十九日渡江北。十一月二十三日屆于洛陽。當魏
孝明太和十年也。萬止于嵩山少林寺。面壁坐。
終日默然。人莫之測。謂之壁觀婆羅門。至太和
十九年丙辰歲十月五日端居而逝。其年十二月二
十八日葬熊耳山。起塔於定林寺。唐諡圓覺師。
塔曰空觀。
(SƠ TỔ BỒ-ĐỀ-ĐẠT-MA)
[1118a29] Tổ sư Nam Thiên Trúc quốc Hương Chí
vương đệ tam tử dã. Tính sát-đế-lợi, bổn danh Bồ-đề-
đa-la. Hậu ngộ nhị thập thất tổ Bát-nhã-đa-la Tôn giả
tri sư mật tích, nhân thí lệnh dữ nhị huynh biện sở thí
bảo châu, phát minh tâm yếu. Ký nhi Tôn giả vị viết:
“Nhữ ư chư pháp dĩ đắc thông lượng. Phù, đạt ma giả,
thông đại chi nghĩa dã, nghi danh Đạt-ma. Nhân cải
danh Bồ-đề-đạt-ma”. Sư nãi cáo Tôn giả viết: “Ngã
ký đắc pháp, đương vãng hà quốc nhi tác Phật sự?
Nguyện thùy khai thị!”. Tôn giả viết: “Nhữ tuy đắc
pháp, vị khả viễn du, thả chỉ Nam Thiên đãi ngô diệt
hậu lục thập thất tải, đương vãng Chấn Đán thiết đại
pháp dược, trực tiếp thượng căn, thận vật tốc hành,
suy ư nhật hạ”.
Lương Phổ Thông bát niên Đinh Mùi tuế, cửu
nguyệt, nhi thập nhất nhật chí Nam Hải. Quảng
Châu thứ sử Tiêu Ngang biểu văn Vũ Đế. Đế khiển sứ chiếu nghinh. Thập nguyệt nhất nhật chí Kim
Lăng dữ Đế ngữ bất khế. Thị nguyệt thập cửu nhật
độ Giang Bắc. Thập nhất nguyệt, nhị thập tam nhập
giới vu Lạc Dương, đương Ngụy Hiếu Minh Thái
Hòa thập niên dã. Ngụ chỉ vu Tung Sơn Thiếu Lâm
tự, diện bích nhi tọa, chung nhật mặc nhiên, nhân
mạc chi trắc, vị chi bích quán Bà-la-môn. Chí Thái
Hòa thập cửu niên Bính Thìn tuế, thập nguyệt ngũ
nhật đoan cư nhi thệ. Kỳ niên thập nhị nguyệt nhị
thập bát nhật táng Hùng Nhĩ sơn, khởi tháp ư Định
Lâm tự. Đường thụy Viên Giác đại sư, tháp viết
Không Quán.
(SƠ LƯỢC TIỂU SỬ TỔ BỒ-ĐỀ-ĐẠT-MA)
[1118a29] Tổ sư Bồ-đề-đạt-ma là con trai thứ ba
của vua Hương Chí nước Nam Thiên Trúc (Ấn Độ),
dòng dõi Sát-đế-lợi, vốn tên là Bồ-đề-đa-la. Sau
gặp Tổ thứ 27 là tôn giả Bát-nhã đa-la, biết mật
tích của sư bèn thử bảo cùng hai anh biện luận bảo
châu vua Hương Chí bố thí cho Tôn giả, phát minh
tâm yếu. Thế rồi Tôn giả bảo rằng: “Ông đối với
các pháp đã được thông lượng. Này, Đạt-ma có
nghĩa là thông đại, vậy nên đặt tên là Đạt-ma”,
nhân đó đổi tên lại gọi là Bồ-đề-đạt-ma. Sư bèn
bạch với Tôn giả rằng: “Con đã được pháp thì nên
đi đến xứ nào để làm Phật sự? Nguyện Tổ xót
thương mà khai thị!”, Tôn giả bảo: “Ông tuy đã đắc pháp nhưng không nên đi xa mà nên dừng lại ở Nam
Thiên Trúc. Đợi sau khi ta thị diệt 67 năm rồi hẵng
đến nước Chấn Đán (Trung Hoa) thiết lập thuốc
pháp to lớn để trực tiếp độ bậc thượng căn, chớ nên
