Trung Quốc. Thuở nhỏ sư thông
minh trí huệ hơn người. Lúc 14 tuổi cha mẹ lần lượt qua đời,
sư bèn cắt tóc thụ giới cụ túc. Du phương khắp nơi, từng tham
phỏng 71 vị tôn túc thạc đức. Sư đến Thủ Sơn, Nhữ Châu (Lâm
Nhĩ, Hà Nam) tham kiến Thiền sư Tĩnh Niệm được đại ngộ,
nối pháp làm truyền nhân tông Lâm Tế. Đến khi Tĩnh Niệm
tịch, sư mới đáp ứng lời thỉnh của đạo tục Tây Hà, trụ trì Thái
Tử Thiền Tự, Thái Bình Tự ở Phần Châu (Phần Dương, Sơn
Tây) diễn nói tông yếu đem cơ dụng ba câu, bốn câu, ba quyết,
18 xướng v.v... tiếp dẫn kẻ học đạo, danh tiếng một thời. Ba
mươi năm thuyết pháp mỏi mệt, phong cách cao nhã, giới hạnh
tinh nghiêm. Mọi người cung kính ngưỡng mộ không dám kêu
tên mà chỉ gọi sư là “Thiền sư Phần Châu”. Thụy là “Vô Đức
Thiền sư”. Tác phẩm: Phần Dương Vô Đức Thiền sư ngữ lục.
Thiện nam tử (善男子) (S. 320): trong Phật giáo, người nam
tại gia hoặc xuất gia có lòng tin Phật được gọi là Thiện nam
tử, người nữ có lòng tin Phật thì gọi là Thiện nữ nhân.
Thiện nguyệt (善月): tháng giêng, tháng 5 và tháng 9 là 3
tháng trường trai trong năm. Vào những tháng này cấm chỉ
mọi chuyện giết mổ nấu nướng muông thú, phải trường trai
trọn tháng, làm việc thiện cho nên mới gọi là thiện nguyệt,
tức là tháng tốt lành.
Thiếp sấn (貼嚫): đối với tăng nhân có nhiều cống hiến đặc
biệt thì ngoài phần tài vật được bố thí chung như mọi người,
còn được phương trượng bố thí thêm gọi là thiếp sấn.
Thiết đặc vi vị (設特為位): đặc vi có nghĩa là đặc biệt thết
đãi vì ai đó. Trong Thiền lâm, thuật ngữ này chỉ cho những ai
được đặc biệt quản đãi. Thiết đặc vi là thiết trí tòa vị tức là
chỗ ngồi riêng cho người được quản đãi, trong ngữ cảnh bài
này thì thiết đặc vi vị là thiết trí chỗ ngồi cho chuyên sứ là
người được chùa quản đãi. Ngược lại với đặc vi vị là quang
bạn vị, tức là chỗ ngồi của những người tới quang lâm bầu
bạn cuộc lễ.
Thiết vi (鐵圍S. Cakravāḍa-parvata, P. Cakkavāḷa-pabbata) Cũng
gọi thiết luân vi sơn, luân vi sơn, kim cương sơn, kim cương vi
sơn. Thế giới quan Phật giáo lấy núi tu di làm trung tâm, chung
quanh có tám núi và tám biển bao bọc, dãy núi bao bọc ngoài
cùng được cấu tạo bằng sắt, cho nên gọi là Thiết vi sơn, tức dãy
núi phía ngoài Hàm hải bao bọc núi tu di và bốn châu.
Thiêu hương thị giả (燒香侍者): là một trong năm loại thị
giả ở Thiền viện, cũng còn gọi là thị hương (侍香). Người giữ
chức vụ này trong các pháp hội phụ trách ôm hộp hương (香
盒 cũng viết là香合) sẵn sàng đốt dâng trụ trì hay các bậc
tôn túc hành lễ niêm hương, cũng phụ trách luôn việc ghi
chép các buổi thượng đường, tiểu tham, phổ thuyết, niêm
tụng, tiết lạp của trụ trì. Riêng từ thiêu hương (燒香) ý chỉ đốt
hương trước tượng Phật, Bồ-tát hay các Tổ sư, cũng còn gọi
là niêm hương, nẫm (niệp) hương, phần hương, chú hương.
Thiêu hương để nghinh thỉnh Phật, Tổ, chư Tổ sư trong các
cuộc lễ.
Thiếu Thất gia phong (少室家風): gia phong là chỉ cho nếp
sinh hoạt riêng biệt của mỗi gia tộc, trong Thiền lâm là chỉ
cho giáo pháp độc đặc của mỗi tông phái. Thiếu Thất là tên
ngọn núi mà sơ Tổ Bồ-đề-đạt-ma đã ngồi 9 năm lặng yên
nhìn vách, về sau trở thành nơi phát tích của Thiền tông
Trung Hoa do sơ Tổ Đạt-ma trao truyền. Vậy Thiếu Thất gia
phong là chỉ cho Thiền pháp độc đặc của Bồ-đề-đạt-ma.
Thọ ký (授記; Skt: vyakarana, P: veyakarana), dịch theo âm
là Tì-da-khư-lợi-na, Hòa-la-na v.v… lại cũng gọi là thọ (授)
quyết, thọ (受) quyết, thọ ((受) ký, ký biệt, ký thuyết, ký, là
một trong 12 bộ kinh, một trong 9 bộ kinh (Nam tông), hàm ý
phân biệt, phân chiết, phát triển, vốn ban đầu chỉ phân chiết
giáo thuyết, hoặc dùng phương thức hỏi đáp mà giải thuyết
giáo pháp, sau chuyển nghĩa chỉ sở chứng của đệ tử hay chỉ
nơi sanh về sau khi chết. Về sau nữa, lại chuyển nghĩa xa hơn
là chỉ cho việc chứng quả đời sau hay lời tiên đoán danh hiệu
thành Phật.
Thoái tòa (退座) (S.106): sau khi kết thúc các nghi thức như
pháp hội, lễ bái từ nơi ấy trở về liêu xá gọi là Thoái tòa.
Thoái viện (退院): từ chức trụ trì, thường rời khỏi tự viện.
Thoát Hoan thừa tướng (脫歡丞相) (S. 295): Thoát Hoan
làm Tả thừa tướng kiêm nhiệm Hành tuyên chánh viện vào
năm Thái Định đời Nguyên. Ông họ Oát Thích Nạp Nhi, mất
vào đầu niên hiệu Trí Hòa (năm 1328). Đời Trần, Thoát
Hoan từng sang đánh Việt Nam và thua to.
Thổ địa đường (土地堂): theo tập quán tín ngưỡng của Việt
Nam, Thổ địa là một vị thần mà địa vị rất khiêm nhường,
trong nhà thì khám thờ tọa lạc tại xó nền, ngoài đồng hoang
dã thì ở dưới gốc cây. Tuy nhiên ở Trung Quốc thì thần Thổ
địa có địa vị không thua gì Thành hoàng ở nước ta, trong
chùa thì bàn thờ bố trí tại phía Đông chánh điện, ngang hàng
với Hộ pháp, Già lam.
Thù du trà (茱萸茶): trà thù du. Cây thù du có 2 loại: một loại
dùng làm thuốc; một loại dùng làm thức ăn.
