SỞ CÔng thưƠng đIỀu chỉnh bổ sung quy hoạch tổng thể phát triển công nghiệp -ttcn tỉnh lào cai đẾn năM 2020, TẦm nhìN ĐẾn năM 2025


Bảng 22: Danh mục cụm công nghiệp tỉnh Lào Cai



tải về 2.21 Mb.
trang6/17
Chuyển đổi dữ liệu04.08.2016
Kích2.21 Mb.
#12357
1   2   3   4   5   6   7   8   9   ...   17

Bảng 22: Danh mục cụm công nghiệp tỉnh Lào Cai

Địa điểm

Cụm công nghiệp

Diện tích (ha)

Tỷ lệ lấp đầy (%)

Số DA

Tp Lào Cai

Bắc Duyên Hải

85

98,2

67

Bắc Duyên Hải

12,14

100,0

101

Đông Phố Mới

2,2

100,0

16

Sơn Mãn

7,5




27

Bảo Yên

Phố Ràng

31,01

-

-

Bát Xát

Bản Vược

26,97

-

-

Bảo Thắng

Gia Phú

11,82

-

-

Xuân Quang

12,0

-

-

Bản Phiệt

15,0

-

-

Văn Bàn

Khánh Yên Thượng

5,17

-

-

Võ Lao

14,0

-

-

Mường Khương

Hủm Pa Lai

6,9

-

-

Si Ma Cai

Nàn Sán

7,6

-

-

Bắc Hà

Bắc Hà

5,32

-

-

Tổng cộng

246,81

-

211

(Nguồn: Tổng hợp từ các báo cáo khảo sát của địa phương và Sở Công Thương)

V. HIỆN TRẠNG PHÁT TRIỂN TTCN VÀ NGHỀ NÔNG THÔN

Làng nghề truyền thống và các ngành nghề tiểu thủ công nghiệp đã và đang tiếp tục góp phần quan trọng, trong việc giữ gìn bản sắc văn hóa, tạo việc làm và thu nhập cho một bộ phận dân cư của tỉnh.

Lào Cai là tỉnh có các nghề truyền thống khá đa dạng với các nhóm nghề tiêu biểu như: nhóm làng dệt may thổ cẩm; nhóm làng nghề nấu rượu; nhóm làng nghề sản xuất VLXD; nhóm làng nghề sản xuất mây, tre đan; nhóm làng nghề chế biến thực phẩm; nhóm làng nghề cơ khí; nhóm làng nghề chế biến dược liệu và nước tắm; nhóm làng nghề trồng hoa, cây cảnh; nhóm làng nghề chạm, khắc bạc…

Do Lào Cai có ngành du lịch phát triển, nên có lợi thế và điều kiện để các làng nghề gắn với các tuyến du lịch, có được thị trường tiêu thụ các sản phẩm làng nghề mang tính lưu niệm từ nguồn khách du lịch đến với Lào Cai. Một số sản phẩm làng nghề đã xây dựng được thương hiệu và được tiêu thụ không những tại thị trường nội tỉnh mà còn mở rộng sang địa bàn các tỉnh khác (như một số loại rượu đặc sản của người dân vùng cao Lào Cai đã được ưa chuộng tại thị trường Hà Nội và các tỉnh lân cận).

Một số ngành nghề TTCN chủ yếu của tỉnh như sau:



- Nghề dệt may và thêu thổ cẩm: Có tại các xã Khánh Yên Thượng, Khánh Yên Trung, Chiềng Ken, Liêm Phú (huyện Văn Bàn); xã Tả Phìn, San Sả Hồ, Sa Pả, Trung Chải (huyện Sa Pa); xã Cán Cấu (huyện Si Ma Cai) và xã Bản Phố (huyện Bắc Hà).

- Nghề nấu rượu đặc sản: Lào Cai là địa phương có nghề nấu rượu truyền thống khá phát triển với các loại rượu đã được thị trường tiêu thụ, như: rượu thóc Shan Lùng, Nậm Pung, Sim San (Bát Xát), Thanh Kim (Sa Pa); rượu ngô Bản Phố (Bắc Hà), Cốc Ngù (Mường Khương); rượu nếp Nậm Cần (Văn Bàn) hay rượu Cao lương của người Dao ở Trì Quang (Bảo Thắng)... Mỗi sản phẩm rượu có một hương vị đặc trưng, trong đó chứa đựng những nét độc đáo về nghề truyền thống mang bản sắc của từng dân tộc, của mỗi địa phương.

- Nghề sản xuất VLXD: Nghề sản xuất ngói máng được du nhập từ tỉnh Vân Nam (Trung Quốc) vào huyện Si Ma Cai. Hiện nay nghề sản xuất ngói máng đang được một số hộ đồng bào dân tộc Mông ở thôn Na Pá, xã Bản Mế sản xuất với hơn 40% dân số trong làng tham gia nghề này. Sản xuất ngói máng đã đáp ứng một phần nhu cầu về vật liệu lợp cho nhân dân quanh vùng. Tuy nhiên, việc sản xuất vẫn thủ công là chính, chưa nâng cao được cả về số lượng và chất lượng, giá thành còn cao. Ngoài ra, tại các địa phương trên địa bàn còn phát triển các nghề sản xuất và khai thác VLXD từ đá vôi, đá xây dựng, cát, sỏi, gạch, ngói…

- Nghề sản xuất mây, tre đan: Lào Cai có lợi thế về nguyên liệu để sản xuất mây tre đan như: tre nứa, song mây... hiện các hộ sản xuất tập trung chủ yếu ở các huyện Sa Pa, Bảo Yên, Văn Bàn.

- Nghề chế biến thực phẩm: Do lượng khách hàng năm đến Lào Cai khá lớn và nhu cầu tiêu dùng các mặt hàng TP tại chỗ, cũng như mua làm quà cũng theo đó mà gia tăng, mặt khác sự đa dạng sắc tộc cũng tạo nên sự phong phú trong các món ăn truyền thống của người dân tộc, như các loại thực phẩm, gia vị đã được người tiêu dùng biết đến như: tương ớt, miến dong, miến đao, lạp xưởng, thịt khô, xôi…

- Nghề cơ khí rèn, đúc: Lào Cai là địa phương có đông đồng bào dân tộc thiểu số và có nghề truyền thống rèn đúc nông cụ từ lâu đời. Hiện nghề phát triển nhiều tại các huyện Bắc Hà, Mường Khương và Si Ma Cai. Sản phẩm chủ yếu là các loại dụng cụ nông cụ như lưỡi cày, dao, cuốc... Tuy chưa phát triển thành quy mô làng với đầy đủ điều kiện tập trung nhưng chất lượng sản phẩm như con dao, cái cuốc, lưỡi cày của đồng bào Mông, Nùng làm ra có chất lượng khá tốt.

- Nghề trồng và chế biến dược liệu: Người dân nhiểu vùng trên địa bàn tỉnh có truyền thống trồng và chế biến dược liệu, trong những năm gần đây Lào Cai đã chú trọng trong công tác phát triển nghề trồng và chế biến dược liệu như khôi phục và phát triển nghề chế biến nước tắm của người Dao đỏ (Tả Phìn, Thanh Kim) phục vụ khách du lịch trong và ngoài nước tại huyện Sa Pa. Tại Bảo Thắng và Bắc Hà cũng đã gây dựng các vùng trồng dược liệu ngoài mục đích phục vụ nhu cầu địa phương còn là sản xuất phục vụ khách du lịch khi đến địa bàn.