gấp đi mà sẽ suy bại nơi Lạc Dương (nguyên văn
viết mí mửng Nhật hạ ẩn ý chỉ Lạc Dương”. Ngày
21 tháng 9 năm Đinh Mùi, nhằm năm thứ 8 niên
hiệu Phổ Thông nhà Lương (527), sư đến quận Nam
Hải (miền Nam Trung Quốc). Quan thứ sử Quảng
Châu là Tiêu Ngang dâng biểu tâu lên vua Vũ Đế
nhà Lương, đế sai sứ nghinh vời. Ngày mùng 1
tháng 10, sư đến Kim Lăng cùng đế trao đổi biện
luận, mà chẳng khế hợp. Ngày 19 tháng đó, sư qua
sông đi về phương Bắc. Ngày 23 tháng 11, sư đến
Lạc Dương [kinh đô nhà Bắc Ngụy (Nguyên Ngụy)]
gặp nhằm năm thứ 10 niên hiệu Thái Hòa đời Ngụy
Hiếu Minh Đế (486), dừng ngụ tại chùa Thiếu Lâm
ở Tung Sơn, quay mặt vô vách mà tọa Thiền, suốt
ngày lặng thinh, mọi người không suy lường nổi nên
gọi là ông Ấn Độ nhìn vách. Đến ngày mùng 5
tháng 10 năm Bính Thìn nhằm năm thứ 19 niên hiệu
Thái Hòa nhà Ngụy, sư ngồi ngay ngắn lặng yên mà
qua đời. Ngày 28 tháng chạp năm đó, đem an táng ở
núi Hùng Nhĩ, xây tháp tại chùa Định Lâm. Nhà
Đường thụy phong là Viên Giác đại sư, tháp tên là
Không Quán.
*
* *
百丈忌
[1118b20] 先期堂司率眾財營供養。至日隔宿如法
鋪設法堂。座上掛真。嚴設中間祭筵上下間几案
供具。當晚諷經正日散忌特為茶湯拈香宣疏。出
班上香大眾展拜(並同達磨忌禮)但無念誦。初夜
回向云(淨法界身本無出沒。大悲願力示有去來。
仰冀慈悲俯垂昭鑒。正月十七日。伏值百丈大智
覺照弘宗妙行禪師大和尚示寂之辰。率比丘眾營
備香羞。以伸供養。諷誦大佛頂萬行首楞嚴神
呪。所集殊勳上酬慈廕。伏願曇花再現。重開覺
花之春。惠日長明。永燭昏衢之夜。十方三世一
切云云)。
疏語
[1118b27] 一言為天下法中矩中規萬世知師道尊有
綱有紀。以儗叢林禮樂之盛。見法筵龍象之多華
梵同文富擬名渠天祿經律相濟嚴如金科玉條有布
武堂上之儀。非綿蕞野外之禮即此用離此用語脫
重玄出於機入於機理窮眾妙。宜配禪祖以陪祀。
盍遵諱日而營齋。伏願帝釋精進勝幢制諸魔外濟
北陰涼大樹蔭滿閻浮。
BÁCH TRƯỢNG KỴ
[1118b20] Tiên kỳ đường ty suất chúng tài dinh cúng
dường. Chí nhật cách túc như pháp phô thiết pháp
đường. Tòa thượng quải chân, nghiêm thiết trung
giang tế diên, thượng hạ gian kỷ án cúng cụ. Đương
vãn phúng kinh, chính nhật tán kỵ đặc vi trà thang,
niêm hương, tuyên sớ, xuất ban thượng hương, đại
chúng triển bái (tịnh đồng Đạt-ma kỵ lễ, đán vô niệm
tụng). Sơ dạ hồi hướng vân: “Tịnh pháp giới thân bổn
vô xuất một, đại bi nguyện lực thị hữu khứ lai.
Ngưỡng ký từ bi, phủ thùy chiêu giám. Chính nguyệt
thập thất nhật, phục trị Bách Trượng Đại Trí Giác
Chiếu Hoằng Tông Diệu Hạnh thiền sư đại Hòa
thượng thị tịch chi thần, suất tỷ-kheo chúng dinh bị
hướng tu, dĩ thân cúng dường, phúng tụng Đại Phật
đảnh vạn hạnh thủ lăng nghiêm thần chú. Sở tập thù
huân, thượng thù từ ấm. Phục nguyện, đàm hoa tái
hiện, trùng khai giác hoa chi xuân, huệ nhật trường
minh, vĩnh chúc hôn cù chi dạ. Thập phương tam thế,
nhất thiết vân vân”.