Thuần-đà (純陀: Skt, P: Cunda). Lại cũng còn gọi là Chuẩn
Đà, Thuần (淳) Đà, Chu-na, là người thợ rèn ở thành Da-bà
thời Phật còn tại thế, là người cúng dường Phật sau cùng
trước khi Phật thị diệt, đó là nấm mèo cây chiên đàn. Kinh
Trường A-hàm cũng theo thuyết cúng dường nấm mèo, nhưng
kinh Niết Bàn thì cho Thuần-đà cúng cơm và thức ăn ngon.
Tuy nhiên các học giả phương Tây thời cận đại nghiên cứu
kinh đại Bát-niết Bàn chữ Pàli thì cho là Thuần-đà cúng
dường thịt heo (thời Phật tại thế không có chủ trương chay –
mặn, mà ai cho gì thì ăn nấy).
Thủ khánh (手磬): còn gọi là dẫn (引) khánh, là pháp khí
dùng đồng chế ra, hình dạng như cái chuông nhỏ, trên đầu có
núm, tác dụng là đánh lên để dẫn khởi tăng chúng chú ý
trong các pháp sự, cũng dùng để đánh lên lúc tăng nhân lâm
chung để dẫn khởi giác linh họ tăng thêm chánh niệm.
Thủ lô (手爐): lư hương nhỏ có 2 nắm tay để cầm cho chắc
khi xê dịch gọi là bính (tay cầm) hương lô hay thủ lô.
Thủ tọa (首座)) (S. 24): dựa theo nghĩa “nắm lấy giềng mối,
đứng đầu trong tăng chúng” mà gọi tên. Có ba loại tình
huống sau: 1. Tăng Quan do triều đình sắc phong, như: Tam
giáo Thủ Tọa, giảng kinh, giảng luận Thủ tọa” v.v… 2. Một
trong ba cương vị ở Tự viện, còn gọi là “Thượng tọa”. 3. Một
trong sáu vị Đầu thủ thuộc Tây tự ở Thiền lâm. Chức vụ này
được trình bày rõ trong đoạn văn sau ở “chương Lưỡng tự”.
Thuỳ thủ vị (垂手位): những người đối diện nhau trước mặt
người trụ trì gọi là thuỳ thủ vị.
Thủy đầu (水頭) Cũng gọi Thủy khán. Chức vụ phụ trách
gánh nước, đun nước cho đại chúng tắm gội trong tùng lâm.
Thư ký (書記): là tăng nhân giỏi chữ, trông coi việc viết
lách, nhất là viết sớ và ghi chép các sự việc quan trọng trong
chùa, là một trong lục đầu thủ của Tây tự.
Thư trạng thị giả (書狀侍者): thị giả chuyên viết thư trạng,
thiếp trạng thỉnh mời trong các cuộc lễ.
Thường trụ (常住) (S. 63): lấy theo nghĩa pháp không sanh
diệt đổi dời. Gọi tài sản, vật dụng của Tự viện và chư Tăng
là vật thường trụ, gọi tắt là thường trụ. Có 4 loại vật thường
trụ: 1. Những tài sản quan trọng như bất động sản và những
thành quả do sức lao động của người giúp việc và súc vật
làm ra, gọi là của thường trụ thường trụ. 2. Những thức ăn
thông dụng cúng cho chư Tăng mỗi ngày, Tăng chúng các
phương đều có thể chia phần, gọi là của thập phương thường
trụ. 3. Những tài vật riêng của Tăng Ni, gọi là của hiện tiền
hiện tiền. 4. Những tài vật của vị Tăng viên tịch để lại, có
thể chia cho Tăng chúng ở các nơi, gọi là của thập phương
hiện tiền. Đoạn văn này là chỉ hai loại đầu.
Thượng gian (上間): tức gian bên phải, bên mé Tây của tăng
đường.
Thượng hương (上香): thắp hương vào lư hương trước tượng Phật,
phép thượng hương có 2 cách là tuyến hương và đàn hương.
Thượng đường (上堂): nghi thức của Phật giáo gồm có hai: 1.
Lên pháp đường diễn giảng kinh pháp. Nghi này lại phân làm
các nghi nhỏ: Đán vọng thượng đường, Ngũ tham thượng
đường, Cửu tham thượng đường, Tạ bỉnh phất thượng đường,
Tạ đô tự thượng đường, Xuất đội thượng đường, Xuất sấn
thượng đường v.v… 2. Vào trai đường dùng cơm cháo. Ở đây
chỉ cho một trong những sự việc đã nêu ra ở trên.
Thượng thủ tri sự (上首知事): thượng thủ, skt là pramukha,
Pali là pamukha, là người có cương vị cao nhất trong đại
chúng ở một ngôi chùa, cũng chỉ cho vị thủ tọa.
Thượng thực (上食)): dâng cơm cúng, như dâng trà thang
thủy thì gọi là thượng trà thang.
Thượng tọa (上座) (S. 354): bao gồm nhiều nghĩa, ở đây chỉ
cho Thủ tọa ở các liêu trong thiền lâm. Còn là cách gọi tôn
kính thiền sinh trong thiền lâm.
Tì-lô-giá-na (毘盧遮那 ; skt: vairocana). Tên dịch âm của Ðại
Nhật Phật. Nghĩa là mặt trời, tượng trưng cho trí Phật rộng lớn
vô biên, là trí tuệ chính giác nhờ công hạnh u tập trải qua vô
lượng kiếp mà đạt được.
Tì-ni (毗尼): cũng còn được dịch là Tì-nại-da, tiếng Phạn
vinaya là chỉ cho Luật tạng.
Tỉ-kheo (比丘; Skt: bhiksu, P: bhikkhu), lại cũng còn gọi là
bí-sô, bị-xu, tỉ-hô, dịch theo ý là khất sĩ, khất sĩ nam, trừ sĩ,
huân sĩ, phá phiền não, bố ma v.v…, là một trong ngũ chúng,
chỉ người nam xuất gia đắc độ thọ giới cụ túc.
Tịch diệt (??: Skt: vyupasama, P: vupasama), gọi tắt là
diệt, tức ý chỉ độ thoát sanh tử mà vào cảnh địa vô vi thanh
tịnh. Cảnh địa này lìa xa thế giới mê hoặc, hàm ý chỉ khoái
lạc, cho nên mới có câu nói Tịch diệt là vui.
Tiền bản (前板) (S. 224): bên phải Tăng đường của Thiền lâm
(tức Tiền đường) treo bảng ra vào, bảng này nhằm thay thế cho
Tiền đường.
Tiền đại Trụ trì (前代住持) (S.131): gọi tắt là Tiền đại, là vị
trước đây đã từng làm trụ trì một lần.
Tiền đường Thủ tọa (前堂首座) (S. 56): gọi tắt là Tiền
đường, là vị Thủ tọa được phân công phụ trách phần trước
Tăng đường trong Thiền lâm.
Tiền tư (前資) (S. 97): vị Tăng trong Thiền lâm đã từng ba
lần đảm nhiệm các chức vụ Tri sự ở Đông tự, từ Phó tự trở
xuống sau khi nghỉ việc gọi là Tiền tư.
Tiễn điểm (煎點): nguyên có nghĩa là nấu trà điểm tâm, sau
chuyển nghĩa thành buổi điểm tâm trước buổi đãi trà, chuyển
rộng nghĩa nữa là mời dùng cơm, đó là nghĩa ở ngữ cảnh
trong bài.