- Nghề trồng và chăm sóc hoa, cây cảnh: Là một nghề được du nhập từ vài chục năm gần đây, đến nay đã khá phát triển tại một số địa phương. Địa phương có nghề phát triển nhất là Sa Pa và Bắc Hà, do có lợi thế về điều kiện khí hậu và thổ nhưỡng thuận lợi cho việc trồng và chăm sóc cây cảnh, đặc biệt là hoa lan.

Ngoài các ngành nghề trên, Lào Cai còn tồn tại nhiều nghề truyền thống khác như chạm khắc bạc, nghề sản xuất đồ mộc gia dụng, sản xuất hương, nuôi cá... Tuy nhiên những nghề này hiện nay đang phân tán, nhỏ lẻ, chủ yếu phục vụ nhu cầu nội tỉnh và du lịch.

C. ĐÁNH GIÁ TÌNH HÌNH THỰC HIỆN QUY HOẠCH PHÁT TRIỂN CÔNG NGHIỆP

Dự án "Quy hoạch phát triển công nghiệp-TTCN tỉnh Lào Cai giai đoạn đến năm 2015" đã được UBND tỉnh Lào Cai phê duyệt (gọi tắt là QH2005).

Nhìn chung, việc thực hiện các quan điểm, tầm nhìn và một số chỉ tiêu của QH2005 xây dựng trước đây về cơ bản đã và đang được thực hiện đúng mục tiêu và định hướng, đáp ứng yêu cầu một số mục tiêu đã đề ra, mặc dù một số dự án dự kiến phát triển trong quy hoạch, vì nhiều lý do khác nhau đã không thực hiện được.

Trong bối cảnh kinh tế cả nước vẫn còn khó khăn, các kết quả hoạt động sản xuất trong ngành công nghiệp tỉnh Lào Cai trong giai đoạn 2011-2015 đạt được là khá tích cực, góp phần ổn định nền kinh tế của tỉnh.

Từ tình hình hoạt động sản xuất của ngành công nghiệp của tỉnh trong giai đoạn 2011-2015, so sánh với quy hoạch đã phê duyệt, có thể có một số đánh giá như sau:

1. Đánh giá về quan điểm và định hướng phát triển

Trong giai đoạn quy hoạch và đến năm 2015, ngành công nghiệp đã phát triển theo đúng định hướng đề ra, đó là tiếp tục khai thác các tiềm năng, lợi thế về tài nguyên, lao động, để phát triển các ngành công nghiệp có lợi thế cạnh tranh.

Nhiều cơ sở sản xuất trong ngành đã và đang từng bước đầu tư đổi mới máy móc và công nghệ, nhằm sản xuất ra các sản phẩm có chất lượng đáp ứng nhu cầu của người tiêu dùng và giảm thiểu ô nhiễm môi trường (như trong ngành khai thác và chế biến khoáng sản; hóa chất, phân bón).

Theo định hướng quy hoạch trước đây, phấn đấu phát triển ngành công nghiệp theo hướng nâng cao các giá trị sản phẩm hiệu và hiệu quả kinh tế, trên thực tế đến nay, công nghiệp tỉnh Lào Cai đã và đang phát triển đúng với phương hướng đặt ra. Điều này thể hiện thông qua tỷ lệ VA/GOCN năm 2015 ước đạt 29,5%, cao hơn so với dự kiến của quy hoạch trước đây (đạt 21,6%).

Theo quy hoạch trước đây, với việc khuyến khích và ưu tiên mọi thành phần kinh tế tham gia đầu tư kinh doanh hạ tầng khu công nghiệp, cụm công nghiệp, tuy nhiên việc thu hút các nhà đầu tư chưa phát triển được như mong đợi.

Việc đẩy mạnh hỗ trợ phát triển TTCN ở các địa phương và chú trọng phát triển các sản phẩm TTCN phục vụ du lịch và xuất khẩu, nhìn chung vẫn còn hạn chế và đầu tư chưa đúng mức. Các hoạt động đầu tư phát triển công nghiệp, cơ bản vẫn chỉ tập trung phát triển mạnh ở khu vực trung tâm và đô thị.

2. Một số chỉ tiêu phát triển công nghiệp trong giai đoạn quy hoạch

Các chỉ tiêu phát triển của ngành công nghiệp tỉnh Lào Cai đã đạt được trong thời kỳ 2011-2015 về cơ bản đã bám sát theo các mục tiêu quy hoạch phát triển công nghiệp đã phê duyệt, mặc dù một số dự án công nghiệp chậm đầu tư hoặc đầu tư dở dang.

Giá trị sản xuất công nghiệp năm 2015 ước đạt 5.960 tỷ đồng (giá so sánh 1994), so với mức quy hoạch QH2005 là 6.000 tỷ đồng, đạt khoảng 99,3%.



Bảng 23: Một số chỉ tiêu so sánh tình hình triển khai quy hoạch

TT

Chỉ tiêu

Đ/vị

Chỉ tiêu quy hoạch

Ước

thực hiện

Thực hiện so với QH (%)

Năm 2015

Năm 2015

6=5/4

1

2

3

4

5

6

1

GOCN (giá 1994)

Tỷ đồng

6.000

5.960

99,3%

2

VACN (giá 1994)

Tỷ đồng

1.297

1.758

135%

3

Tỷ lệ VA/GOCN

%

21,6

29,5




5

Tỷ trọng CN+XD

- Công nghiệp



%

40%

25%


43,1%

32,3%


+3,1%

+7,3%


7

GRDP(VA)/người (HH)

Trđ/ng

31,8

39,4

~124%




Quy USD

USD/người

1.514

1.876

(Nguồn: KH KTXH tỉnh Lào Cai 2016-2020 và số liệu của Sở Công Thương)

Tỷ trọng ngành công nghiệp và xây dựng trong cơ cấu kinh tế đến năm 2015 đã đạt và vượt so với quy hoạch đã đề ra (43,1% so với 40,0%). Trong đó, riêng ngành công nghiệp có tỷ trọng thực tế cao hơn nhiều so với dự kiến quy hoạch trước đây.

Với tốc độ tăng trưởng VA công nghiệp và GOCN tăng cao trong giai đoạn 2011-2015 (đạt 17,4%/năm và 18,2%/năm) đã góp phần đưa giá trị thu nhập đầu người của tỉnh năm 2015 ước đạt khoảng 39,4 triệu đồng, vượt gần 24% so với mức quy hoạch trước đây dự kiến là 31,8 triệu đồng/người (theo giá hiện hành).

3. Đánh giá việc thực hiện quy hoạch phát triển công nghiệp trong giai đoạn đến năm 2015

Việc thực hiện quy hoạch phát triển công nghiệp giai đoạn 2011-2015 đã góp phần tạo nên những thành tựu nhất định trong phát triển công nghiệp Lào Cai và trong phát triển kinh tế-xã hội của tỉnh. Ngoài ra, sự chỉ đạo phát triển công nghiệp trong giai đoạn 2011-2015 là đúng hướng, nên cũng đã phát huy được những thế mạnh, tiềm năng phát triển của địa phương.