Sớ ngữ:
[1118b27] Nhất ngôn vi thiên hạ pháp, trung củ
trung qui
Vạn thế tri sư đạo tôn, hữu cương hữu kỷ
Dĩ, Nghĩ tùng lâm lễ nhạc chi thạnh
Kiến pháp diên long tượng chi đa
Hoa Phạn đồng văn, phú nghĩ danh cừ thiên lộc
Kinh luật tương tế, nghiêm như kim khoa ngọc điều
Hữu bố vũ đường thượng chi nghi
Phi miên tối dã ngoại chi lễ
Tức thử dụng, ly thử dụng, ngữ thoát trùng huyền
Xuất ư cơ nhập ư cơ, lý cùng chúng diệu
Nghi phối Thiền Tổ dĩ bồi tự
Cái tuân húy nhật nhi dinh trai
Phục nguyện,
Đế Thích tinh tấn thắng tràng
Chế chư ma ngoại
Tế Bắc âm lương đại thọ, ấm mãn diêm phù.
GIỖ KỴ THIỀN SƯ BÁCH TRƯỢNG HOÀI HẢI
[1118b20] Trước ngày giỗ, đường ty quyên tiền của
đại chúng để sắm sanh cúng dường. Đến ngày giỗ,
cách đó một đêm y theo phép tắc bày trí pháp đường,
trên pháp tòa treo chân dung của tổ sư Bách Trượng,
thiết đặt hực hỡ tiệc cúng tại gian chính giữa. Gian bên phải và bên trái đặt bàn bày trí đồ cúng, ngay
tối đó tụng kinh. Đúng ngày lễ chính, bày lễ vật ra
giỗ kỵ (tán kỵ) đặc biệt dọn trà thang, dâng hương,
tuyên đọc sớ văn. (Thủ tọa) ra khỏi ban dâng hương,
đại chúng trải tọa cụ giập đầu lạy ba lạy (cũng
giống như lễ giỗ kỵ tổ sư Đạt-ma, nhưng không có
tụng niệm kinh). Đầu hôm hồi hướng rằng: “Thân
pháp giới thanh tịnh vốn không có xuất hiện và mất
đi, nhưng vì nguyện lực đại bi mà hiển thị có đến đi.
Ngẩng đầu mong từ bi, cúi xuống xin chiêu giám.
Ngày 17 tháng giêng phục gặp ngày thị tịch của
thiền sư đại Hòa thượng Bách Trượng Đại Trí Giác
Chiếu Hoằng Tông Diệu Hạnh, quyên tiền chúng tỉ-
kheo sắm sửa hương, thức ăn ngon lành để biểu thị
cúng dường, đọc tụng thần chú Phật đảnh vạn hạnh
thủ Lăng nghiêm. Sở tập thù huân, nhằm báo đáp
bóng rợp từ bi, những mong hoa ưu-đàm lại xuất
hiện, trùng khai nét xuân giác hoa, mặt trời huệ
sáng dài lâu, mãi soi rọi đêm trường tối tăm. Mười
phương ba đời chư Phật v.v…”.
Lời văn của sớ:
[1118b27] Một lời nói, pháp độ khắp thiên hạ, trong
khuôn trong mẫu
Muôn đời biết, sư đạo được tôn trọng, có mối có giềng
Ấy,
Nghĩ nét long thịnh lễ nhạc tùng lâm hưng thịnh Thấy vẻ dồi dào, rồng voi tiệc pháp
Hán Phạn đồng văn, phú nghĩ thạnh cừ thiên lộc
Kinh luật tương tế, nghiêm như kim khoa ngọc điều
Có nghi thức bố vũ trên pháp đường
Chẳng lễ nhạc xoàng xĩnh ngoài đồng ruộng
Nắm dụng đó, mà rời dụng đó, hồi thoát trùng huyền
Ra ở cơ mà vào cũng ở cơ, lý cùng các diệu
Nên phụ Thiền Tổ mà thờ kề
Ấy tuân ngày giỗ mà cúng trai
Cúi xin,
Phướn đẹp tinh tấn Đế thích kiềm chế ma ngoại
Cây to bóng mát Lâm Tế che rợp diêm-phù.