Tiêu tai chú (消災咒): là một trong bốn Đà-ra-ni mà tùng
lâm sử dụng, mà cũng là pháp ngưng tai họa của Mật giáo,
cũng còn gọi là Tiêu tai cát tường chú, Tiêu tai chân ngôn,
Tiêu tai Đà-ra-ni, là thần chú tiêu trừ các loại tai họa, thành
tựu mọi việc tốt lành.
Tiểu sư (小師) (S. 92): có hai nghĩa: 1. Vị Tăng đã thọ giới cụ
túc chưa đầy 10 năm. 2. Cách xưng hô của đệ tử với sư phụ.
Tiểu tham (小參) (S. 28): trong thiền lâm, khi nghe thuyết
pháp vào ngày không định trước gọi là Tiểu tham. Vì thanh
quy ấn định ngày thuyết pháp theo định kỳ là “Đại tham” hay
còn gọi là Gia giáo, cho nên ngày thuyết pháp không theo
định kỳ gọi là tiểu tham.
Tiểu tham đầu (小參頭). Sau Tham đầu có Tiểu tham đầu.
Tinh tấn (精進) (S. 56): còn gọi là Cần, một trạng thái tinh
thần tu thiện đoạn ác mạnh mẽ.
Tỉnh Viện Đài Hiến (省院臺憲) (S.140): vị quan đứng đầu
của Thượng thư tỉnh và Tuyên chánh viện đời Nguyên.
Tịnh bình ((淨瓶) (S. 321): cũng gọi là Tháo bình, được làm bằng
đất nung, thường để đựng nước mang theo bên mình để rửa tay.
Tịnh Danh (??): còn gọi là Duy-ma (Skt: vimalakirti),
Duy-ma-cật, Tỳ-ma-la-cật, Vô Cấu Xưng, Diệt Cấu Minh, là
đệ tử tại gia ưu việt của Phật-đà, Trưởng giả ở thành Tỳ-xá-
ly tại Trung Ấn Độ. Tuy là tục lữ, nhưng Tịnh Danh lại rất
tinh thông giáo nghĩa Đại thừa, dẫu cho người xuất gia cũng
không bì kịp.
Tịnh đầu (淨頭) Cũng gọi Thanh đầu, Trì tịnh. Chức vụ coi về
việc quét tước nhà xí trong Thiền lâm. Người làm chức này đều
tự phát tâm đảm nhiệm công việc.
Tịnh độ (淨 土 ; skt: buddhakṣetra) nguyên nghĩa Phạn ngữ là
Phật độ, cõi Phật, cõi thanh tịnh; Trong Ðại thừa, người ta hiểu
mỗi cõi Tịnh độ thuộc về một vị Phật và vì có vô số chư Phật
nên có vô số Tịnh độ. Ðược nhắc nhở nhiều nhất là cõi Cực lạc
(skt: sukhāvatī) của Phật A-di-đà (skt: amitābha) ở phương
Tây. Tịnh độ phía Ðông là cõi Phật Dược Sư (skt: bhaiṣajyagu-
ru-buddha), có khi cõi đó được gọi là Ðiều hỉ quốc (skt: abhi-
rati) của Phật Bất Ðộng (skt: akṣobhya). Phía Nam là cõi của
Phật Bảo Sinh (skt: ratnasambhava), phía Bắc là cõi của Phật
Cổ Âm (skt: dundubhisvara). Ðức Phật tương lai Di-lặc (skt:
maitreya), là vị đang giáo hóa ở cõi Ðâu-suất (skt: tuṣita), sẽ
tạo một Tịnh độ mới. Tịnh độ được xem là »hóa thân« của thế
giới, là cõi xứ của người tu hành muốn được tái sinh. Muốn đạt
được cõi này, hành giả không phải chỉ trau dồi thiện Nghiệp
mà còn phải nguyện cầu các đức Phật của các cõi đó cứu độ
được tái sinh. Trong nhân gian, người ta thường hiểu Tịnh độ
là một nơi có vị trí địa lí nhất định, nhưng thật ra Tịnh độ là
một dạng của tâm thức giác ngộ, không bị ô nhiễm và các
phương hướng Ðông, Tây, Nam, Bắc chỉ có tính chất hình
tượng. Tịnh độ không phải là mục đích cuối cùng trên con
đường tu tập, chỉ là nơi được xem là cõi cuối cùng mà hành giả
phải tái sinh để rồi đạt Niết-bàn (Tịnh độ tông).
Tịnh nhân (淨人): Cũng gọi Đạo nhân, Khổ hạnh, Tự quan,
người thanh tịnh. Nghĩa là người chưa cạo tóc xuất gia, chỉ làm
các việc trong chùa viện. Từ Tịnh nhân bắt nguồn ở Ấn Độ.
Trong Thiền lâm, chức sự phục vụ cơm cháo ở Tăng đường;
hoặc vị hành giả trông nom về nhà tắm, cũng gọi là Tịnh nhân.
Tịnh Phạn vương (淨飯王): Tịnh Phạn (Skt: Suddhodana),
dịch âm là Thủ đồ đà na. Lại cũng gọi là Bạch Tịnh vương, là
chủ thành Ca-câu-la (Skt: Kapilavastu) ở Trung Ấn Độ. Ngài
là phụ vương của Thế Tôn. Con trai thứ của vương là Nan-đà
và cháu nội là La-hầu-la đều là đại đệ tử của Thế Tôn.
Tịnh pháp giới thân (淨法界身): pháp giới thân thanh tịnh.
Pháp giới thân là chỉ cho pháp thân của Phật, pháp giới là
cảnh sở hóa, tức là cõi chúng sanh. Thân là chỉ cho thân có
thể hóa độ chúng sanh, là thân của chư Phật vậy. Pháp giới
thân là thân Phật biến hóa ra làm lợi ích cho cõi chúng sanh.
Ở ngữ cảnh trong bài thì tịnh pháp thân là chỉ cho thân của sơ
Tổ Bồ-đề Đạt-ma.
Tịnh phát (淨髮Œ) (S. 360): chỉ cho việ cạ tóc củ chúng
tăg. Tăg chúng trong thiề lâm mỗ nử tháng cạ tóc mộ
lầ. Việ này đ thành nềnế.
Tịnh Từ tự (淨慈寺): Chùa ở núi Nam Bình, ngoại ô phía nam
huyện Hàng, tỉnh Chiết Giang, do vua nước Ngô việt là Tiền
hoằng thúc sáng lập vào niên hiệu Hiển đức năm đầu (954) đời
Hậu Chu. Ban đầu chùa có tên Tuệ nhật vĩnh minh, do ngài
Đạo tiềm ở Cù châu được rước đến làm vị tổ khai sáng thứ
nhất. Ngài Đạo tiềm định đúc tạo 18 pho tượng La hán, vua
chưa được biết việc này nhưng đã mộng thấy 18 người to lớn,
nên vua giúp sư hoàn thành chí nguyện tạo tượng và xây La
hán đường để thờ. Năm Kiến long thứ 2 (961) đời Bắc Tống,
ngià Đạo tiềm thị tịch, vua lễ thỉnh ngài Diên thọ chùa Linh ẩn
về trụ trì chùa này. Ngài Diên thọ trụ tại đây 15 năm, độ 1700
đệ tử, truyền giới bồ-tát cho 7 chúng, ngày đêm xưng niệm
hồng danh Phật A-di-đà 10 vạn tiếng, đức hóa thấm nhuần
khắp trong nước, người đời gọi sư là Vĩnh minh diên thọ. Nhà
vua xây điện Hương nghiêm để đền đáp chí nguyện của sư.
