các đồ biểu được thiết lập và đại chúng gặp gỡ chào
hỏi nhau xong, thì đem các đồ biểu đó trưng bày tại
xuyên đường. Đến ngày 12, sau giờ ngọ, Thị giả của
Duy-na thưa với Trụ trì, Lưỡng tự các liêu treo bản
tụng kinh, thông báo với đại chúng. Liêu nguyên lo
việc dọn quét các liêu phòng, chuẩn bị soạn thảo
thiệp mời (xem mẫu ở sau), rồi đem dán gian trái
trước liêu. Nội dung mời tôn chúng tất cả các liêu đến dùng trà nước, đồng thời công bố bản ghi chổ
ngồi của Tăng chúng. Trên bàn thờ đức Quán Thế
Âm đặt các phẩm vật cúng dường, các bàn hai bên
trang trí đài hương, lư hương và đuốc. Liêu nguyên
bảo người nấu thang thủy, rồi đích thân đem đến mời
Phương trượng, đồng thời lệnh cho Trà đầu chia
nhau mang đến các liêu. Khi phân phối xong, liêu
nguyên ra lệnh đánh bản nhỏ trong liêu, chuẩn bị
một toà thang thủy nhỏ, cũng treo bản đồ ghi chỗ
ngồi, đặc biệt là Liêu chủ, phó liêu, Lăng nghiêm
đầu, người soạn bình trà ly tách, và mời liêu trưởng
cùng quang lâm bầu bạn. Lúc đến nơi, Liêu nguyên
mời liêu trưởng thắp hương, rồi vái chào mời cắm
hương, kế đến mời trở về chổ an toạ. Lúc chuẩn bị
nước nóng xong, đánh bản trước liêu, liêu trưởng,
đại chúng vào phòng, mời Thị giả của Duy-na cùng
tham dự, sắp ngồi bên cạnh Liêu nguyên, đối diện với
liêu trưởng, còn đại chúng thì y theo Giới lạp sắp
ngồi bốn dãy bàn. Bấy giờ, liêu chủ, phó liêu chia
nhau đi đến các bàn chào hỏi mọi người, khi họ đi
vào, vái chào mời ngồi, khi họ đốt hương, vái chào
mời cắm hương. Bấy giờ hành giả đánh hai tiếng bản
trong liêu, người rót nước đã rót nước cùng khắp,
liền mời uống nước. Khi uống nước xong, đánh một
tiếng bản, thu dọn ly tách. Liêu trưởng đến trước lư
hương cảm tạ mọi người đã tham dự bữa đãi trà
nước. Thế rồi, hành giả đánh ba tiếng bản trước liêu,
mọi người giải tán. Lúc này, Lưỡng tự vào thiền đường, Thủ toạ, Đô tự
đều đốt hương, rồi đứng vào vị trí của mình, còn Liêu
nguyên thì đứng chờ ngoài cửa, bên phải, nghênh
đón Trụ trì vào thắp hương, rồi đưa đến vị trí ổn
định. Lúc này từ vị trí cuối cùng của tây tự, Liêu
nguyên bước ra thắp hương, lễ bái, còn vị chủ lễ thì
cử hành tụng chú Lăng nghiêm, rồi hồi hướng kết
thúc, và Liêu nguyên đưa tiễn Trụ trì rời khỏi thiền
đường. Buổi lễ ngày 12 tháng 7 cũng giống như vậy.
Mẫu thiệp mời:
[1151b13] Người giữa liêu là Tỷ-kheo mỗ có tổ chức
một tiệc trà đạm bạc vào chiều nay tại thiểm liêu,
kính mời tôn chúng các liêu bỏ chút thì giờ quí báu
về đây tham dự. Kính mong chư vị niệm tình, từ bi
quang lâm tham dự. Hôm nay ngày … tháng… người
giữ liêu là Tỳ kheo mỗ trân trọng kính mời.
Mẫu bì thư:
Trân trọng kính mời chư Tôn đức Thiền sư các liêu.
Người giữ liêu là Tỷ-kheo mỗ trân trọng kính mời.