Cơ cấu công nghiệp (không tính xây dựng), đã đạt và vượt kế hoạch đề ra, và giữ ổn định ở mức cao trong suốt giai đoạn từ năm 2011 đến năm 2015. Nếu tính thêm ngành xây dựng thì cơ cấu của ngành đạt tương đương với mức dự báo của quy hoạch trước đây và đã có những tác động nhất định đến phát triển kinh tế-xã hội, tạo được nền móng cho các ngành công nghiệp của tỉnh phát triển trong giai đoạn tiếp theo.

Do ảnh hưởng từ các vấn đề kinh tế, như lạm phát, lãi suất cao; thắt chặt và cắt giảm đầu tư… dẫn đến nhiều dự án công nghiệp lớn đầu tư trên địa bàn đã đầu tư dở dang hoặc ngừng đầu tư… ảnh hưởng đến việc tăng trưởng ngành công nghiệp, như: Nhà máy xi măng Vinafuji-Lào Cai (600.000 tấn/năm); nhà máy sản xuất gỗ MDF Bảo Yên; nhà máy gỗ xuất khẩu Bảo Thắng (30.000 m3 SP/năm); nhà máy bột giấy Bảo Yên (10.000 tấn/năm)...

Số lượng lao động tăng cao, trình độ lao động trong các doanh nghiệp tuy vẫn còn bất cập nhưng từng bước đã và đang được cải thiện. Đây là một trong những yếu tố quan trọng để phát triển công nghiệp ở quy mô và trình độ cao hơn so với giai đoạn trước.

Nhìn chung, việc thực hiện các mục tiêu của Quy hoạch công nghiệp nói riêng và Quy hoạch phát triển KT-XH toàn tỉnh nói chung trong giai đoạn 2011-2015, bước đầu đã được mở rộng theo vùng, lãnh thổ. Các hoạt động công nghiệp trên địa bàn các địa phương trong tỉnh, mặc dù chưa đạt được mục tiêu như kỳ vọng, nhưng cũng đã đóng góp tích cực trong sự nghiệp phát triển kinh tế địa phương, thúc đẩy chuyển dịch kinh tế trong tỉnh theo hướng công nghiệp hóa.

D. ĐÁNH GIÁ HIỆN TRẠNG PHÁT TRIỂN CÔNG NGHIỆP TỈNH LÀO CAI GIAI ĐOẠN 2011-2015

1. Những thành tựu và thuận lợi

Ngành công nghiệp Lào Cai bước đầu đã xác định được phương hướng phát triển, tập trung khai thác tốt một số tiềm năng, thế mạnh và tiếp tục có những đóng góp quan trọng trong phát triển KT-XH của tỉnh trong giai đoạn 2011-2015.

Giai đoạn 2011-2015, công nghiệp Lào Cai duy trì tốc độ tăng trưởng khá cao, ước giá trị sản xuất công nghiệp bình quân 05 năm tăng 18,2%/năm, tiếp tục đà tăng trưởng cao (giai đoạn 2006-2010 đã đạt 31,8%/năm).

Trên địa bàn tỉnh, hiện có một số DN sản xuất công nghiệp lớn, góp phần thúc đẩy sự phát triển công nghiệp của tỉnh (như ngành hóa chất, phân bón; khai thác và chế biến khoáng sản…).

Doanh nghiệp công nghiệp trong ngành khai thác, chế biến khoáng sản và công nghiệp hóa chất, phân bón đã phát triển và hình thành được một lực lượng lao động truyền thống, có tay nghề góp phần thúc đẩy sự phát triển công nghiệp của tỉnh.

Giá trị sản xuất khu vực ngoài nhà nước có mức tăng trưởng tốt, góp phần đưa tỷ trọng của khu vực tăng nhanh trong cơ cấu công nghiệp, tạo nền tảng cho công nghiệp Lào Cao phát triển ổn định và bền vững (tăng từ 30,7% năm 2010 lên chiếm khoảng 44,3% năm 2015).

Công nghiệp tiếp tục phát triển với sự đóng góp của nhiều thành phần kinh tế. Các thành phần kinh tế đều được tạo cơ hội và điều kiện phát triển. Một số sản phẩm công nghiệp của tỉnh chiếm tỷ lệ cao trong kim ngạch xuất khẩu của vùng và cả nước.

Năng lực cạnh tranh và môi trường đầu tư sản xuất kinh doanh của tỉnh tiếp tục chiếm vị trí cao (xếp thứ 03/63 tỉnh thành phố)4. Vị trí và vai trò của công nghiệp tỉnh Lào Cai trong Vùng Trung du, miền núi Bắc Bộ đã và đang tiếp tục được đánh giá cao.

2. Một số tồn tại, thách thức

Ngoài các sản phẩm trong ngành chế biến khoáng sản và hóa chất, phân bón, công nghiệp tỉnh không nhiều sản phẩm công nghiệp có giá trị mang lại nguồn tích lũy cao, có vị thế và tác động ảnh hưởng lớn đến thị trường. Quy mô sản xuất vừa và nhỏ là chủ yếu, chưa có khả năng tạo bước phát triển đột phá.

Công nghiệp phân bố không đồng đều giữa các vùng, địa phương. Phần lớn các doanh nghiệp của khu vực ngoài nhà nước đều có quy mô vừa và nhỏ, nguồn lực hạn chế.

Cơ cấu nội bộ ngành công nghiệp còn nặng về các sản phẩm truyền thống (chế biến khoáng sản; hóa chất, phân bón). Các ngành công nghiệp khác như chế biến nông sản, thực phẩm; dệt may-da giày… có giá trị công nghiệp thấp.

Ngoài nhóm ngành khai thác, chế biến khoáng sản và công nghiệp hóa chất, phân bón, nhìn chung, chất lượng nguồn nhân lực các ngành công nghiệp còn lại còn ở mức chưa cao. Công nghiệp hỗ trợ phục vụ cho phát triển các ngành công nghiệp còn nhỏ, manh mún, dẫn đến không đáp ứng được nhu cầu phát triển.

Đầu tư hạ tầng các khu, cụm công nghiệp vẫn phụ thuộc nhiều vào vốn NSNN, chưa thu hút được nhiều sự tham gia của thành phần kinh tế khác. Một số nơi việc giải phóng mặt bằng sản xuất cho nhà đầu tư còn kéo dài, gây khó khăn dẫn đến chậm tiến độ và cơ hội phát triển, mở rộng sản xuất của doanh nghiệp.

Xu hướng phát triển đang đặt ra vấn đề thu hút đầu tư có chọn lọc và lựa chọn về ngành nghề, sản phẩm… trong phát triển công nghiệp, đặc biệt là các vấn đề về công nghệ và môi trường.

Nguy cơ ảnh hưởng đến môi trường có dấu hiệu ngày càng cao do sự phát triển nhanh chóng của một số sản phẩm công nghiệp trong thời gian qua.