Đồng thời, sư soạn bộ Tông kính lục gồm 100 quyển, trong
khuôn viên chùa xây một tòa nhà gọi là Tông kính đài (cũng
gọi là Tông kính đường). Thời vua Tống thái tông, chùa được
đổi tên là Thọ Minh thiền viện, sau lại gọi là Tịnh từ tự.
Tỏa khám (鎖龕): trong đám tang trụ trì, sau khi liệm thây
vào quan tài quàn ở tẩm đường mà chưa đóng khóa nắp quan
tài, chỉ đậy nắp lại thôi thì gọi là cái quan (坐具). Khi nào di
quan ra pháp đường làm lễ đóng chặt nắp quan tài lại bằng
đinh thì gọi là tỏa quan hay tỏa khám.
Tọa cụ (坐具; skt: nisidana, nisadana), là một trong sáu vật
của tỉ-kheo luôn mang theo mình, dịch theo âm là ni-sư-đàn,
ni-sư-đãn-na, dịch theo ý là tọa ngọa cụ, tọa y, thấn ngọa y,
tùy tọa y v.v… gọi tắt là cụ, dùng trải dưới đất hay trải trên
giường để ngồi lên. Tọa cụ hình chữ nhật bằng vải.
Tọa đường (坐堂) (S. 24): chỉ tòa ngồi ở Tăng đường.
Tọa tham (坐參) (S. 225): trước khi vãn tham, đại chúng tập
hợp ở nơi Tăng đường ngồi lắng tâm để đợi đến buổi vãn
tham gọi là Toạ tham.
Toàn thân nhập tháp (全身入塔) (S.174): toàn thể nhục
thân được đưa vào trong tháp.
Tổ đường (祖堂) (S. 55): tên căn phòng đặt tượng sơ Tổ Đạt
Ma trong chùa Thiền, còn gọi là Tổ Sư đường. Thông thường
ở đây là nơi đặt bài vị của các đời tổ sư quá vãng.
Tôn túc (尊宿) (S. 26): tiếng tôn xưng vị tăng lớn tuổi, đức cao
trong Phật giáo. Tôn chỉ cho đức cao, Túc chỉ cho tuổi lớn.
Tông nhãn (宗眼): cũng còn gọi là “chánh pháp nhãn”, chỉ
quan điểm tư tưởng cơ bản đại biểu cho một tông phái.
Tông phong (宗風): là môn phong tu hành cá biệt của một
người hay một môn phái trong Thiền lâm.
Tông truyền trực chỉ (宗傳直指) : đây là Tông chỉ truyền
riêng ngoài giáo, chỉ thẳng tâm người, thấy tánh thành Phật của
Thiền tông Trung Hoa do sơ Tổ Bồ Đề Đạt Ma truyền thụ.
Tống Lý Tông (理宗) (S.152): vị hoàng đế triều đại Nam
Tống, họ Triệu tên Quân, trị vì vào các năm 1224 đến 1264 CN.
Tổng trì môn (總持門) (S. 332): nghĩa là pháp môn tổng trì,
là giữ điều thiện không cho mất, ngăn điều ác không cho
khởi lên. Tổng trì môn tức là pháp môn tổng trì, còn là tên
khác của Mật tông.
Tốt-đỗ-ba (窣覩波): là dịch âm của từ Skt stupa, có nghĩa là
cái mộ tháp, Pàli là thùpa, cũng còn dịch theo âm là tốt-đỗ-
bà, tốt-đô-bà, tẩu-đầu-bà, lược dịch là đâu-bà, Phật-đồ, phù-
đồ, Phật-đỗ, dịch theo ý là chỗ cao hiển, công đức tụ, phương
phần, viên trũng v.v…
Trà đầu (茶頭): Chức vụ phụ trách việc trà nước trong thiền
lâm. Tất cả việc dâng trà cúng Phật, pha trà cho chúng tăng
hoặc để mời khách đều do vị trà đầu phụ trách.
Trà thang (茶湯): Nước trà và nước nóng. Trong Thiền tông,
khi vị tân Trụ trì làm lễ nhập tự thì thường có nghi thức châm
trà thang, trước pha trà, sau châm thang (nước nóng).
Trà-tỳ (茶毘 P. jhāpeti) Cũng gọi: Đồ-tỳ, Xà-tỳ, Xà-ty, Da-duy.
Hán dịch: Phần thiêu. Thiêu đốt thi thể để giữ lại di cốt, một trong
các cách an táng người chết ở Ấn Độ. Hiện nay cách an táng này
cũng rất phổ biến tại các nước có nhiều tín đồ Phật giáo.
Trác ((卓): nghĩa như thỉnh mời.
Trai đường (齋堂): Nhà ăn của các tự viện Thiền tông.
Trai tăng (齋僧)) (S. 84): thiết bày thức ăn chay để cúng
dường Tăng chúng.
Trai thất (齋七) (S. 201): sau khi người đã chết, cứ 7 ngày cử
hành trai hội 1 lần, để siêu độ vong linh, cho đến ngày thứ 7
của thất thứ 7 thì dừng, những trai hội này gọi là Trai thất.
Trang chủ (莊主): Cũng gọi là Đô trang. Chức vụ trong Thiền
lâm trông coi các việc về đất đai, ruộng vườn của chùa, như
xem xét ranh giới, sửa chữa trang trại, an ủi trang điền (cũng
gọi Trang khách, Địa khách); tất cả việc nhò trong trang trại
đều phải tùy thời xử lý, còn đối với các việc trọng đại thì phải
thưa với vị chủ sự trong chùa để giải quyết.
Trân tu (珍羞): là thức ăn ngon lành, sang quí.
Trân trọng (珍重): thuật ngữ Thiền tông dùng để biểu thị lời
tạm biệt, thường là sau khi đại chúng đứng đã lâu nghe pháp
bây giờ thì giải tán.
Trần lao (塵勞) (S. 336): tên gọi khác của phiền não, vì các
phiền não làm ô nhiễm chân tánh, nhiễu loạn thân tâm nên
gọi là Trần lao.
Tri dục (知浴): cũng được gọi là Dục ti, Dục chủ; Là chức vụ
trông coi nhà tắm, nồi và than củi để nấu nước tắm. Một trong
sáu vị Đầu thủ của Tây tự trong Thiền lâm.
Tri điện (知殿): Cũng được gọi là Điện chủ, Điện ti; Chức vụ
trông coi các việc như hương hoa, dầu đèn, báo sái… trên điện Phật.
Tri hội (知會): mọi người cùng nhau họp bàn để phân công
giữ chùa khi trụ trì đi vắng.
Tri khách (知客) (S. 71): người phụ trách tiếp đãi khách
vãng lai, cũng gọi là Điển khách, Điển tân, là một trong sáu
Đầu thủ của Tây tự.