*
* *
楞嚴會
[1151c02]四月十三日啟建。堂司預照大眾戒臘寫
圖見後。浴佛日諸圖帳俱同出鋪殿前。請書記製
疏語。維那先期擇有音聲者為楞嚴頭。引詣方丈
庫司問訊。皆請點心。維那光伴至期寫普回向偈
(偈見後乃真歇了禪師製)貼殿內左右柱上。有處
見成刻碑則掛牌。堂司行者隔宿報眾云(來晨粥罷
各俱威儀詣大殿啟建楞嚴會諷經)就掛諸寮諷經
牌。次日粥罷。候殿上排辦畢。覆兩序次覆住
持。自眾寮前鳴板。起巡廊鳴遍。鳴方丈板。住
持出。鳴庫堂前大板三下。鳴大鍾僧堂鍾殿鍾。
住持至佛前燒香上茶湯畢歸位行者鳴鈸。維那揖
住持兩序出班燒香(大眾無拜此舊規所載近時有。
謂大眾同展三拜。住持跪爐。並與聖節佛誕禮
同。不知何所祖述。原夫大眾拜與住持跪爐。宣
疏者以祝聖壽報佛恩。當嚴其禮以示特重。楞嚴
會乃祈保安居。於禮可殺。不若從舊為允)白佛宣
疏畢。楞嚴頭唱。楞嚴眾和畢。仍作梵音。唱念
經首序引畢。方舉呪。呪畢唱摩訶。眾和畢。維
那回向云(上來諷經功德。回向真如實際莊嚴無上
佛果菩提。四恩總報三有齊資。法界有清同圓種
智。十方三世一切云云)每日粥罷少歇。伺眾更
衣。堂司行者覆兩序。次覆住持。然後巡廊鳴板
各三下遍。住持出則鳴大板三下。不出則不鳴。
鳴僧堂鐘殿鐘不鳴大鐘。集眾諷呪畢。楞嚴頭舉
普回向偈。大眾同聲念。如遇旦望則祝聖壽。係
維那回向至七月(十三日。滿散禮同。但楞嚴頭唱
念呪尾之末章維那回向而散)。
普回向偈
[1152a01] 上來現前比丘眾諷誦楞嚴祕密呪
[1152a02] 回向護法眾龍天土地伽藍諸聖造
[1152a03] 三塗八難俱離苦四恩三有盡沾恩
[1152a04] 國界安寧兵革銷風調雨順民康樂
[1152a05] 一眾熏修希勝進十地頓超無難事
[1152a06] 山門鎮靜絕非虞檀信歸依僧福慧
[1152a07] 十方三世一切佛一切菩薩摩訶薩
[1152a08] 摩訶般若波羅密
[1152a09]疏語(啟建)金由淬礪之精其鋒莫挫。鏡
假鍊磨之瑩則照不昏。故先聖顯抑揚之機 為眾生
破微細之惑 。 摩登慶喜妙協冥權世尊文殊特彰
化軌闡一代教觀則有觀有教示密因修證而無證無
修明真見而息諸塵。空花無蒂居正定以制群動。
止水不波。顧末裔之何知。誦遺言而自警。伏願
促恒河沙劫為一念。 無間長期。 會十方剎土以
同居。咸成正覺(滿散)睠此林園宛爾祇桓精舍現
前海眾儼然一會靈山括大千於微塵融三 際於當
念。屬休夏之自恣。無犯無持。總萬象以交參。
孰凡孰聖。人人妙覺。剎剎毘盧示現千百億身超
越 五十七位。以指喻指之非指。指亦俱亡。似空
藏空而合空。空寧可餉為憐幼穉特獎愚蒙。遵遺
教以受持 。 賴安居之無障。伏願奢摩寂靜具足
諸塵勞門 大用繁興等入首楞嚴定。
LAÊNG NGHIEÂM HOÄI
[1151c02] Tứ nguyệt thập tam nhật khải kiến. Đường
ty dự chiếu đại chúng Giới lạp tả đồ (kiến hậu). Dục
Phật nhật chư đồ trướng câu đồng xuất phô điện tiền,
thỉnh thư ký chế sớ ngữ. Duy-na tiên kỳ trạch hữu âm
thanh giả vi Lăng nghiêm đầu, dẫn nghệ Phương
trượng, Khố ty vấn tấn. Giai thỉnh điểm tâm, Duy-na
quang bạn. Chí kỳ tả phổ hồi hướng kệ (kệ kiến hậu,
nãi Chân Hiết Liễu Thiền sư chế), thiếp điện nội tả
hữu trụ thượng. Hữu xứ kiến thành khắc bi tắc quải
bài. Đường ty hành giả cách túc báo chúng vân: “Lai
thần chúc bãi, các cụ uy nghi nghệ đại điện khải kiến
Lăng nghiêm hội phúng kinh”, tựu quải chư liêu
phúng kinh bài. Thứ nhật chúc bãi, hậu điện thượng
bài biện tất, phúc Lưỡng tự, thứ phúc Trụ trì. Tự
chúng liêu tiền minh bản, khởi tuần lang, minh biến,
minh Phương trượng bản. Trụ trì xuất, minh khố
đường tiền đại bản tam hạ, minh đại chung, Tăng
đường chung, điện chung. Trụ trì chí Phật tiền thiêu
hương, thượng trà thang tất, qui vị. Hành giả minh
bạt, Duy-na ấp Trụ trì, Lưỡng tự xuất ban thiêu
hương (đại chúng vô bái, thử cựu quy sở tải; cận thời
hữu, vị đại chúng đồng triển tam bái, Trụ trì quỵ lô,
tịnh dữ thánh tiết Phật đản lễ đồng, bất tri hà sở tổ