3. Nguyên nhân

Phát triển kinh tế nói chung và công nghiệp nói riêng của Lào Cai trong bối cảnh kinh tế cả nước vẫn còn gặp nhiều khó khăn, lạm phát đi đôi với suy giảm kinh tế, thị trường nguyên, nhiên liệu; thị trường đầu ra của sản phẩm bị ảnh hưởng mạnh do giá cả tăng cao. Đây là nguyên nhân ảnh hưởng mạnh mẽ nhất đến công nghiệp tỉnh cũng như các ngành kinh tế khác.

Các yếu tố hỗ trợ cho phát triển công nghiệp gặp nhiều khó khăn, yếu về nguồn lực, hạn chế về nguyên liệu.

Môi trường đầu tư chưa thực sự được hoàn thiện, trong đó đặc biệt là về hạ tầng thiết yếu và các chính sách hỗ trợ doanh nghiệp. Công tác chỉ đạo và tháo gỡ khó khăn cho doanh nghiệp, tạo điều kiện thuận lợi trong thu hút đầu tư còn thiếu đồng bộ và quyết liệt.

Mặc dù hệ thống hạ tầng đã được quan tâm đầu tư, nhưng vẫn chưa đáp ứng được thực tế yêu cầu phát triển KT-XH và công nghiệp trên địa bàn.

Công nghiệp tỉnh phát triển chủ yếu dựa vào khai thác và chế biến các tài nguyên sẵn có trên địa bàn. Trong đó, tập trung chủ yếu là ngành khai thác và chế biến khoáng sản, là lĩnh vực gây tác động nhiều đến môi trường.

E. KẾT LUẬN

Trên cơ sở đánh giá tình hình thực hiện các mục tiêu quy hoạch công nghiệp (đã phê duyệt trước đây) đến năm 2015; đánh giá hiện trạng phát triển, những thuận lợi, thách thức và nguyên nhân trong quá trình phát triển công nghiệp của tỉnh giai đoạn 2011-2015, Dự án Điều chỉnh, bổ sung quy hoạch tổng thể phát triển công nghiệp-TTCN tỉnh Lào Cai đến năm 2020, tầm nhìn đến năm 2025 sẽ tập trung điều chỉnh và bổ sung các vấn đề chủ yếu sau:



  • Nghiên cứu, bổ sung một số yếu tố mới có tác động và ảnh hưởng đến phát triển công nghiệp, cũng như kinh tế-xã hội toàn tỉnh trong giai đoạn từ nay đến năm 2020, tầm nhìn đến năm 2025.

  • Nghiên cứu điều chỉnh, bổ sung quan điểm và định hướng phát triển công nghiệp trong giai đoạn quy hoạch.

  • Xác định các mục tiêu và dự báo tốc độ tăng trưởng, cơ cấu ngành công nghiệp trong giai đoạn 2016-2020 và giai đoạn 2021-2025.

  • Xây dựng và lựa chọn ngành, sản phẩm công nghiệp trọng điểm của tỉnh trong các giai đoạn phát triển.

  • Xây dựng kịch bản phát triển kinh tế-xã hội và công nghiệp, trên cơ sở đó lựa chọn phương án phát triển phù hợp.

  • Xác định Danh mục một số dự án đầu tư chủ yếu ngành công nghiệp.

PHẦN THỨ HAI

ĐÁNH GIÁ CÁC YẾU TỐ TÁC ĐỘNG ĐẾN PHÁT TRIỂN CÔNG NGHIỆP, TINH LÀO CAI ĐẾN NĂM 2020, TẦM NHÌN ĐẾN NĂM 2025

Ngoài các yếu tố liên quan đến nội lực phát triển của tỉnh, sự phát triển công nghiệp của tỉnh Lào Cai trong giai đoạn từ nay đến năm 2020, tầm nhìn đến năm 2025 còn chịu sự chi phối của nhiều yếu tố trong và ngoài nước. Nhìn chung, những yếu tố trong nước và quốc tế ảnh hưởng đến nền kinh tế Việt Nam cũng sẽ là những yếu tố tác động đến sự phát triển các ngành kinh tế của tỉnh Lào Cai.

I. TÁC ĐỘNG CỦA BỐI CẢNH THẾ GIỚI VÀ KHU VỰC

1. Tình hình cung cầu và cạnh tranh trên thế giới và khu vực

Thế giới hiện đã và đang bước vào giai đoạn phát triển mới, trong đó hai xu hướng phát triển khách quan đã có tác động mạnh nhất đến định hướng và giải pháp phát triển của các quốc gia là sự phát triển vượt bậc của cách mạng khoa học kỹ thật và sự tự do hóa, đa cực hóa, toàn cầu hóa.

Cùng với việc tạo ra những công nghệ mới, đang xuất hiện những điều kiện kinh doanh và cơ cấu tiêu dùng m

ới. Thế giới ngày càng trở thành mạng lưới dày đặc và nhạy bén hơn các quan hệ giao tiếp và tương tác lẫn nhau, làm tăng các cơ hội cho tự do cá nhân, làm xói mòn các lợi thế cũ và tạo ra những sức mạnh, cùng những lợi thế mới...

Đối với sản phẩm: Đang và sẽ có sự cải thiện căn bản về danh mục, chủng loại, chất lượng, hình dáng, công dụng và giá cả của hàng loạt sản phẩm, hàng hóa và dịch vụ theo hướng đa dạng hơn, gọn nhỏ hơn, nhiều chức năng, tiết kiệm năng lượng và rẻ hơn, do đó phổ cập rộng rãi hơn. Sẽ xuất hiện hàng loạt sản phẩm và dịch vụ hoàn toàn mới với vòng đời sản phẩm sẽ ngắn đi.

Đối với doanh nghiệp: Sẽ có hai xu hướng song song diễn ra. Một mặt, nền kinh tế quốc gia và thế giới càng lớn hơn và mở rộng hơn thì các DN trung bình và nhỏ sẽ càng thống trị và có tương lai hơn. Các doanh nghiệp sẽ được tổ chức theo quy mô nhỏ, phi tập trung hóa, giảm bớt các khâu trung gian, cơ cấu thành nhiều đơn vị độc lập, có quyền tự chủ cao, được chuyên môn hóa cao và đặc biệt là hoạt động mang tính toàn cầu. Mặt khác, sự hợp nhất để trở thành lớn hơn, mạnh hơn, giảm chi phí và có sức cạnh tranh hơn, đáp ứng những nhu cầu to lớn của nền kinh tế tương lai sẽ trở thành xu hướng vận động của tổ hợp kinh doanh dịch vụ, tài chính, ngân hàng và thông tin. Sẽ ngày càng có nhiều tập đoàn xuyên quốc gia, có giá trị tài sản lớn hơn GDP của một nước, thậm chí của nhiều nước. Thực tế đến nay, các Cty xuyên quốc gia đang kiểm soát 2/3 chu chuyển ngoại thương và đầu tư quốc tế và sẽ không mất đi vai trò to lớn của chúng, trong việc tạo động lực cho tăng trưởng và tái cấu trúc nền kinh tế toàn cầu.

Đối với các nền kinh tế quốc gia và quốc tế: Các cấu trúc ngành nghề sẽ chuyển dịch theo hướng:

- Thu hẹp và mất dần các ngành khai thác, chế biến nguyên liệu truyền thống. Các ngành sản xuất truyền thống được chuyển thành những ngành sản xuất kỹ thuật cao và xuất hiện hàng loạt ngành sản xuất mới.