Tri sự (知事): cũng còn gọi là duy-na, duyệt chúng, dinh sự,
thọ sự (授), nhiệm sự, tri viện sự, quản lý tạp vụ của chư
tăng, trong đó quan trọng nhất là bảo hộ tài vật của chư tăng
nên phải lựa người thuận ứng nguyện vọng của chư tăng,
nghiêm trì giới luật, tâm công chính mà giao nhiệm vụ.
Trì phạm khai già (持犯開遮): trì tức là giữ gìn giới luật cả
ngũ giới lẫn cụ túc giới, phạm tức là vi phạm giới luật. Đây
là 2 trạng thái đối lập. Khai là mở thoáng, già là khép chặt
khắt khe hay nói cách khác khai là hàm ý cho phép, già là
hàm ý cấm chỉ, tức ý nói là trong giới luật khi thì cho phép,
lúc thì cấm chỉ. Giới pháp Tiểu thừa rất nghiêm, rất ít khi
đồng ý cho phép, còn giới pháp Đại thừa từ bi, lại hoạt dụng
nên thường đồng ý cho phép. Gộp chung 2 phong cách khắc
khe và phóng khoáng lại gọi là “trì phạm, khai già”.
Trị hóa (治化): tức là trị lý và giáo hóa, cũng gọi là lý hóa.
Truyện Lý Tiên sách Ngụy thư chép: “Thái Tổ hỏi Tiên rằng:
‘Trong thiên hạ thì sách nào tốt nhất để làm lợi cho thần trí
người dân?’, Tiên đáp: ‘Duy chỉ có Kinh Thư, Tam Hoàng, Ngũ
Đế, là điển tịch trị hóa có thể bổ ích cho thần trí của vua chúa’”.
Triển lễ (展礼): trải tọa cụ giập đầu lạy 3 lạy.
Triều âm (潮音): tức là hải triều âm, chỉ tiếng nói cực to,
như tiếng sóng biển vỗ, chỉ cho âm thanh ưu mỹ của Phật và
Bồ-tát, hoặc chỉ cho việc đại ứng hóa của Phật và Bồ-tát.
Trình tự ((呈似): trình lại y nguyên không thêm bớt, như cử
tự (舉似) là thuật kể lại y lời, đúng việc.
Trù ((籌sskt: salaka): một loại công cụ để tính nhân số, thông
thường được làm bằng trúc, gỗ, dày mỏng, dài ngắn phải thích
hợp. Trong thiền lâm thường dùng vật này để kiểm số người.
Trụ sơn (住山) (S.152): cách gọi đặc biệt của vị trụ trì.
Trụ trì (住持) (S. 18): nguyên nghĩa là ở lâu để hộ trì Phật
pháp. Ở Trung Quốc từ thời Nam Bắc Triều trở đi có một số
tự viện dùng Trụ trì để gọi tên chức vụ vị Tăng quản lý tự
viện. Đến đời Đường Trụ trì đã trở thành chức vụ cao nhất
trong chùa, được ứng dụng rộng rãi trong các tự viện địa
phương. Vào khoảng giữa đời Đường, Bách Trượng Hoài Hải
sửa đổi giáo quy thì “Trụ trì” đã trở thành chức Tăng cao
nhất ở tự viện Thiền Tông, lãnh đạo một phương và dần dần
đi vào quy củ. Sách này cho rằng trước Bách Trượng chưa có
danh xưng trụ trì là không chuẩn xác.
Trục nhất (逐一): nghĩa giống như nhất nhất, trục tiệm, tức
là theo tuần tự mà tiến hành.
Trục tùng thiên môn nhi xuất (逐從偏門而出): đuổi buộc
phải theo cửa hông mà ra khỏi chùa, có ý sỉ nhục.
Trung vi Đông cung (中闈東宮): trong hoàng cung, cung của
Đông cung Thái tử ở khoảng cửa giữa phía Đông, cho nên
trung vi Đông cung tức là Đông cung Thái tử.
Trùng dương (重佯):tết mồng chín thánh chín Âm lịch.
Trùng giá nguyện luân (重駕願輪): nguyện luân (xe
nguyện), nghĩa như nguyện thuyền (thuyền nguyện), là lời thệ
nguyện của Phật và Bồ-tát muốn độ trọn chúng sanh qua bờ
giải thoát bên kia. Vậy trùng giá nguyện luân là lại cỡi xe
nguyện như Phật và Bồ-tát trước kia để độ tận chúng sanh.
Truy điệu ((追悼)): nghĩa tương đương như truy niệm, tức là lễ
đoái tưởng đến người đã qua đời mà thương tiếc xót xa. Ngày
nay, tang lễ các người danh tiếng đều có làm lễ truy điệu,
chủ yếu là nhắc lại công lao và đạo đức của người qua đời
mà thương tiếc.
Truy tu (追修) (S. 201): vì người chết mà tu tạo công đức.
Truyeàn xaù (傳舍) (S. 308): nơi dành cho khách vãng lai thời
xưa dừng chân nghỉ lại qua đêm.
Trực bệnh (直病): luân phiên quan tâm, chăm sóc người bệnh.
Trực chỉ chi đạo (直指之道): tức là đạo pháp chỉ thẳng tâm
người, thấy tánh thành Phật do sơ Tổ Bồ-đề-đạt-ma truyền
thụ cho Thiền tông Trung Quốc.
Trực điện (直殿): Người quản lí điện đường trong tự viện.
tạng điện 藏殿 chỉ cho ngôi nhà bao gồm kinh tạng (kinh
đường) và khán kinh đường. Kinh tạng là nơi cất giữ kinh điển
có thờ tượng Phật, do đó cũng là tụng vào dịp lễ chúc thánh
hoặc theo thỉnh nguyện của thí chủ. Còn khán kinh đường là
nơi đại chúng đến đọc đại tạng kinh. Đến thời Nam Tống thì
nghi thức tụng kinh được cử hành trên Phật điện, còn việc đọc
tụng kinh tạng thì chúng tăng đưa về các liêu, cho nên tạng
điện không còn lý do tồn tại. Bởi vậy thiền tông Nhật bản vốn
truyền thừa tử triều đại Nam Tống, tuy có tên gọi tạng chủ và
tạng điện nhưng đã mất đi ý nghĩa nguyên thỉ mà chỉ còn là
hữu danh vô thực.
Trực đường (直堂): Chỉ cho chức vụ luân phiên giữ Tăng
đường trong các thiền viện, chuyên trông coi chăn mền, y bát
của đại chúng.
Trực sảnh (直廳): trong chùa Thiền lâm luôn luôn phân
công người trực sảnh đường gọi là trực sảnh.
Trực tuế (直歲): Chỉ cho chức vụ đảm nhiệm công việc trong
một năm tại các chùa viện thuộc Thiền tông, là một trong sáu
vị Tri sự. Trực tuế vốn là một chức vụ phụ trách việc tiếp
khách Tăng, nhưng trong thiền môn thì chức này trông coi tất
cả công việc, là một chức vụ quan trọng. Về sau dần dần chỉ
cho người trông nom công việc trong một tháng, nửa tháng,
hoặc 1 ngày, cho đến thời gian không hạn định.