thuật. Nguyên phu đại chúng bái dữ Trụ trì quị lô
tuyên sớ giả dĩ chúc thánh thọ, báo Phật ân, đương
nghiêm kỳ lễ dĩ thị đặc trọng. Lăng nghiêm hội nãi
kỳ bảo an cư, ư lễ khả sái, bất nhược tùng cựu vi
duẫn). Bạch Phật tuyên sớ tất, Lăng nghiêm đầu xướng Lăng nghiêm, chúng hoà tất, nhưng tác Phạn
âm. Xướng niệm kinh thủ tự dẫn tất, phương cử chú.
Chú tất, xướng ma-ha, chúng hoà tất, Duy-na hồi
hướng vân: “Thượng lai phúng kinh công đức, hồi
hướng chân như thật tế trang nghiêm vô thượng Phật
quả bồ-đề, tứ ân tổng báo tam hữu tề tư, pháp giới
hữu tình đồng viên chủng trí, Thập phương Tam thế
nhất thiết vân vân.” Mỗi nhật chúc bãi thiểu hiết, tứ
chúng cánh y, Đường ty hành giả phúc lưỡng tự, thứ
phúc Trụ trì, nhiên hậu tuần lang minh bản các tam
hạ biến. Trụ trì xuất tắc minh đại bản tam hạ, bất xuất
tắc bất minh. Minh tăng đường chung, điện chung,
bất minh đại chung, tập chúng phúng chú tất. Lăng
nghiêm đầu cử phổ hồi hướng kệ, đại chúng đồng
thanh niệm. Như ngộ đán vọng tắc chúc thánh thọ, hệ
Duy-na hồi hướng, chí thất nguyệt (thập tam nhật,
mãn tán lễ đồng, đãn Lăng nghiêm đầu xướng niệm
chú vĩ chi mạt chương Duy-na hồi hướng nhi tán).
Phổ hồi hướng kệ:
[1152a01] Thượng lai hiện tiền Tỷ-kheo chúng
Phúng tụng Lăng nghiêm bí mật chú
Hồi hướng hộ pháp chúng long thiên,
Thổ địa Già-lam chư thánh tạo
Tam đồ bát nạn câu ly khổ,
Tứ ân tam hữu tận triêm ân
Quốc giới an ninh binh cách tiêu,
Phong điều vũ thuận dân khang lạc
Nhất chúng huân tu hy thắng tiến,
Thập địa đốn siêu vô nan sự
Sơn môn trấn tĩnh tuyệt phi ngu,
Đàn tín quy y Tăng phước huệ
Thập phương tam thế nhất thiết Phật,
Nhất thiết Bồ-tát ma-ha-tát.
Ma-ha bát-nhã ba-la-mật.
Sớ ngữ (khải kiến):
[1152a09] Kim do thối lệ chi tinh kỳ phong mạc toả.
Kính giả luyện ma chi oánh tắc chiếu bất hôn. Cố tiên
thánh hiển ức dương chi cơ vị chúng sinh phá vi tế
chi hoặc. Ma Đăng, Khánh Hỷ diệu hiệp minh quyền.
Thế Tôn, Văn Thù đặc chương hoá quỹ. Xiển nhất
đại giáo quán tắc hữu quán hữu giáo; thị mật nhân tu
chứng nhi vô chứng vô tu. Minh chân kiến nhi tức
chư trần, không hoa vô đế; cư chính định dĩ chế quần
động, chỉ thuỷ bất ba. Cố mạt duệ chi hà tri, tụng di
ngôn nhi tự cảnh. Phục nguyện, xúc Hằng hà sa kiếp
vi nhất niệm, vô gián trường kỳ; hội thập phương sát
độ dĩ đồng cư, hàm thành Chính giác (mãn tán).