- Các ngành dịch vụ và sản phẩm có hàm lượng trí tuệ cao sẽ chiếm tỷ trọng lớn nhất và đem lại nguồn lợi nhuận cao nhất cho nền kinh tế quốc gia và quốc tế.

- Xu hướng phát triển của ngành dịch vụ phân phối thế giới có những đặc trưng như: nhất thể hóa sản xuất-bán buôn-bán lẻ để tạo mạng lưới phân phối rộng rãi, xuất hiện các doanh nghiệp thương mại lớn hoặc các hệ thống siêu thị, đại siêu thị, trung tâm mua sắm, TTTM.

Hình thành hệ thống kinh doanh chuỗi hoặc nhượng quyền của các công ty lớn hướng tới các phân đoạn chuyên biệt hơn trên thị trường. Vai trò của bán buôn truyền thống suy giảm, ngược lại, vai trò của các nhà bán buôn hiện đại tăng lên, nhất là đối với việc cung cấp trọn gói hàng tiêu dùng có giá trị cao, hàng vật liệu có số lượng lớn. Phương thức quản lý phát triển theo hướng tự động hóa quá trình quản lý và xây dựng thương hiệu cho DN và sản phẩm. Phương thức kinh doanh mới như TM điện tử, nhượng quyền TM, sàn giao dịch hàng hóa sẽ giữ vai trò chủ đạo trong thời kỳ tới.

2. Tác động của hội nhập kinh tế quốc tế đối với sự phát triển ngành công nghiệp tỉnh Lào Cai

Hội nhập kinh tế thế giới để phát triển là một xu thế tất yếu của thời đại. Sự giao lưu kinh tế đã liên kết các quốc gia có chế độ chính trị khác nhau thành một thị trường thống nhất. Đến nay trên thế giới đã hình thành 25 tam giác kinh tế, 130 tổ chức thương mại quốc tế mà Việt Nam đã trở thành thành viên chính thức của ASEAN năm 1995, APEC năm 1998, WTO năm 2006... và đang trong giai đoạn cuối của quá trình đàm phán gia nhập Hiệp định hợp tác kinh tế chiến lược xuyên Thái Bình Dương (TTP). Ngoài ra, Cộng đồng kinh tế ASEAN (AEC) dự kiến cũng sẽ được thành lập vào cuối năm 2015 và đang được coi là một bước ngoặt đánh dấu sự hòa nhập toàn diện của nền kinh tế Đông Nam Á.

Đến nay, Việt Nam đã tham gia thiết lập FTA với 15 nước trong khung khổ của 6 FTA khu vực (AFTA, ACFTA, AKFTA, AJFTA, AANZFTA, AIFTA), với phạm vi lĩnh vực tự do hóa khác nhau (thương mại hàng hóa, dịch vụ, đầu tư…) và độ sâu hội nhập khác nhau. Tỉ trọng thương mại hai chiều giữa Việt Nam với các đối tác đã có FTA đến năm 2010 chiếm gần 60% tổng giá trị thương mại của Việt Nam, trong đó chiếm gần 50% kim ngạch XK và gần 70% kim ngạch nhập khẩu hàng hóa. Đồng thời, chúng ta đang xúc tiến đàm phán ký kết một số BFTA với một số đối tác quan trọng (Thụy Sỹ, Hàn Quốc, EU, Chilê…) và cùng các nước ASEAN đàm phán ký kết Hiệp định thiết lập một số FTA khu vực (AEFTA, TPP...). Tiến trình tham gia FTA đối với nước ta là một phần trong hiện thực hóa chủ trương mở cửa, hội nhập sâu hơn vào kinh tế khu vực và thế giới.

Đây chính là những mốc dấu quan trọng của nền kinh tế Việt Nam tham gia vào thị trường kinh tế thế giới.

Khi Việt Nam hội nhập vào nền kinh tế thế giới, mỗi khi có sự biến động và ảnh hưởng của xu thế toàn cầu hóa, của việc hội nhập kinh tế của một nền kinh tế lớn hay khu vực trên thế giới tất yếu ít, nhiều cũng ảnh hưởng đến sự phát triển của nền kinh tế cả nước nói chung và kinh tế tỉnh Lào Cai nói riêng.

Một mặt, trong quá trình hội nhập, các nước trong khu vực cũng cần phải hợp tác với Việt Nam để khai thác các tiềm năng có thể bổ sung cho nền kinh tế của chính họ. Riêng với tỉnh Lào Cai và không gian lãnh thổ xung quanh là một vùng có nhiều tiềm năng và cơ hội để phát triển.

Xu thế chuyển dịch công nghệ và các nguồn vốn đầu tư đang diễn ra trên thế giới sẽ giúp các quốc gia đang phát triển, nhất là các quốc gia đi sau như Việt Nam có điều kiện tiếp cận và phát huy có hiệu quả nếu như biết nắm bắt những cơ hội này. Đó là các nguồn vốn đầu tư nước ngoài (FDI), vốn hỗ trợ phát triển (ODA), vốn đầu tư gián tiếp (FPI) thông qua hệ thống ngân hàng, trái phiếu, thị trường chứng khoán, vốn kiều hối… Ngoài ra, hiện đang có xu thế chuyển dịch dòng vốn đầu tư vào Việt Nam thay vì chọn các quốc gia láng giềng như Trung Quốc, Thái Lan... nhằm phân tán rủi ro.

Những chuyển biến kinh tế từ khi Việt Nam gia nhập WTO và các hiệp định thương mại quốc tế, đã đẩy làn sóng đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) vào Việt Nam lên cao. Theo các số liệu tổng hợp của Cục Đầu tư nước ngoài (FIA) cho thấy, FDI năm 2013 đạt 22,35 tỷ USD, vượt xa so với dự báo là 13-14 tỷ USD (Trong đó, vốn FDI tập trung chủ yếu vào ngành công nghiệp chế biến và chế tạo với tỷ trọng chiếm tới gần 77,0% tổng vốn đăng ký). Từ những chuyển động này, nhiều nhà kinh tế đã dự đoán Việt Nam đang vươn mình và sẽ thu hút dòng vốn FDI lớn trong thời gian tới.

Môi trường đầu tư của Việt Nam mặc dù vẫn còn nhiều mặt yếu so với các quốc gia trong vùng, song làn sóng đầu tư trực tiếp nước ngoài những năm gần đây từ: Mỹ, Nhật Bản, Hàn Quốc… vào Việt Nam, ngay cả trong bối cảnh khủng hoảng tài chính quốc tế hiện nay, tiếp tục gia tăng và có xu hướng phát triển cả ở mảng dịch vụ.

Theo điều tra của JETRO (Tổ chức xúc tiến thương mại Nhật Bản), các nhà đầu tư Nhật Bản hiện đánh giá, ngoài những lợi thế chính về chi phí sản xuất thấp và ổn định xã hội, Việt Nam “đang được xem là vùng đệm nhằm giảm thiểu sự lệ thuộc quá mức đối với Trung Quốc và đồng thời cân bằng những rủi ro trên toàn khu vực” nên đã nghĩ đến chính sách “Trung Quốc cộng một”.