*
* *
[1118c07] 師福州長樂人王氏子。丱歲離塵。三學
該練。屬馬祖闡化江西法席之盛。若大珠南泉歸
宗號法龍象。而師為上首。暨祖示寂泐潭。師繼
之。以眾委湊無所容。欲辭去。道過新吳憩止車
輪峯下。有甘貞游暢。願施地延居。已而眾復
至。遂建寺為大拓提焉。元和九年正月十七日師
歸寂。彬林不爇而燎。靈溪方春而涸。四眾悲慘
葬于大雄峯。先是有異人司馬頭陀者。為擇葬地
曰。傍連三峯未窮其妙。法王居之天下師表。而
世以為信然云。唐長慶元年勅諡大智禪師。塔曰
大寶勝輪。
[1118c19] 宋大觀元年加諡覺照。塔曰慧聚。
[1118c20] 大元元統三年加諡弘宗妙行禪師。
(BÁCH TRƯỢNG HOÀI HẢI THIỀN SƯ)
[1118c07] Sư Phước Châu Trường Lạc nhân, Vương
thị tử. Quán tuế ly trần, tam học cai luyện. Thuộc
Mã Tổ xiển hóa Giang Tây pháp tịch chi thạnh,
nhược Đại Châu, Nam Tuyền, Qui Tông hiệu pháp
long tượng nhi sư vi thượng thủ. Kỵ Tổ thị tịch Lặc
Đàm, sư kỷ chi. Dĩ chúng ủy thấu vô sở dung, dục
từ khứ. Đạo quá Tân Ngô, khế chỉ xa luân phong hạ.
Hữu Cam Trinh du sướng, nguyện thí địa diên cư.
Dĩ nhi chúng phục chí, toại kiến tự vi đại thác đề
diên. Nguyên Hòa cửu niên chính nguyệt thập thất
nhật qui tịch, Bân lâm bất nhiệt nhi liệu, Linh Khê
phương xuân nhi hạc. Tứ chúng bi thảm táng vu Đại
Hùng phong.
Tiên thị hữu dị nhân Tư Mã Đầu Đà giả vi trạch
táng địa viết: “Bàng liên tam phong vị cùng kỳ diệu.
Pháp vương cư chi, thiên hạ sư biểu”. Nhi thế dĩ vi
tín nhiên vân.
Đường Trường Khánh nguyên niên sắc thụy Đại Trí
thiền sư, tháp viết Đại bảo thắng luân.
[1118c19] Tống Đại Quan nguyên niên gia thụy
Giác Chiếu, tháp viết Huệ Tụ.
[1118c20] Đại Nguyên Nguyên Thống tam niên gia
thụy Hoằng Tông Diệu Hạnh thiền sư.
(TIỂU SỬ THIỀN SƯ BÁCH TRƯỢNG HOÀI HẢI)
[1118c07] Sư con nhà họ Vương, người Trường Lạc
Phước Châu. Lúc tóc còn để chỏm, đã lìa xa cõi
trần lụy. Tam học giới-định- huệ đều luyện tập cả,
sư thuộc pháp tịch do thiền sư Mã tổ Đạo Nhất xiển
hóa ở Giang Tây lúc long thạnh, trong đó có các
thiền sư danh tiếng được coi là bậc kiệt xuất (long
tượng) trong Thiền tông như Đại Châu Huệ Hải,
Nam Tuyền Phổ Nguyện, Qui Tông Trí Thường,
nhưng sư lại là thượng thủ trong hội. Kịp khi Mã Tổ
thị tịch tại Lặc Đàm, sư kế thừa Tông tự nhưng do
chúng nương náu quá đông, không thể chứa nổi nên
định bỏ đi nơi khác. Đường đi qua đất Tân Ngô,
dừng xe cộ tạm nghỉ ngơi dưới chân ngọn núi. Có
Cam Trinh du chơi tình nguyện hiến đất mời sư ở, kế
đại chúng cũng vừa chờ tới bèn cất chùa to cho đại
chúng ở. Ngày 17 tháng giêng năm Nguyên Hòa thứ
9 (814), sư qui tịch. Lúc đó, rừng Bân (cây bân)
không nắng hạn mà héo hết, khe Linh đang mùa
xuân mà khô cạn. Tứ chúng kêu khóc thảm thiết, an
táng sư tại ngọn Đại Hùng (Đại Hùng phong).
Nguyên trước kia có nhà sư Ấn Độ là Tư Mã đầu-đà
tìm đất làm chỗ chôn sư nói: “Bên cạnh nối liền ba
ngọn núi chưa cùng sự huyền diệu. Đây là chỗ ở của bậc pháp vương, bậc thầy gương mẫu của cả thiên
hạ”, mà rồi người đời cũng tin như thế.
Năm đầu niên hiệu Trường Khánh đời Đường (821)
sắc thụy sư là Đại Trí thiền sư, tháp tên là Đại bửu
thắng luân.
[1118c19] Năm đầu niên hiệu Đại Quan nhà Tống
(1107) sắc thụy thêm Giác Chiếu, tháp tên Huệ tụ.
[1118c19] Năm thứ ba niên hiệu Nguyên Thống nhà
Đại Nguyên sắc thụy thêm Hoằng Tông Diệu Hạnh
thiền sư.