Trừu bị ((抽被): bị là vật bằng vải trải bên cạnh chỗ ngồi lúc
tham thiền. Trừu bị là dỡ bỏ tấm vải trải ngồi thiền ở tăng
đường, hàm nghĩa là rời khỏi chùa, nghĩa tương đương với từ
“trừu thiền”.
Trừu giải (抽解) (S. 360): giữa giờ ngồi thiền, ra khỏi Tăng
đường nghỉ giải lao, hoặc người mới đến chùa xin ở lại, về
liêu nghỉ ngơi trong giây lát đều gọi là Trừu giải.
Trừu hạ bản vị quải đáp (抽下本位掛搭): loại bỏ vị trí quải
đáp (cũng có thể hiểu là bôi tên trong danh sách) tức trừ bỏ
cương vị tăng chúng trong chùa.
Trường bản (長板): không có nghĩa là tấm bản dài mà là
đánh bản một hồi dài.
Trường Khánh nguyên niên (長慶元年): năm đầu niên hiệu
của Đường Mục Tông (821).
Trường liên sàng (長連床): loại giường dài liên tiếp nhau để
các tăng an nghỉ thể hiện tính cộng đồng sinh hoạt, bình đẳng
tiện nghi.
Trưởng lão (長老: Skt: sthavara, P: thera), chỉ bậc tu hành
tuổi lạp cao, tuổi đời lớn, trí đức đều ưu việt, còn gọi là
thượng tọa, thượng thủ, thủ tọa, kỳ niên, kỳ túc, lão cựu, lão
túc, Trưởng túc, trụ vị. Theo quyển 8 kinh Trường A Hàm thì
Trưởng lão có 3 loại: a- Niên kỳ Trưởng lão. b- Pháp Trưởng
lão. c- Tác Trưởng lão.
Tu-bạt-đà-la ((須跋陀羅: Skt: Subhadra, P: Subhadda), lại còn
gọi là Tô-bạt-đà-la, Tu-bạt-đà, Tu-bạt, Tẩu-ba-đầu-lân, dịch
theo ý là Thiện Hiền, Hảo Hiền, Thiện Hảo Hiền, là đệ tử sau
cùng nhận sự giáo giới của Phật Đà trước khi Ngài nhập diệt mà
đắc đạo. Khi đắc đạo, Tu Bạt đã 120 tuổi, người thông minh đa
trí nghe Phật thuyết Bát Thánh đạo bèn ngay đêm đó xuất gia
thọ giới, tịnh tu Phạm hạnh, đêm xuống không lâu đã thành A-
la-hán, rồi ngay trước mặt Phật diệt độ trước.
Tu-bồ-đề (須菩提) (S. 18): (skt: Subhuti), cũng dịch là Tu-
phù-đế, Tu-phù-đề, Tô-bộ-để v.v…, dịch ý là Thiện Hiện,
Thiện Kiến, Thiện Cát, Không Sanh v.v…, người thành Xá-
vệ, nước Câu-tát-la thuộc Ấn Độ cổ, dòng dõi Bà-la-môn.
Ngài cũng là một trong mười đệ tử lớn của Đức Thích-ca
Mâu-ni, nổi danh nhờ vào pháp biện chứng Chư pháp tánh
không nên được xưng là Giải không đệ nhất.
Tu vu (修圩) (S. 276): Vu là chỉ cái đê bao quanh ruộng đất ở
vùng trũng. Vùng Giang Hoài dùng đê bao quanh ruộng nên
gọi là Vu điền. Tu vu là chỉ cho việc tu bổ bờ ruộng.
Tuần liêu (巡寮) (S. 58): trụ trì đến Tăng đường tuần xét,
kiểm điểm xem Tăng chúng có tuân theo thanh quy hay
không, cũng để thăm viếng bệnh nhân, đồng thời để cho
những vị tăng trẻ trông thấy mà biết oai nghi nhà Phật, gọi là
tuần liêu.
Tuần quá (巡過) : tuần tra xem xét coi có gì sơ thất, lầm lẫn
(quá thất) không.
Tuần đường (巡堂) Chỉ cho việc các vị Trụ trì, Thủ tọa đi
kiểm điểm, xem xét Tăng đường trong thiền lâm. Tuần đường
có các loại sau: 1. Tuần đường của trụ trì: tức lúc nhập viện,
đán vọng trà, tọa thiền. 2. Tuần đường của đại chúng: tức khi
Tam bát niệm tụng. 3. Tuần đường của thủ tọa: tức khi tọa
thiền, đại tọa tham, kết chế. 4. Tuần đường của Duy na: tức vào
dịp Thánh tiết. 5. Tuần đường của Tham đầu: tức lúc quải đáp.
6. Tuần đường của Đô tự: tức khi Khố ty thang trà. 7. Tuần
đường của Tri sự: tức khi kết chế, đán vọng trà. 8. Tuần đường
của thỉnh khách thiêu hương: tức Phương trượng trà. 9. Tuần
đường của Sa di: tức lúc Tham đường. Trong đó, khi tọa thiền,
tuần đường của Trụ trì, Thủ tọa biểu thị ý nghĩa kiểm; khi
thánh tiết tuần đường của duy na biểu thị ý nghĩa báo cáo; khi
nhập viện, quải đáp, kết chế, tuần đường biểu thị ý nghĩa lễ
mừng; tuần đường lúc thang trà biểu thị ý nghĩa thỉnh tạ.
Túc chúng (肅衆): là hình thức xử phạt tăng chúng vi phạm
thanh qui trong chùa Thiền lâm. Các hình thức và nội dung
trong bài đã nói rõ, xin bổ sung là khi đuổi kẻ vi phạm thanh
qui ra khỏi cửa thì trước hết phải sao chép điều luật đuổi ra
khỏi chùa dán ở cổng, gióng 3 hồi trống lớn, sau đó dùng gậy
đánh đuổi ra khỏi cổng.
Túc sanh (宿生): nghĩa giống như túc thế, tức là đời trước
của mình.
Tuệ Chiếu (慧照) (1289-1373) Thiền tăng đời Nguyên, họ Ma,
tự Đại Thiên, hiệu Mộng Thế Tẩu, người xứ Vĩnh Gia (nay là
Ôn Châu, tỉnh Chiết Giang) Trung Quốc; nối pháp Thiền sư
Hối Cơ Hi Công. Sư trụ chùa Minh Khánh ở Lạc Thanh (nay
thuộc Chiết Giang). Tác phẩm: Huệ Chiếu ngữ lục.
Tung sơn Thiếu Lâm tự ((嵩山少林寺)): Tung sơn, còn gọi là
Tung Nhạc, Tung Can sơn, tọa lạc tại huyện Đăng Phong tỉnh
Hà Nam, là nơi mà vào năm Thái Hòa thứ 20 (495, có thuyết nói thứ 21 – 496) vua Ngụy Hiếu Văn Đế nhà Bắc Ngụy
(Hậu Ngụy, Nguyên Ngụy) đã cất chùa Thiếu Lâm cho tăng
nước Thiên Trúc là Thiền sư Phật Đà ở tu. Đây là ngôi chùa
mà vào năm 527 Bồ-đề-đạt-ma đã ngồi nhìn vách im lặng
trong 9 năm.
Tùng lâm (叢林) (S. 28): Tăng, tục hòa hợp cùng ở một nơi,
giống như cây cối mọc nhiều thành rừng, nên gọi là tùng lâm,
còn chỉ riêng cho Tự viện Thiền tông. Bởi vì “Thiền” hàm
nghĩa là rừng công đức.