Ngoài ra, trong những năm gần đây, đồng nhân dân tệ tăng giá, đất đai được hạn chế cho thuê với giá rẻ, lương tối thiểu tăng lên, tỉ lệ xuất khẩu bị điều chỉnh thấp xuống... là những lí do khiến giá thành sản phẩm ở Trung Quốc tăng cao, do đó một số ngành nghề và phương thức SX không còn có thể sinh lợi được nữa.

Ứng cử viên của “cộng một” là Việt Nam, Inđônêxia, Thái Lan… nhưng Việt Nam nhờ gần Trung Quốc về địa lí, được xem là ít có rủi ro về chính trị và tôn giáo, chế độ kinh doanh lại giống với Trung Quốc nên Việt Nam là vùng được quan tâm nhiều nhất trong việc phân tán đầu tư từ Trung Quốc. Do đó, Việt Nam sẽ có nhiều cơ hội trở thành điểm đến khi các công ty Nhật Bản cần mở rộng hoặc di dời công xưởng, hoặc cần nơi sản xuất phụ phẩm cho công ty ở Trung Quốc.

Đối với những công ty này, việc tìm ra nơi để di dời là việc hết sức cấp thiết và Việt Nam chắc chắn sẽ là một điểm nhắm quan trọng. Trong vài năm tới, việc di dời công xưởng đến Việt Nam chắc chắn sẽ tăng tốc.

Do vậy, để kinh tế tăng trưởng bền vững, thời gian tới, tỉnh Lào Cai cần tiếp tục chú trọng đến việc phát triển khu vực kinh tế tư nhân, khu vực đầu tư nước ngoài, nâng cấp cơ sở hạ tầng, quảng bá thông tin cần thiết về địa phương cho các nhà đầu tư. Đặc biệt cần đào tạo nâng cao trình độ nguồn nhân lực lành nghề như quản lý trung gian, kỹ sư và cả LĐ phổ thông đáp ứng yêu cầu của các nhà đầu tư.

Trong thời gian tới, với việc Lào Cai đã và đang tiếp tục trở thành một tác nhân phát triển của địa bàn Trung du, miền núi Bắc Bộ, có hệ thống giao thông thuận tiện, cùng hệ thống các KCCN đã được quy hoạch sẽ tạo cho tỉnh có nhiều cơ hội trong việc thu hút mạnh các nguồn đầu tư từ nước ngoài để phát triển.

II. TÁC ĐỘNG BỐI CẢNH TRONG NƯỚC

Bước vào giai đoạn 2016-2020 và những năm tiếp theo, phát triển KT-XH ở Lào Cai nói chung, phát triển công nghiệp nói riêng có nhiều thuận lợi và khó khăn, thách thức.



Về thuận lợi: Lào Cai là địa phương nằm giữa vùng Đông Bắc và vùng Tây Bắc, có gần 200 km đường biên giới với tỉnh Vân Nam (Trung Quốc), Lào Cai trở thành một nút giao thông quan trọng, một điểm trung chuyển cho lưu thông hàng hóa, hợp tác thương mại giữa các tỉnh trong Vùng cũng như cả nước với Trung Quốc, đồng thời cũng là cầu nối giữa Việt Nam với Tiểu vùng sông Mê Kông mở rộng và các nước ASEAN với Trung Quốc trong khu vực mậu dịch tự do ASEAN-Trung Quốc (CAFTA).

Lào Cai có vai trò là cửa ngõ giao lưu quốc tế trên tuyến hành lang kinh tế Lào Cai-Hà Nội-Hải Phòng-Quảng Ninh và một vành đai kinh tế trên cơ sở phát triển giao thương với các tỉnh phía Tây-Nam (Trung Quốc), các địa phương trong cả nước theo tuyến hành lang.



Về thách thức: Trước hết là tác động từ các khó khăn của kinh tế cả nước vẫn còn hiện hữu; đó là xuất phát điểm cũng như chất lượng, hiệu quả và sức cạnh tranh của nền kinh tế tỉnh chưa cao; nguồn lực cho đầu tư phát triển còn hạn hẹp, quy mô sản xuất còn thấp; thiếu lao động có trình độ chuyên môn và nghiệp vụ giỏi; sức ép của quá trình hội nhập kinh tế thế giới và khu vực; một số vấn đề xã hội còn nhiều bức xúc…

Ngoài ra, công nghiệp Lào Cai còn chịu tác động của các yếu tố sau:

1. Định hướng phát triển KT-XH cả nước

Phấn đấu đạt tốc độ tăng trưởng GDP bình quân 7-8%/năm. GDP năm 2020 theo giá so sánh bằng khoảng 2,2 lần so với năm 2010. GDP bình quân đầu người đạt khoảng 3.000-3.200 USD.

Bảo đảm ổn định kinh tế vĩ mô. Xây dựng cơ cấu kinh tế công nghiệp, nông nghiệp, dịch vụ hiện đại, hiệu quả. Tỷ trọng các ngành công nghiệp và dịch vụ chiếm khoảng 85% trong GDP. Giá trị sản phẩm công nghệ cao đạt khoảng 45% trong tổng GDP. Giá trị sản phẩm công nghiệp chế tạo chiếm khoảng 40% trong tổng giá trị sản xuất công nghiệp. Nông nghiệp có bước phát triển theo hướng hiện đại, hiệu quả, bền vững, nhiều sản phẩm có giá trị gia tăng cao.

Phát triển mạnh công nghiệp và xây dựng theo hướng hiện đại, nâng cao chất lượng, sức cạnh tranh, tạo nền tảng cho một nước công nghiệp.

Cơ cấu lại sản xuất công nghiệp cả về ngành kinh tế kỹ thuật, vùng và giá trị mới. Tăng hàm lượng khoa học công nghệ và tỷ trọng giá trị nội địa trong sản phẩm. Phát triển có chọn lọc công nghiệp chế biến, chế tác, công nghiệp CNC, công nghiệp năng lượng, khai khoáng, luyện kim, hóa chất, công nghiệp quốc phòng. Ưu tiên phát triển các SP có lợi thế cạnh tranh, sản phẩm có khả năng tham gia mạng sản xuất và chuỗi giá trị toàn cầu thuộc các ngành công nghiệp CNC, công nghiệp cơ khí, công nghiệp CNTT và truyền thông, công nghiệp dược... Phát triển mạnh CNHT. Chú trọng phát triển công nghiệp phục vụ nông nghiệp, nông thôn, năng lượng sạch và VL mới đi đôi với áp dụng công nghệ tiết kiệm năng lượng, nguyên liệu.

Phát triển thị trường hàng hóa, dịch vụ theo hướng tự do hóa thương mại và đầu tư. Phát triển khu vực TM-DV đạt tốc độ cao hơn các khu vực SX và cao hơn tốc độ tăng GDP.

Tập trung phát triển một số ngành dịch vụ có lợi thế. Mở rộng thị trường nội địa, phát triển mạnh thương mại trong nước, đa dạng hóa thị trường ngoài nước, khai thác hiệu quả các thị trường có hiệp định mậu dịch tự do và thị trường tiềm năng, tăng nhanh XK và phấn đầu cân bằng XNK. Phát triển nhanh hệ thống phân phối các sản phẩm có lợi thế cạnh tranh ở cả trong và ngoài nước.