*
* *
開山歷代祖忌
[1118c22] 開山忌及道行崇重。功被山門者。隔宿
鋪設法堂上。禮儀(百文)或無疏。庫司備供養。
若歷代忌不具疏。不獻特為茶湯。屆期堂司預報
庫司。備供養。請牌位。就法座西首鋪設。粥罷
集眾。住持兩序一行排立。維那出揖班上香畢歸
位。同展三拜。侍者班尾拜(至大規云有處就祖堂
下食一位諷經非禮也)舉大悲呪。回向云(寶明空
海。湛死生漩箥之波。大寂定門。融今古去來之
相。仰冀貞慈俯垂昭鑒。山門今月某日。伏值前
生當山第幾代某號某禪師示寂之辰。營備珍羞以
伸供養。比丘眾諷誦大悲神呪。所集殊勳增崇品
位。伏願。慧日重輝。耀祖室光明之種。靈根再
蘗。回少林花木之春。云云)或鄉人。或江湖舉
呪。回向云(上來諷經功德。奉為某號大和尚增崇
品位。十方三世云云)或有俵嚫。則舉楞嚴呪。回
向同前。
KHAI SƠN LỊCH ĐẠI TỔ KỴ
[1118c22] Khai sơn kỵ cập đạo hạnh sùng trọng, công
bị sơn môn giả, cách túc phô thiết pháp đường thượng,
lễ nghi Bách Trượng, hoặc vô sớ. Khố ty bị cúng dường.
Nhược lịch đại kỵ bất cụ sớ, bất hiến đặc vi trà thang.
Giới kỳ đường ty dự báo Khố ty bị cúng dường, thỉnh
bài vị, tựu pháp tòa Tây thủ phô thiết, chúc bãi tập
chúng. Trụ trì, lưỡng tự, nhất hàng bài lập. Duy-na xuất
ban ấp thượng hương tất qui vị, đồng triển tam bái. Thị
giả ban vĩ bái (Chí Đại quy vân: “Hữu xứ tựu Tổ đường
hạ thực, nhất vị phúng kinh”, phi lễ dã). Cử Đại bi chú,
hồi hướng vân: “Bảo minh không hải, trạm tử sanh du
phiệt chi ba. Đại tịch định môn dung kim cổ khứ lai chi
tướng. Ngưỡng ký trinh từ, phủ thùy chiêu giám. Sơn
môn kim nguyệt mỗ nhật, phục trị tiền sanh đương sơn
đệ kỷ đại mỗ hiệu mỗ Thiền sư thị tịch chi thần. Dinh
bị trân tu dĩ thân cúng dường. Tỉ-kheo chúng phúng
tụng Đại bi thần chú, sở tập thù huân, tăng sùng phẩm
vị. Phục nguyện, huệ nhật trùng huy, diệu Tổ thất
quang minh chi chủng linh căn tái nghiệt, hồi Thiếu
Lâm hoa mộc chi xuân vân vân”.
Hoặc hương nhân, hoặc giang hồ cử chú, hồi hướng
vân: “Thượng lai phúng kinh công đức, phụng vi mỗ
hiệu đại Hòa thượng tăng sùng phẩm vị. Thập
phương tam thế vân vân”. Hoặc hữu biểu sấn, tắc
cử Lăng nghiêm chú, hồi hướng đồng triền.
GIỖ KỴ LỊCH ĐẠI TỔ SƯ KHAI SÁNG CHÙA
[1118c22] Giỗ kỵ các bậc khai sáng chùa cúng các
bậc đạo hạnh sùng trọng và các vị có công hoàn
thành trọn vẹn với chùa. Cách đó một đêm, bày biện
trang trí trên pháp đường, lễ nghi cùng với lễ giỗ kỵ
thiền sư Bách Trượng Hoài Hải giống nhau, nhưng
có thể không có đọc sớ. Khố ty cụ bị cúng dường.