Quyến thử Lâm Viên uyển nhĩ, Kỳ Hoàn tinh xá;
hiện tiền hải chúng nghiễm nhiên nhất hội Linh Sơn.
Quát đại thiên ư vi trần, dung tam tế ư đương niệm,
thuộc hưu hạ chi Tự tứ, vô phạm vô trì; tổng vạn
tượng dĩ giao tham, thục phàm thục thánh. Nhân
nhân diệu giác, sát sát Tỳ-lô. Thị hiện thiên bách ức
thân, siêu việt ngũ thập thất vị. Dĩ chỉ dụ chỉ chi phi
chỉ, chỉ diệc câu vong; tự không tàng không nhi hợp
không, không ninh khả hướng. Vi liên ấu trĩ đặc
tưởng ngu mông; tuân Di giáo dĩ thụ trì, lại an cư chi
vô chướng. Phục nguyện, xa ma tịch tĩnh, cụ túc, chư trần lao môn; đại dụng phồn hưng đẳng nhập thủ
Lăng nghiêm định.
PHAÙP HOÄI TUÏNG CHUÙ LAÊNG NGHIEÂM
[1151c02] Pháp hội này được cử hành vào ngày 13/4
ÂL. Đường ty căn cứ theo Giới lạp của đại chúng soạn
các đồ biểu (xem sau). Đến ngày lễ tắm Phật, đem các
đồ biểu ấy ra trưng bày trước chánh điện, và mời thư
ký soạn sớ văn. Trước hết, Duy-na chọn người có âm
thanh tốt cử làm Lăng mghiêm đầu rồi dẫn đến chào
hỏi Trụ trì, Khố ty; các vị này phải mời Lăng nghiêm
đầu điểm tâm với sự tham dự của Duy-na. Gần đến
ngày lễ, thư ký viết kệ hồi hướng (bài kệ này do Thiền
sư Chân Yết Liễu soạn- xem ở sau), rồi đem dán trên
các cây cột hai bên phải trái trong chánh điện. Thấy có
nơi khi chép xong, đem khắc vào bia; hoặc khắc vào
ván rồi đem treo lên. Đêm trước ngày cử hành lễ,
Đường ty thông báo với đại chúng rằng: “Ngày mai,
sau khi dùng cháo sáng xong, xin đại chúng mặc y phục
trang nghiêm, vào chánh điện để cử hành pháp hội
Lăng nghiêm”, rồi đem treo bản thông báo tụng Lăng
nghiêm tại các liêu. Đến ngày ấy, sau khi dùng cháo
xong, chờ trang trí ổn định trên chánh điện, thị giả của
Duy-na thưa với Lưỡng tự, kế đến trình lên Trụ trì, rồi
bắt đầu đánh bản trước liêu của đại chúng, đi dọc qua
hành lang thông báo. Khi dứt tiếng bản, lại đến đánh
bản ở liêu Phương trượng. Khi ấy Trụ trì rời khỏi
phòng, thị giả lại đánh bản lớn treo trước khố đường
ba tiếng, rồi đánh chuông lớn, chuông ở Tăng đường
và chuông trong chánh điện. Trụ trì đến trước điện Phật đốt hương, dâng cúng trà nước, trở về vị trí. Lúc
này thị giả đánh chập chõa, Duy-na rời khỏi hàng, đến
vái chào Trụ trì, Lưỡng tự, rồi đốt hương bạch Phật,
tuyên sớ (theo Thanh qui cũ thì lúc này đại chúng
không lễ bái, nhưng thời gian gần đây lại thấy đại
chúng lạy ba lạy, còn Trụ trì thì quì truớc lư hương,
giống như các ngày thánh tiết (ngày kỷ niệm chư Phật,
Bồ-tát) và lễ Phật đản. Không biết nghi thức này căn
cứ vào đâu? Thông thường khi đại chúng lễ bái và trụ
trì quì trước lư hương để xướng sớ là vào các dịp lễ
chúc thánh thọ, báo ân Phật, nhằm làm cho buổi lễ
trang nghiêm, biểu thị sự kính trọng đặc biệt. Còn pháp
hội Lăng nghiêm là nhằm cầu an, kỳ phứơc nên nghi lễ
này có thể giảm đi, không nhất thiết phải theo xưa mới