Chiến lược và quy hoạch phát triển công nghiệp Việt Nam5

Theo Báo cáo “Chiến lược phát triển công nghiệp Việt Nam đến năm 2025, tầm nhìn đến năm 2035”, và “QH tổng thể phát triển công nghiệp VN đến năm 2020, tầm nhìn đến năm 2030”, công nghiệp Việt Nam được định hướng phát triển trong giai đoạn từ nay đến năm 2030 như sau:

- Từng bước điều chỉnh mô hình tăng trưởng công nghiệp từ chủ yếu dựa trên số lượng sang dựa trên năng suất, chất lượng và hiệu quả, đẩy mạnh phát triển các ngành và SPCN có giá trị gia tăng cao, giá trị XK lớn; gắn kết sản xuất với phát triển dịch vụ công nghiệp.

- Tập trung phát triển CNHT, đặc biệt là nhóm sản phẩm cơ khí, hóa chất, điện tử viễn thông phục vụ sản xuất công nghiệp.

- Điều chỉnh phân bố không gian công nghiệp, đảm bảo phù hợp giữa các vùng trên toàn quốc, giải quyết tình trạng mật độ công nghiệp cao ở một số khu vực, đảm bảo cân đối và hài hòa giữa các vùng và địa phương.

- Phát triển các ngành công nghiệp ưu tiên tại các vùng công nghiệp lõi được hình thành từ mỗi vùng kinh tế trọng điểm và các khu kinh tế ven biển; chuyển dịch các ngành công nghiệp thâm dụng lao động, công nghiệp cơ chế, công nghiệp hỗ trợ từ các vùng công nghiệp lõi sang các vùng công nghiệp đệm.

Theo đó, nhóm ngành công nghiệp được lựa chọn ưu tiên phát triển trong giai đoạn đến năm 2025 sẽ là các nhóm ngành cơ khí và luyện kim (máy móc thiết bị phục vụ nông nghiệp, ô tô và phụ tùng cơ khí, thép chế tạo); nhóm ngành hóa chất (hóa chất cơ bản, hóa dầu, linh kiện nhựa-cao su kỹ thuật); nhóm ngành chế biến nông, lâm, thủy sản; nhóm ngành Dệt may-da giày (ưu tiên SX nguyên phụ liệu); nhóm ngành điện tử-viễn thông (sản phẩm thiết bị máy tính, điện thoại và linh kiện); ngành năng lượng mới và năng lượng tái tạo.

- Tốc độ tăng trưởng giá trị tăng thêm công nghiệp giai đoạn đến năm 2020 đạt 6,5-7,0%/năm, giai đoạn 2021-2025 đạt 7,0-7,5%/năm và giai đoạn 2026-2035 đạt 7,5-8,0%/năm.

- Tốc độ tăng trưởng giá trị sản xuất công nghiệp giai đoạn đến năm 2020 đạt 12,5-13,0%/năm, giai đoạn 2021-2025 đạt 11,0-12,5%/năm và giai đoạn 2026-2035 đạt 10,5-11,0%/năm.

- Phấn đấu đến năm 2020 tỷ trọng công nghiệp và XD chiếm 42 - 43%, năm 2025 chiếm 43- 44% và năm 2035 chiếm 40- 41% trong cơ cấu kinh tế cả nước.

- Tỷ trọng hàng công nghiệp xuất khẩu/tổng kim ngạch xuất khẩu đến năm 2025 đạt 85- 88%, sau năm 2025 đạt trên 90%.

- Giá trị SPCN công nghệ cao và sản phẩm ứng dụng công nghệ cao đến năm 2025 đạt khoảng 45% tổng GDP, sau năm 2025 đạt trên 50%.

- Chỉ số ICOR công nghiệp giai đoạn 2011-2025 đạt 3,5-4,0%; giai đoạn 2026 - 2035 đạt 3,0- 3,5% .

2. Tác động của Vùng kinh tế

Lào Cai là địa phương nằm trong Vùng Trung du và miền núi Bắc Bộ, sự phát triển kinh tế nói chung và phát triển công nghiệp nói riêng cần gắn liền với phát triển chung của Vùng, đóng góp và tham gia thúc đẩy phát triển kinh tế của toàn Vùng.

Theo “Quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế-xã hội Vùng Trung du miền núi Bắc Bộ6, mục tiêu phát triển chung là duy trì tốc độ phát triển kinh tế cao hơn nhịp độ phát triển chung của cả nước; cải thiện rõ rệt và đồng bộ hệ thống hạ tầng kinh tế-xã hội đáp ứng ngày càng tốt hơn yêu cầu phát triển kinh tế; khai thác hợp lý và hiệu quả các tiềm năng thế mạnh về phát triển nông, lâm nghiệp, thủy điện, khoáng sản, du lịch và kinh tế cửa khẩu để phát triển kinh tế, từng bước thu hẹp khoảng cách về trình độ phát triển so với mức bình quân chung của cả nước.

Phấn đấu đạt tốc độ tăng trưởng VA (GDP) thời kỳ 2011-2015 là 7,5%/năm và thời kỳ 2016-2020 trên 8%/năm; VA(GDP)/người đến năm 2020 đạt 2.000 USD. Chuyển dịch cơ cấu kinh tế đến năm 2015, tỷ trọng kinh tế các ngành nông, lâm, thủy sản; CN+XD và TM-DV là 27,0%; 34,1% và 38,9%; tương ứng đến năm 2020 phấn đấu đạt 21,9%; 38,7% và 39,4%.

Phát triển công nghiệp:

- Tập trung phát triển các ngành công nghiệp như: CB thực phẩm; công nghiệp khai thác và chế biến sâu khoáng sản; CN sản xuất hàng tiêu dùng có sức cạnh tranh, thu hút nhiều lao động. Chú trọng phát triển CNHT gắn với phát triển các KCN, KKT cửa khẩu. Phấn đấu đưa giá trị sản xuất công nghiệp tăng bình quân trên 11,5%/năm thời kỳ 2011 - 2015 và 12,5%/năm thời kỳ 2016 - 2020;

- Huy động mọi nguồn lực đầu tư hoàn thiện hạ tầng các KCCN trên địa bàn Vùng nhằm thu hút các doanh nghiệp đầu tư phát triển sản xuất.

- Khôi phục và phát triển các làng nghề sản xuất các sản phẩm truyền thống phù hợp với bản sắc văn hóa của từng địa phương, nhằm tạo công ăn việc làm và tăng thu nhập cho nhân dân.

- Đầu tư công nghệ và thiết bị hiện đại để khai thác đi đôi với chế biến sâu khoáng sản apatit (Lào Cai); đồng Sin Quyền (Lào Cai); Niken - đồng Bản Phúc (Sơn La); vonfram Núi Pháo (Thái Nguyên); sắt Quý Sa và làng Lếch (Lào Cai), Trại Cau (Thái Nguyên); thiếc Tĩnh Túc (Cao Bằng), chì, kẽm, cao lanh, VLXD; đổi mới công nghệ khu gang thép Thái Nguyên.

- Phát triển vùng nguyên liệu cho các nhà máy giấy Bãi Bằng, nhà máy giấy Tuyên Quang và các nhà máy ván ép xuất khẩu trên địa bàn; duy trì và phát triển công nghiệp chế biến sản phẩm chè tại các tỉnh trọng điểm như Thái Nguyên, Lào Cai, Yên Bái, Sơn La; chế biến sữa tại Mộc Châu (Sơn La) và các loại nông sản, thực phẩm tại các địa phương có lợi thế đã hình thành vùng chuyên canh.