Nếu là giỗ kỵ Tổ sư các đời thì không cần dâng sớ,
không hiến dâng trà thang. Đến kỳ, đường ty (liêu
duy-na) dự báo khố ty cụ bị việc cúng dường. Rước
thỉnh bài vị, tựu pháp tòa phía Tây bài trí. Dùng
cháo xong, tập họp đại chúng. Trụ trì và lưỡng tự
đứng sắp thành cùng một hàng, duy-na bước ra khỏi
ban vái chào mời thượng hương xong quay về vị trí,
cùng trải tọa cụ giập đầu lạy ba lạy. Thị giả đứng ở
cuối ban lễ bái (thanh qui đời Chí Đại chép: “Có
chỗ tựu tập Tổ đường dâng cơm cúng rồi tụng kinh
là không đúng phép tắc”, đọc chú Đại Bi hồi hướng
rằng: “Bảo minh hư không và đại hải, sóng to nhồi
dập bè tử sinh nổi trôi. Đại tịch định môn, dung hợp
tướng lui tới xưa nay. Ngưỡng mong trinh từ, cúi cầu chiêu giám. Chùa nhà ngày mỗ tháng này, gặp ngày
kỷ niệm ngày thị tịch của thiền sư mỗ, pháp hiệu mỗ,
tiền sinh trụ trì đời thứ mỗ của chùa nhà, dinh biện
thức ăn ngon thể hiện cúng dường. Đại chúng tỉ-
kheo phúng tụng thần chú Đại bi, sở tập thù huân
cầu cho mỗ cố thiền sư tăng cao thêm phẩm vị.
Phục nguyện, tuệ nhật trùng huy, rạng rỡ hạt giống
của Tổ thất quang minh, linh căn lại mọc rộng,
phục hồi nét xuân của cây cối bông trái Thiếu Lâm
v.v...”. Hoặc người đồng hương của trụ trì hoặc các
bậc cao tăng ẩn dật đọc chú, thì hồi hướng rằng:
“Công đức đọc tụng kinh chú vừa rồi phụng vì đại
Hòa thượng pháp hiệu mỗ tăng thêm phẩm vị. Mười
phương, ba đời chư Phật v.v…”. Hoặc có tặng phát
tài vật bố thí tất đọc chú Lăng nghiêm, hồi hướng
cũng như vừa nói ở trên.
*
* *
嗣法師忌
[1119a05] 先德唯激揚宗乘發明自己。開示後學知
有授受。以報恩也。如巴陵三轉語為雲門作忌。
先輩深有意焉。然尊師重道。禮不可廢。先期住
持出己財送庫司。辦祭設供。隔宿就法堂如法排
辦。堂司行者報眾。掛諷經牌。當晚諷楞嚴呪。
鄉人法眷舉大悲呪。次行者諷經回向並同。次早
住持上粥粥罷。大眾諷大悲呪。鄉人法眷舉呪。
半齋散忌諷經住持上食。講特為茶拈香(達磨忌同)
兩序上香大眾同拜(蓋上座下皆曰參學故也)齋時
住持入堂燒香展拜歸位。衣鉢侍者行嚫(有就法堂
諷經時俵嚫非禮也)齋畢就座點茶燒香侍者行禮。
若講特為伴真湯(齋罷方丈客頭請西堂兩序。晚間
對真相伴喫湯。排照牌位列座右。住持揖就座。
燒香上湯。并下相伴人湯。退身燒香展拜。起身
問訊謝相伴。鳴鼓三下退座。如有三五人西堂。
則分作兩座。第一座西堂喫湯。住持行禮。第二
座兩序喫湯。侍者行禮或無西堂則已之諷經罷備
湯果。預請兩序勤舊。如有法眷尊長同門兄弟。
皆當請之。小師師孫不可同席。坐定住持起上香
上湯畢。侍者燒香行湯果)。
[1119a20] 尊祖章終。
TỰ PHÁP SƯ KỴ
[1119a05] Tiên đức duy kích dương Tông thừa, phát
minh tự kỷ. Khai thị hậu học tri hữu thụ th? dĩ báo
ân dã. Như Ba Lăng tam chuyển ngữ vi Vân Môn
tác kỵ. Tiên bối thâm hữu ý diên. Nhiên tôn sư
trọng đạo, lễ bất khả phế. Tiên kỳ trụ trì xuất kỷ tài
tống khố ty biện tế thiết cúng. Cách túc tựu pháp
đường, như pháp bài biện. Đường ty hành giả báo
chúng, quải phúng kinh bài. Đương vãn phúng Lăng
nghiêm chú. Hương nhân pháp quyến cử Đại bi chú, thứ hành giả phúng kinh hồi hướng tịnh đồng. Thứ
tảo trụ trì thượng chúc. Chúc bãi, đại chúng phúng
Đại bi chú. Hương nhân pháp quyến cử chú. Bán
trai tán kỵ, phúng kinh. Trụ trì thượng thực, giảng
đặc vi trà, niêm hương (Đạt-ma kỵ đồng). Lưỡng tự
thượng hương, đại chúng đồng bái (cái thượng tọa
hạ giai viết tham học, cố dã).