được. Khi duy-na bạch Phật tuyên sớ xong, Lăng
nghiêm đầu xướng tụng Lăng nghiêm từ bài tựa đầu trở
đi, đại chúng tụng theo. Lúc hết bài tựa lại bắt tiếp
phần chú bằng âm tiếng Phạn, đại chúng cũng tụng
theo, cho đến hết phần chú thì tụng Bát-nhã tâm kinh,
và cuối cùng Duy-na hồi hướng rằng: “Nguyện đem
công đức tụng kinh từ trước đến nay hồi hướng cho
chân như thật tế trang nghiêm, Phật quả Bồ-đề vô
thuợng, bốn ân đều báo đáp, ba cõi thảy huân triêm,
hữu tình khắp pháp giới đều thành tựu trí tuệ. Nam mô
Thập phương Tam thế Nhất thiết chư Phật…”
Hằng ngày, sau khi dùng cháo sáng xong, nghỉ một
lát, chờ cho đại chúng thay y, Thị giả Duy-na thưa
với Lưỡng tự, trình lên Trụ trì, rồi đi vòng đánh các
bản mỗi nơi ba tiếng. Nếu Trụ trì rời khỏi phòng đến
tham dự, thì đánh bản lớn ba tiếng; còn nếu không ra
khỏi phòng thì không đánh, mà chỉ đánh chuông ở
Tăng đường hoặc ở chánh điện, nhưng không đánh
chuông lớn. (Nếu vào các ngày thường từ 13/04 đến
12/07) khi đại chúng vân tập lên chánh điện tụng
kinh thì Lăng nghiêm đầu cử tụng chú Lăng nghiêm
và cử tụng kệ phổ hồi huớng, đại chúng đồng thanh
tụng theo. Nhưng nếu gặp các ngày mồng một và
rằm, thì có thêm phần chúc thánh thọ và việc hồi
hướng do Duy-na đảm trách. Còn ngày 13/07 thì
Lăng nghiêm đầu cũng xướng tụng chú Lăng nghiêm
nhưng đến khi hồi hướng thì do Duy-na đảm trách.
Kệ phổ hồi hướng:
[1152a01] Thượng lai hiện tiền chúng Tỷ-kheo
Phúng tụng Lăng nghiêm chú bí mật
Hồi hướng hộ pháp chúng Long thiên
Thổ địa Già-lam cùng các Thánh
Ba đường, tám nạn
lìa khổ luỵ
Bốn ân, ba cõi được thấm nhuần
Đất nước an ninh, chinh chiến tiêu
Gió hoà, mưa thuận, dân an lạc
Đại chúng cùng tu đều tiến bộ
Vượt lên mười địa chẳng khó gì
Sơn môn yên tịnh dứt lầm mê
Đàn tín quy y thêm phước tuệ
Mười phương ba đời tất cả Phật
Tất cả Bồ-tát Ma-ha-tát
Ma-ha Bát-nhã-ba-la-mật.
Sớ văn (tuyên đọc):
[1152a09] Gươm nhờ mài giũa tinh vi, mũi nhọn sắc
bén; kính do lau chùi tận lực, chiếu sáng không mờ.
Thế nên, các tiên Thánh hiện cơ phong bén nhạy, vì
chúng sinh phá mê hoặc tế vi.
Ma-đăng dùng chú thuật bắt A-nan; Thế Tôn sai Văn
Thù đi giải cứu.
Xiển dương giáo quán một đời: có giáo có quán; chỉ
rõ bí mật tu chứng: không chứng, không tu.
Chiếu chân kiến mà dứt trần ai, không hoa chẳng
vướng; nhập thiền định nhằm chế loạn tâm, nước
lặng sóng im.
Đàn hậu tấn làm sao biết được; tụng Di giáo để tự
răn mình.
Phục nguyện, gom Hằng sa số kiếp làm một niệm,
vĩnh viễn dài lâu; hợp quốc độ mười phương cùng
sống chung, đồng thành Chánh giác.
(Kết thúc) Mường tượng Lâm Viên còn đó: tinh xá Kỳ
Hoàn; tựa hồ hải chúng nghiễm nhiên: Linh Sơn một hội.
Thu đại thiên vào vi trần; hợp ba thời trong đương niệm.
Cầu chúc giải hạ Tự tứ, không phạm, không trì; gom
thâu vạn tượng giao thoa, ai phàm, ai thánh.