Tùng Nguyên (松源) (S. 242): đệ tử của ngài Mật Am Hàm
Kiệt, tên Sùng Nhạc, tự Tùng Nguyên, họ Ngô, người Long
Tuyền tỉnh Chiết Giang. Trước sau, Ngài đã trụ trì các chùa
Linh Ẩn ở Hàng Châu, Linh Nham ở Tô Châu, giáo hóa làm
cho Phật pháp thịnh hành.
Tùy Khai Hoàng tam niên (隨開皇三年): niên hiệu Khai
Hoàng năm thứ 3 của Tùy Văn Đế (583). Tùy Văn Đế họ
Dương, tên Kiên, tiểu danh là Na La Đình. Dương Kiên giết
Trịnh Đế, tự lập mình làm Hoàng đế, sau bị con thứ là Quảng
thí sát lên ngôi, tức là Tùy Dạng Đế.
Tuyên sớ thiếp nhân (宣疏怗人): là tăng nhân thông thạo
chữ nghĩa có giọng đọc truyền cảm rõ ràng được chọn để đọc
sớ văn trong các buổi lễ Phật sự.
Tuyết Đậu (雪竇) (S. 233): thiền sư Trùng Hiển đời Tống, tự
Ẩn Chi, ở núi Tuyết Đậu, Minh Châu, (nay thuộc Ninh Ba, Chiết
Giang) nên có hiệu là Tuyết Đậu. Sau khi viên tịch, Ngài được
vua Tống Nhân Tông sắc ban hiệu Minh Giác Đại Sư.
Tư-mã-đầu-đà (司馬頭陀): Thiền tăng sống vào đời Đường,
họ Mã, là con cháu của danh thần Tư Mã Ý, không rõ nối pháp
ai và thuộc tông phái nào. Thuở bé, sư xuất gia ở Hành Sơn,
rặng Nam Nhạc thuộc Tương Nam. Về sau, sư vào chùa Vĩnh
An, núi Hoàng Long, phủ Long Hưng (nay ở phía tây bắc
huyện Vĩnh Tu, tỉnh Giang Tây), tu theo hạnh Đầu-đà. Sư giữ
chức Điển toạ trông coi nhà bếp, lo việc ăn uống cho đại
chúng. Nhân bố thí cơm thừa cho con linh quy, nên được con
vật này đền ơn khiến cho đôi mắt của sư rất tinh tường, trên
xem xét thiên văn, dưới biết rõ địa lý. Vì giỏi xem địa thế đất
đai nên được người thời ấy gọi sư là “Thần Nhãn Đầu-đà
Tiên”. Sư xem xét các núi ở Hồng Đô, rồi đến núi Bách
Trượng ở Phụng Tân ra mắt Thiền sư Đại Trí Hoài Hải, chỉ bảo
cho Điển toạ Linh Hựu đi đến trụ Quy Sơn tại Đàm Châu, Hồ
Nam. Theo lời sư thì đó là một vùng đất rất tốt để cất chùa,
khiến cho tông phong hưng thạnh. Quả nhiên, sau khi Thiền sư
Linh Hựu ở đấy, Ngài cùng với đệ tử là Huệ Tịch khai sáng
tông phái Quy Ngưỡng nổi tiếng một thời. Tương truyền sau
khi lựa chọn chỗ đất để làm sinh phần cho Thiền sư Hoài Hải,
sư thị tịch và được chôn ở núi Bách Trượng. Thiền sư Hoài Hải
sai người lập đền thờ và cúng tế cho sư. Tấm bảng treo ngang
trên đền thờ sư đề “Thần Nhãn Đầu-đà”. Hai hàng câu đối, mỗi
bên đề: “Sinh kí Hoàng Long”, “Tử quy Bách Trượng”. Theo
Vân Cư Sơn Chí.
Từ ấm (慈蔭): ấm (?) là bóng rợp che mát của cây to. Từ
ấm là bóng che từ bi của đức Phật đối với chúng sanh.
Từ đường (祠堂) (S.141): đền thờ trong chùa thiền, đặc biệt
được xây dựng để thờ tổ tiên của những đàn việt có công xây
dựng chùa.
Từ hàng (慈航): là thuyền từ do Phật và Bồ-tát dùng để đưa
chúng sanh qua biển khổ.
Từ Minh (慈明) (S. 250): tổ Sở Viên đời thứ sáu của Tông
Lâm Tế vào đời nhà Tống. Ngài họ Lí, người Toàn Châu,
tỉnh Quảng Tây.
Tứ ân (四恩): bốn ơn, có 4 cách tính: a- Ơn mẹ, ơn cha, ơn
Như Lai, ơn pháp sư thuyết pháp. b- Ơn cha mẹ, ơn chúng
sanh, ơn Quốc vương, ơn Tam bảo. c- Ơn chư sư trưởng, ơn
cha mẹ, ơn Quốc vương, ơn thí chủ. d- Ơn thiên hạ, ơn Quốc
vương, ơn tôn sư, ơn cha mẹ.
Tứ ba-la-di (四波羅夷) : Skt là Catvarah parajikà dharmah,
gọi là tứ di pháp, chỉ cho tỉ-kheo nên tránh xa 4 trọng tội căn
bản, đó là đại dâm, đại đạo, đại sát, đại vọng ngữ.
Tứ chúng (四衆: Skt: catasrah-parsadah, P: catasso-parisa),
chỉ cho 4 loại đệ tử hình thành nên giáo đoàn Phật giáo.
Cũng còn gọi là tứ bối, tứ bộ chúng, tứ bộ đệ tử, gồm tỉ-kheo,
tỉ-kheo-ni, ưu-bà-tắc, ưu-bà-di; hoặc chỉ riêng 4 loại đệ tử
xuất gia là tỉ-kheo, tỉ-kheo-ni, sa-di-, sa-di-ni.
Tứ đại (四大) (S. 366): 1. Chỉ cho đất, nước, lửa, gió. Phật giáo
cho rằng 4 nguyên tố cơ bản này đã cấu tạo nên thế giới. 2. Chỉ
các yếu tố cấu tạo nên cơ thể của con người như: tóc, lông,
móng, răng, da, thịt, xương, nước mắt, nước mũi, máu v.v…
Tứ đại bộ châu (四大部洲): bốn đại bộ châu là Đông Thắng
Thần châu, Nam Thiệm Bộ châu, Tây Ngưu Hóa châu, Bắc
Câu Lư châu. Bốn châu này ở 4 phía của núi Tu-di.
Tứ đại bộ kinh (四大部經): Thiền lâm lấy 4 bộ kinh Hoa
Nghiêm, Bảo Tích, Bát Nhã, Niết Bàn làm Tứ đại bộ kinh.
Nếu so sánh với tất cả mọi bộ kinh được gọi là Đại tạng kinh
thì 4 bộ đại kinh này gọi là tiểu tạng.
Tứ đế (四諦): đế (Skt: stya, P: Sacca), có nghĩa là thẩm xét chân
thực không hư dối, tức chỉ khổ, tập, diệt, đạo, 4 chân lý chính xác
không nhầm lẫn. Lại do 4 chân lý này chân thực không hư dối
nên cũng gọi là Tứ chân đế, lại cũng do Tứ đế này là tri kiến
của bậc Thánh nên cũng còn gọi là Tứ Thánh đế.