Trai thời trụ trì nhập đường thiêu hương triển bái
qui vị. Y bát thị giả hành sấn (hữu tựu pháp đường
phúng kinh thời biểu sấn phi lễ dã). Trai tất tựu tòa
điểm trà, thiêu hương thị giả hành lễ. Nhược giảng
đặc vi bạn chân thang, trai bãi, phương trượng
khách đầu thỉnh Tây đường, lưỡng tự, vãn gian đối
chân tương bạn khiết thang. Bài chiếu bài vị liệt tòa
hữu. Trụ trì ấp tựu tòa, thiêu hương, thượng thang,
tính hạ tương bạn nhân thang. Thoái thân thiêu
hương triển bái. Khởi thân vấn tấn tạ tượng bạn.
Minh cổ tam hạ thoái tòa. Như hữu tam ngũ nhân
Tây đường t?c phân tác lưỡng tòa. Đệ nhất tòa Tây
đường khi?t thang, trụ trì hành lễ. Đệ nhị tòa lưỡng
tự khiết thang, thị giả hành lễ, hoặc vô Tây đường
tắc dĩ chi. Phúng kinh bãi, bị thang quả, dự thỉnh
lưỡng tự, cần cựu. Như hữu pháp quyến tôn trưởng
đồng môn huynh đệ, giai đương thỉnh chi. Tiểu sư,
sư tôn bất khả đồng tịch. Tọa định, trụ trì khởi thượng hương, thượng thang tất, thị giả thiêu hương
hành thang quả.
[1119a20] Tôn tổ chương chung.
GIỖ KỴ THẦY TRUYỀN PHÁP CỦA TRỤ TRÌ
[1119a05] Các bậc tiên đức duy kích dương Tông
thừa, phát minh Phật tính của chính mình (tự kỷ
Phật), chỉ dạy kẻ hậu học tri hữu giao nhận để mà
báo ơn Thầy tổ. Do đó mà thiền sư Ba Lăng Hạo
Giám ba lần chuyển ngữ để giỗ kỵ thiền sư Vân Môn
Văn Yển, ấy là bậc tiền bối có ý sâu xa vậy. Nhưng
chuyện tôn sư trọng đạo, lễ nghĩa ấy không thể bỏ
phế vậy. Trước ngày giỗ, trụ trì xuất tiền của cá
nhân mình giao cho khố ty để bày biện lễ tế cúng
kiến. Trước đó một đêm, tề tựu pháp đường y như
phép tắc mà bày biện. Hành giả đường ty thông báo
đại chúng treo bài hiệu Phúng tụng, ngay tối hôm
đó đọc tụng chú Lăng nghiêm. Người đồng hương và
bạn đạo cùng thầy (pháp quyến) của trụ trì đọc chú
Đại bi. Kế đó, hành giả tụng kinh hồi hướng. Các
phần đọc tụng và hồi hướng cũng giống các lễ giỗ
kỵ ở trước. Sáng sớm hôm sau, trụ trì dâng cúng
cháo. Dùng cháo sáng xong, đại chúng tụng đọc chú
Đại bi. Người đồng hương và bạn đạo cùng thầy
(pháp quyến) của trụ trì cũng đọc chú. Lúc bán trai
tức là giữa cháo sáng và cơm trưa phóng tán tiền vật cúng giỗ, tụng kinh. Trụ trì dâng cơm cúng, tiến
hành lễ dâng trà, dâng hương (giống như ở lễ giỗ kỵ
tổ sư Đạt-ma). Lưỡng tự dâng hương, đại chúng
đồng lễ bái (do dưới Thượng tọa trở xuống đều gọi
là người tham học).