Người người diệu giác, cõi cõi Tỳ-lô; thị hiện nghìn
vạn ức thân, siêu việt năm mươi bảy vị.
Dùng tay chỉ trăng, tay đâu phải trăng, tất cả đều
phải bỏ; lấy không chứa không, chân không hiển
hiện, không ấy cũng nên quên.
Mong kẻ thơ ngây vâng Di giáo gắng thọ trì; khuyên
người mê muội nương an cư trừ chướng ngại.
Lại nguyện, xa-ma tịch tĩnh, đầy đủ pháp môn trần lao;
đại dụng phát huy, đều nhập Lăng nghiêm chánh định.
*
* *
戒臘牌
[1152a27]堂司侍司眾寮預依戒臘寫造。至十四日
午後。堂司牌列僧堂前上間。侍司牌列法堂下
間。眾寮牌列寮內。各備香几爐燭供養。大眾各
炷香展拜畢。仍各收牌掛起。
GIÔÙI LAÏP BAØI
[1152a27] Đường ty, thị ty, chúng liêu dự y Giới lạp
tả tạo. Chí thập tứ nhật ngọ hậu, đường ty bài liệt
tăng đường tiền thượng gian, thị ti bài liệt pháp
đường hạ gian, chúng liêu bài liệt liêu nội, các bị
hương kỷ lô chúc cúng dường. Đại chúng các chú
hương triển bái tất, nhưng các thu bài quải khởi.
BAÛNG KEÂ KHAI GIÔÙI LAÏP
[1152a27] Liêu Duy-na, phòng Thị giả, chúng liêu căn
cứ theo Giới lạp soạn bảng thông báo. Sau ngọ ngày
mười bốn, bảng thông báo của liêu Duy-na đem bày ở
gian phải trước Tăng đường; bảng thông báo của
phòng Thị giả đem dán gian trái của Pháp đường; bản
thông báo của liêu đại chúng đem dán trong liêu. Mỗi
nơi đều chuẩn bị hoa hương đèn nến cúng dường. Đại
chúng ai nấy đều đến thắp hương trải toạ cụ, đảnh lễ;
khi lễ xong, thu hồi lại các bảng thông báo ấy.
方丈小座湯
[1152b02]四節講行按古有三座湯。第一座分二
出。特為東堂西堂請首座。光伴第二座分四出。頭
首一出。知事二出西序勤舊三出。東序勤舊四出。
西堂光伴第三座位。多分六出。本山辦事。諸方辦
事。隨職高下分坐。職同者次之。首座光伴侍司預
備草圖。呈方丈議定。至日依名書照牌。午後備卓
袱。作一二三座。陳列寢堂下間。東西堂前堂首座
都寺係請客侍者。各詣寮觸禮拜請云。堂頭和尚請
今晚就寢堂。特為獻湯。餘頭首辦事名勝方丈客頭
行者請云。方丈和尚參前請就寢堂。特為獻湯。寢
堂釘掛排位。秉燭裝香畢。客頭行者覆侍者。次覆
方丈鳴鼓。初座客集侍者揖引。至住持前問訊依照
牌入位立定。燒香侍者請客侍者分往特為人前。巡
問訊揖坐已。復位並立。燒香侍者進前燒香。仍歸
位。與請客侍者同時轉身分巡問訊揖香。候鳴板二
下行湯遍。仍巡揖湯畢。燒香侍者進燒光伴香。鳴
板一下收盞鳴鼓五下退座。三座行禮並同。叢林以
茶湯為盛禮。近來多因爭位次高下。遂寢不講。住
持當力行之。江湖老成當力從臾之。庶將來知所矜
式云。
PHÖÔNG TRÖÔÏNG TIEÅU TOØA THANG
[1152b02] Tứ tiết giảng hành, án cổ hữu tam tòa
thang. Đệ nhất tòa phân nhị xuất, đặc vi Đông đường,
Tây đường thỉnh Thủ toạ quang bạn, Đệ nhị toà phân
tứ xuất: Đầu thủ nhất xuất; Tri sự nhị xuất; Tây tự
cần cựu tam xuất; Đông tự cần cựu tứ xuất, Tây
đường quang bạn. Đệ tam toà vị, đa phân lục xuất:
bổn sơn biện sự, chư phương biện sự, tuỳ chức cao hạ
phân toạ, chức đồng giả thứ chi, Thủ toạ quang bạn.