Tứ hướng (四向) (S. 326): nhân vị để đạt đến quả vị nào đó
được chia làm 4 loại: Dự lưu hướng, Nhất lai hướng, Bất hoàn
hướng và A-la-hán hướng, gọi chung là tứ hướng.
Tứ liêu (四寮) (S. 91): ở đây là tên khác của Mông đường.
Nhân xưa kia có 4 vị danh Tăng từng ở Mông đường, người đời
sau vì ngưỡng mộ các Ngài nên gọi Mông đường là Tứ liêu. Tứ
liêu còn dùng để chỉ chung cho Thủ tọa, Duy na, Tri khách,
Thị giả. (Xin xem đoạn văn sau “chương Vong Tăng”).
Tứ sanh (四生): chúng sanh có 4 cách ra đời là sanh từ trứng,
sanh từ thai, sanh từ ẩm thấp và sanh từ hóa. Bốn từ này khái
quát cũng chỉ cho hình thái của tất cả mọi sanh mạng.
Tứ Thánh (四聖): đó là đức Phật A-di-đà, Bồ-tát Quán Thế
Âm, Bồ-tát Đại Thế Chí, Bồ-tát Đại Hải Chúng.
Tứ tiết báo lễ (四節臘): còn gọi là tứ đại tiết báo lễ, là 4
ngày lễ lớn trong năm báo ơn Phật: kiết hạ, giải hạ, đông chí,
nguyên đán.
Tứ tiết lạp (四節臘) (S. 28): bốn ngày lễ lớn của Thiền lâm
do ngài Hoài Hải quy định: 1. Kiết hạ: Lấy ngày 16 tháng 4
âm lịch làm ngày mở đầu cho việc an cư.2. Giải hạ: Lấy
ngày 15 tháng 7 âm lịch làm ngày kết thúc việc an cư. 3.
Đông Chí: (ngày 21 tháng 12 DL). 4. Nguyên đán: Ngày
mồng một tết (Nguyên đán).
Tứ trai nhật (四齋日): Thiền lâm lấy 4 ngày trong tháng là
mùng 1 (sóc), mùng 8 (thượng huyền), ngày rằm (vọng), ngày
23 (hạ huyền) làm 4 ngày trì trai gọi là tứ trai nhật. Trong
ngày này phải tụng kinh, trì giới để bòn phước đức.
Tứ trọng (四重) (S. 321): bốn trọng ân: ân cha mẹ, quốc gia,
đàn việt, Tam bảo.
Tự ấn (寺印): tức con dấu của chùa khắc bằng chữ triện do
trụ trì nắm giữ, nhưng ngay cả trụ trì cũng không được dùng
con dấu cho chuyện riêng tư.
Tự gian liệt (字間列): tức là sắp hàng cách khoảng nhau đều
đặn như khoảng cách của các chữ trên trang giấy.
Tự pháp (嗣法) (S. 81): chỉ người đệ tử được Sư phụ truyền
trao sứ mạng kế thừa Phật pháp. Từ đời Tùy, Đường trở về
sau đồng thời với việc truyền trao Phật pháp, Sư phụ cũng
đem tài sản của chùa trao cho người kế thừa trông nom. Vị
đệ tử này, gọi tắt là Tự pháp, hoặc gọi là “Pháp tự”.
Tự pháp biệ n sự (嗣法辦事): tự pháp tức là đệ tử truyền
thừa của sư phụ. Tự pháp đệ tử đang giữ nhiệm vụ trụ trì tại
một chùa khác thì gọi là tự pháp biện sự.
Tự pháp sư (嗣法師) (S. 91): trong Thiền lâm gọi vị Hòa
thượng trao truyền pháp thống cho mình là Tự pháp Sư.
Tự tạ (叙謝): nói lời cảm ơn xã giao mọi người trong cuộc lễ.
Tự tánh (自性): Phật giáo cho rằng các pháp đều tự có tánh
không dời đổi, không sanh không diệt gọi là tự tánh.
Tự thoại (敘話): là nói lời thăm hỏi hàn huyên có tính cách xã giao.
Tự tứ (自恣) (S. 63): một loại nghi thức sám hối của Phật giáo.
Vào ngày kết thúc an cư kiết hạ, tức ngày 16 tháng 7 âm lịch,
mỗi vị Tăng đều nhờ tăng chúng nêu ra lỗi lầm của mình để cầu
sám hối trước đại chúng. Còn được dịch là “Tùy ý”, nghĩa là
những lỗi lầm được nêu lên theo ý kiến của người khác.
Tương kế trụ trì giả (相繼住持者): người kế nhiệm làm trụ trì.
Tướng (相): triều đình phong kiến có 2 chức vụ cao nhất phò
giúp cho Hoàng đế đó là tướng văn (相) và tướng võ (將).
Tuy nhiên bao giờ người đứng đầu trăm quan cũng là tướng
văn, gọi là tể tướng.
Tượng quí (像季): chỉ thời kỳ cuối cùng của thời tượng pháp.
Tượng pháp thuộc thời kỳ thứ 2 trong 3 thời kỳ chính, tượng
và mạt pháp, trạng huống vân hành giáo pháp cũng tương tự
như thời kỳ chánh pháp, cho nên mới gọi là tượng pháp, là
thời kỳ hữu giáo, là thời đại thi hành như pháp nhưng không
chứng quả. Tượng quí cũng được coi chính là mạt pháp vậy,
cho nên bài hậu tự kinh Tây Phương yếu quyết mới viết: “Ai
sanh ra và ở vào thời tượng quí thì cách Phật xa lắm !”.
Tỳ lệ (疵癘): cũng viết là (疵厲), chỉ sự tai hại, tai biến trong
đời, thường dùng để chỉ súc vật hoặc hoa màu bị dịch bệnh
do thời tiết trái nghịch bất thường.
Tỳ-lô-giá-na Phật (毗盧 遮那佛) (S. 56): danh hiệu Đức
Phật, dịch âm của Vairocana, còn dịch là Tỳ-lô-xá-na, Tỳ-lô-
chiết-na v.v…, thường được giải thích là cách gọi tôn kính
Pháp thân (tức chân thân) của đức Như Lai.
Tỳ-sa-môn Thiên vương [毗(毘)沙門天王]: là một trong bốn
vị Thiên vương vâng lệnh Đế Thích thiên tuần sát khắp 4 đại
châu thiên hạ, xem xét hành vi thiện ác của chúng sanh mà tâu
lên Đế Thích, cũng còn gọi là Đa Văn Thiên, là vị thần hộ
pháp của Phật giáo. Ở Thai tạng giới mạn-đạt-nã (mạn-đà-la),
thần đứng ở ngoài cửa mé trái phía Bắc của Kim Cang bộ
viện. Ở Kim Cang giới mạn-đạt-nã, thần đứng ở mé Tây là
chúa của các Dạ-xoa. Hình tượng của Thiên vương mặc giáp
trụ, tay phải cầm tháp, còn tay trái thì cầm gậy báu. Thác tháp
Thiên vương cũng là Tỳ Sa Môn Thiên vương.
Chia sẻ với bạn bè của bạn: |