Vào giờ độ trai, trụ trì vào tăng đường đốt hương,
trải tọa cụ giập đầu lạy ba lạy rồi quay về vị trí. Thị
giả y bát tặng tài vật bố thí (có nơi nhân lúc tề tựu
pháp đường tụng kinh, tặng phát tài vật mà bố thí là
không đúng lễ phép). Độ trai xong, tề tựu pháp tòa
dâng trà, thị giả đốt hương hành lễ. Nếu cử hành đãi
thang thủy tại lễ bầu bạn cùng chân dung thầy truyền
pháp thì độ trai xong, khách đầu thất phương trượng
mời Tây đường và lưỡng tự buổi tối đối diện với chân
dung thầy truyền pháp bầu bạn dùng thang thủy, bày
bài vị ở vị trí bên phía phải của pháp tòa. Trụ trì vái
chào mời tựu tòa đốt hương dâng cúng thang thủy,
đồng thời dâng mời người ngồi bầu bạn dùng thang
thủy rồi thoái thân đốt hương trải tọa cụ giập đầu lạy
chân dung thầy truyền pháp ba lạy, đoạn đứng dậy
vái chào vấn an cảm tạ người ngồi bầu bạn, đánh ba
tiếng trống rời khỏi tòa. Nếu như có năm ba vị Tây
đường tham dự thì chia ra làm hai tòa: tòa thứ nhất,
Tây đường dùng thang thủy do trụ trì hành lễ. Tòa
thứ hai, lưỡng tự dùng thang thủy do thị giả hành lễ,
nếu không có Tây đường thì thôi. Tụng kinh xong dọn đãi thang thủy và trái cây, dự trù mời lưỡng tự, cần
cựu. Như có pháp quyến hay bậc tôn trưởng hay
huynh đệ đồng môn của trụ trì đang ở tại chùa thì
cũng phải thỉnh mời tham dự. Tiểu sư (đệ tử), sư tôn
(cháu pháp) của trụ trì thì không được dự chung tiệc
đãi. Sau khi mọi người tọa định, trụ trì đứng lên đốt
hương, dâng đãi thang thủy. Xong, thị giả đốt hương
hành lễ dâng thang quả.
[1119a20] Chương Tôn tổ hết.
*
* *住持章第五
[1119a22] 佛教入中國四百年而達磨至。又八傳而
至百丈。唯以道相授受。或岩居穴處。或寄律
寺。未有住持之名。百丈以禪宗寖盛。上而君相
王公。下而儒老百氏。皆嚮風問道。有徒實蕃。
非崇其位則師法不嚴。始奉其師為住持。而尊之
曰長老。如天竺之稱舍利弗須菩提。以齒德俱尊
也。作廣堂以居其眾。設兩序以分其職。而制度
粲然矣。至於作務。猶與眾均其勞。常曰。一日
不作一日不食。烏有庾廩之富輿僕之安哉。故始
由眾所推。既而命之官。而猶辭聘不赴者。後則
貴鬻豪奪。視若奇貨。然苟非其人。一寺廢蕩。
又遺黨於後。至數十年蔓不可圖。而往往傳其冥
報之慘。有不忍聞者。可不戒且懼乎。
TRỤ TRÌ CHƯƠNG ĐỆ NGŨ
[1119a22] Phật giáo nhập Trung Quốc tứ bách niên
nhi Đạt-ma chí. Hựu bát truyền nhi chí Bách Trượng,
duy dĩ đạo tương thụ thụ. Hoặc nham cư, huyệt xứ,
hoặc ký luật tự, vị hữu trụ trì chi danh. Bách Trượng
dĩ Thiền tông tẩm thạnh, thượng nhi quân, tướng,
Vương công, hạ nhi Nho, Lão, bách thị, giai hưởng
phong vấn đạo. Hữu đồ thật phiền, phi sùng kỳ vị
tắc sư pháp bất nghiêm, thỉ phụng kỳ sư vi trụ trì,
nhi tôn chi viết Trưởng lão như Thiên Trúc chi xưng
Xá-lợi-phất, Tu-bồ-đề, dĩ xỉ đức câu tôn dã. Tác
quảng đường dĩ cư kỳ chúng, thiết lưỡng tự dĩ phân
kỳ chức, nhi chế độ xán nhiên hĩ. Chí ư tác vụ, do
dữ chúng quân kỳ lao. Thường viết: “Nhất nhật bất
tác, nhất nhực bất thực”, ô hữu dữu lẫm chi phú, dư
bộc cho an tai. Cố thỉ do chúng sở suy ký nhi mệnh
chi quan, nhi do từ sính bất phó giả. Hậu tắc quí dục,
hào đoạt, thị nhược kỳ hóa. Nhiên cẩu phi kỳ nhân,
nhất tự phế đãng, hữu di đãng ư hậu, chí số thập
niên, mạn bất khả đồ, nhi vãng vãng truyền kỳ
minh báo chi thảm, hữu bất nhẫn văn giả. Khả bất
giới thả cụ hồ!
CHƯƠNG 5 – TRỤ TRÌ
[1119a22] Phật giáo du nhập vào Trung Quốc ngót
400 năm thì tổ Bồ-đề-đạt-ma đến nước này, lại
truyền 8 đời mới đến Thiền sư Bách Trượng Hoài Hải,
đều lấy đạo pháp truyền thụ nhau. Hoặc ở hang động,
hoặc ở nhờ chùa luật chứ chưa có tên gọi chức vụ trụ
Chia sẻ với bạn bè của bạn: |