Thị ti dự bị thảo đồ, trình Phương trượng nghị định.
Chí nhật, y danh thư chiếu bài. Ngọ hậu bị trác phục,
tác nhất nhị tam tòa, trần liệt tẩm đường hạ gian.
Đông Tây đường tiền đường Thủ toạ, Đô tự hệ thỉnh
khách Thị giả, các nghệ liêu xúc lễ bái thỉnh vân:
“Đường đầu Hoà thượng thỉnh kim vãn tựu tẩm
đường, đặc vi hiến thang”. Dư đầu thủ biện sự danh
thắng Phương trượng khách đầu hành giả thỉnh vân:
“Phương trượng Hoà thượng tham tiền thỉnh tựu tẩm
đường, đặc vi hiến thang”. Tẩm đường đinh quải bài
vị, bỉnh chúc trang hương tất, khách đầu hành giả
phúc Thị giả, thứ phúc Phương trượng minh cổ. Sơ
toà khách tập, Thị giả ấp, dẫn chí Trụ trì tiền vấn tấn,
y chiếu bài nhập vị lập định. Thiêu hương thị giả,
thỉnh khách Thị giả phân vãng đặc vi nhân tiền, tuần
vấn tấn ấp toạ dĩ, phục vị tịnh lập. Thiêu hương Thị
giả tiến tiền thiêu hương, nhưng quy vị, dữ thỉnh
khách Thị giả đồng thời chuyển thân phân tuần vấn
tấn ấp hương. Hậu minh bản nhị hạ hành thang biến,
nhưng tuần ấp thang tất. Thiêu hương thị giả tiến
thiêu quang bạn hương, minh bản nhất hạ, thu trản,
minh cổ ngũ hạ thoái toà. Tam toà hành lễ tịnh đồng.
Tùng lâm dĩ trà thang vi thịnh lễ. Cận lai đa nhân
tranh vị thứ cao hạ, toại tẩm bất giảng, Trụ trì đương
lực hành chi, giang hồ lão thành đương lực tùng du
chi. Thứ tương lai tri sở căng thức vân.
TRUÏ TRÌ ÑAÕI THANG THUYÛ ÑÔN SÔ CHO ÑAÏI CHUÙNG
[1152b02] Việc này thực hiện vào bốn dịp lễ. Theo
Thanh quy cũ, việc đãi nước được chia làm ba cấp.
Cấp một gồm hai dãy, thết đãi Đông đường, Tây
đường mời Thủ toạ tham dự. Cấp hai chia làm bốn
dãy: dãy một Đầu thủ; dãy hai Tri sự; dãy ba cần cựu
của Tây tự; dãy bốn cần cựu của Đông tự, mời Tây
đường tham dự. Cấp ba phần nhiều chia làm sáu dãy:
các chức sự của bổn tự, các chức sự của các chùa
khác, tuỳ theo chức vụ cao thấp mà sắp đặt chỗ ngồi.
Nếu chức vụ tương đồng thì sắp ngồi kế nhau, mời
Thủ tọa cùng tham dự. Thị ty dự bị soạn thành đồ biểu
tam bộ, trình lên Trụ trì xem xong rồi quyết định. Đến
ngày đã định trước, lúc xế chiều, dựa vào tên mà viết
thành bản đồ chỗ ngồi. Sau đó chuẩn bị bàn lễ có phủ
khăn, sắp đặt thành ba toà tại gian trái của tẩm
đường. Thỉnh khách Thị giả đi đến các liêu Đông
đường, Tây đường, Tiền đường Thủ toạ, Đô tự đảnh
lễ, mời như sau: “Hoà thượng Đường đầu mời Ngài
chiều nay đến tẩm đường dự bữa đãi thang thuỷ”.
Ngoài ra, các vị khác như Đầu thủ, Biện sự, Phương
trượng của những Tùng lâm khác thì do khách đầu hành giả đi đến thỉnh mời như sau: “Phương trượng
Hoà thượng xin mời Ngài trước giờ ngồi Thiền chiều
nay đến tẩm đường dự bữa thết đãi thang thuỷ”.
Thế rồi, Khách đầu hành giả trang trí và sắp xếp vị
trí chỗ ngồi tại tẩm đường, đốt đèn nhang xong,
Khách đầu hành giả thưa với Thị giả để Thị giả trình
lên Trụ trì, rồi đánh trống. Khi khách mời sơ toà vân
tập, Thị giả chào hỏi, dẫn đến xá chào vấn an Trụ trì,
rồi dựa theo bảng ghi chổ ngồi mời vào vị trí ổn
định. Thị giả đốt hương và Thị giả mời khách lại chia
nhau đến trước từng người được mời chào hỏi rồi
mời ngồi, rồi về chổ cũ. Kế đến, hành giả đốt hương
tiến tới trước đốt hương, rồi cùng với Thị giả mời
khách chia nhau đến từng người vái chào, mời họ
cắm hương; đoạn, chờ nghe bản đánh hai tiếng, bưng
nước đến khắp mọi người, bèn đi rảo quanh mời
khách dùng nước. Khi khách dùng nước xong, Thị giả
bước tới đốt hương rồi đánh một tiếng bản, thu lại ly
tách, đánh năm tiếng trống báo hiệu kết thúc bữa tiệc
nước và giải tán. Cách hành lễ cả ba cấp đều giống
nhau. Tùng lâm lấy trà thang làm nghi lễ trang trọng,
nhưng gần đây do tranh nhau chỗ ngồi cao thấp mà
huỷ bỏ không thực hiện nữa. Trụ trì nên cố gắng thi
hành, và các Tôn túc ẩn cư và bậc tôn túc lão thành
cũng nên cố sức khuyên bảo. Thiết nghĩ, việc này
cũng nên nêu ra đây để người sau biết thể thức.
Mô hình bữa đãi nước đơn giản
Cấp 1: - chủ....... 1
- khách ... 2
Cấp 2: - chủ....... 3, 1
- khách ... 4, 2
Cấp 3: - chủ....... 3, 5, 1
- khách... 4, 6, 2
*
* *
四節土地堂念誦
[1152b28]凡遇節。先一日午後土地堂嚴設供養。
排香燭臺凡爐瓶。堂司行者報眾掛念誦牌。巡廊
鳴板與三八同。眾集相對雁立。住持先祖堂。次
大殿炷香三拜。鳴大板三下。鳴大鍾。住持至(大
眾俛首合掌為迎住持。侍者隨後。只當叉手而過)
燒香歸位。行者鳴鈸維那出揖班上香畢。念誦回
向(見後)。
四節念誦回向
[1152c05] 切以。薰風扇野。炎帝司方。當法王
禁足之辰乃釋子護生之日。恭裒大眾肅詣靈祠。
誦持萬德洪名。回向合堂真宰。所祈加護得遂安
居。仰憑大眾念云云。
[1152c09] 切以。金風扇野白帝司方。當覺皇解
制之辰是法歲周圓之日。九旬無難一眾咸安。誦
持萬德洪名。仰答合堂真宰。仰憑大眾念云云。
[1152c12] 切以。時臨亞歲節屆書雲。當一陽來復
之辰乃萬彙發生之始。恭裒大眾肅詣靈祠。誦持萬
德洪名。回向合堂真宰。仰憑大眾念云云。
[1152c15] 切以。化工密運歲曆云周。咸忻四序
之安。將啟三陽之慶。恭裒大眾肅詣靈祠。誦持
萬德洪名。回向合堂真宰。仰憑大眾念云云。上
來念誦功德回。向當山土地列位護伽藍神合堂真
宰。所冀。神功叶贊。發揮有利之勛。梵苑超
隆。永錫無私之慶。再勞尊眾念十方三世一切云
云四節並同。
TÖÙ TIEÁT THOÅ ÑÒA ÑÖÔØNG NIEÄM TUÏNG
[1152b28] Phàm ngộ tiết, tiên nhất nhật ngọ hậu, thổ
địa đường nghiêm thiết cúng dường, bài hương chúc
đài kỷ lô bình. Đường ty hành giả báo chúng quải
niệm tụng bài, tuần lang minh bản (dữ tam bát đồng).
Chúng tập, tương đối nhạn lập. Trụ trì tiên tổ đường,
thứ đại điện chú hương tam bái. Minh đại bản tam hạ,
minh đại chung. Trụ trì chí, đại chúng phủ thủ hợp
chưởng vi nghênh Trụ trì. Thị giả tuỳ hậu, chỉ đương
xoa thủ nhi quá, thiêu hương qui vị. Hành giả minh
bạt Duy-na xuất ấp ban thượng hương tất, niệm tụng
hồi hướng (kiến hậu).
Tứ tiết niệm tụng hồi hướng:
Chia sẻ với bạn bè của bạn: |