Phát triển mạng lưới đô thị: Các đô thị trung tâm của Vùng được hình thành và phát triển trên cơ sở các đô thị trung tâm hiện hữu. Trong đó: Thành phố trung tâm cấp Vùng TD và MNBB gồm 02 thành phố là Việt Trì và Thái Nguyên; thành phố trung tâm vùng liên tỉnh gồm 04 thành phố Lào Cai, Lạng Sơn, Điện Biên và Sơn La; các thành phố, thị xã cấp tỉnh gồm: Bắc Cạn, Cao Bằng, Lai Châu, Hà Giang, Yên Bái, Tuyên Quang, Bắc Giang, Hòa Bình và các thị xã, thị trấn huyện lỵ, trung tâm chuyên ngành của tỉnh, trung tâm các cụm khu dân cư nông thôn.

Phân bố hệ thống đô thị: Vùng trung du gò đồi, gồm các tỉnh Bắc Giang, Thái Nguyên, Bắc Cạn, Tuyên Quang, Yên Bái, Lào Cai và Hòa Bình sẽ hình thành và phát triển khoảng 120 đô thị (47 đô thị cải tạo chỉnh trang, 34 đô thị nâng loại và 39 đô thị xây dựng mới). Trong đó, Tp Việt Trì và Thái Nguyên là đô thị loại I. Các Tp Yên Bái, Tuyên Quang, Bắc Giang, Hòa Bình, Bắc Kạn và Sông Công là đô thị loại II. Các Tp Lào Cai, Nghĩa Lộ là đô thị loại III. Còn lại là 29 đô thị loại IV và 81 đô thị loại V.

3. Tác động từ Hành lang kinh tế Côn Minh - Lào Cai - HN - Hải Phòng

Hành lang kinh tế Côn Minh - Hà Nội - Hải Phòng. là một trong 05 hành lang kinh tế của Tiểu vùng sông Mekong mở rộng (GMS), đồng thời còn là một bộ phận của chương trình hợp tác "Hai hành lang, một vành đai" giữa Việt Nam và Trung Quốc. Đây là tuyến hành lang gồm cả đường bộ, đường sắt, và đường sông. Tuyến hành lang kinh tế này là một bộ phận quan trọng trong Khu vực tự do thương mại Trung Quốc-ASEAN. Nhờ vị trí địa lý thuận lợi và hạ tầng giao thông có sẵn, hành lang này có vai trò đặc biệt trong việc kết nối các tỉnh phía Tây Trung Quốc với các nước ASEAN theo con đường ngắn nhất.

Lào Cai nằm trên tuyến đường cao tốc Hà Nội - Lào Cai đi qua địa bàn 05 tỉnh, thành phố là Hà Nội, Vĩnh Phúc, Lào Cai, Yên Bái và Lào Cai, nối với đường cao tốc Côn Minh-Hà Khẩu của Trung Quốc và là một hợp phần trong dự án phát triển cơ sở hạ tầng giao thông của Hành lang kinh tế Côn Minh-Hà Nội-Hải Phòng-Quảng Ninh. Dự án đường cao tốc này đã khởi công từ năm 2008 và đã cơ bản hoàn thành. Đây là tuyến đường đặc biệt quan trọng thuộc hành lang Côn Minh - Hải Phòng. Việc hoàn thành dự án sẽ thu hút nhiều hàng hóa và là một trục kinh tế lớn của Lào Cai cũng như của cả tiểu vùng kinh tế, góp phần thúc đẩy kinh tế của tỉnh phát triển.

III. CƠ HỘI VÀ THÁCH THỨC TRONG PHÁT TRIỂN CÔNG NGHIỆP TỈNH LÀO CAI

1. Cơ hội

Kinh tế và thị trường thế giới đã bắt đầu có dấu hiệu phục hồi và ổn định, điều này sẽ có những tác động tích cực tới nhu cầu tiêu thụ và tiêu dùng các sản phẩm công nghiệp.

Lào Cai nằm ở vị trí trung tâm Vùng TD và MNBB đang trên đà phát triển, nhiều tập đoàn kinh tế, doanh nghiệp lớn trong và ngoài nước đã và đang quan tâm đến đầu tư vào khu vực với những tiềm năng về địa lý, đất đai và những thuận lợi trong chính sách đầu tư.

Các tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam đang diễn ra theo đúng lộ trình đặt ra, như: WTO, AFTA, TTP, AEC… các liên kết quốc tế và xu thế hợp tác tích cực của nền kinh tế cả nước sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho Lào Cai tiếp tục phát huy nội lực, thu hút các nguồn vốn đầu tư, công nghệ… phát triển kinh tế.

Các khó khăn kinh tế trong nước thời gian vừa qua cũng là cơ hội để các doanh nghiệp, nhà đầu tư trên địa bàn tỉnh Lào Cai cấu trúc lại sản xuất, giải thể, mua bán hoặc sáp nhập các doanh nghiệp kém hiệu quả, nhằm tạo ra những DN có tiềm lực hơn, có khả năng cạnh tranh cao hơn, trên thị trường trong và ngoài nước.

2. Thách thức

Tác động tiêu cực của các vấn đề vĩ mô trong và ngoài nước như lạm phát và lãi suất cao, thắt chặt và cắt giảm đầu tư, giá cả hàng hóa, nguyên vật liệu phục vụ sản xuất biến động mạnh, nguy cơ phá sản doanh nghiệp và thất nghiệp của người lao động… vẫn còn ảnh hưởng lâu dài đến phát triển KT-XH và công nghiệp của tỉnh và tạo ra hàng loạt các vấn đề xã hội cần giải quyết.

Yêu cầu và mục tiêu phát triển đặt ra cho khu vực TD và MNBB nói chung và Lào Cai nói riêng là khá lớn, trong khi thực trạng nền kinh tế còn yếu, xuất phát điểm thấp. Mở cửa và hội nhập kinh tế quốc tế, song hành với sức ép cạnh tranh trên thị trường trong nước và ngoài nước.

Thị trường của tỉnh Lào Cai có sức mua chưa cao, do thu nhập của đại bộ phân người dân còn thấp, do đó việc đầu tư kinh doanh hay đầu tư sản xuất gặp nhiều hạn chế.

Mối liên kết, tác động qua lại giữa khu, cụm công nghiệp, giữa các ngành công nghiệp với các ngành TM-DV của tỉnh còn hạn chế, chưa thực sự hỗ trợ lẫn nhau trong phát triển.

Về tổng thể, hệ thống tổ chức quản lý nhà nước trên địa bàn vẫn cần tiếp tục được hoàn thiện, để đáp ứng nhu cầu phát triển mạnh mẽ của ngành công nghiệp, tương xứng với vai trò là một trong những trung tâm công nghiệp của Vùng TD và MNBB, bao gồm cả bộ máy tổ chức, trình độ cán bộ, nhân viên, cùng trang thiết bị và cơ sở vật chất cần thiết. Nếu không được cải thiện sớm, thì điều này sẽ là một cản trở không nhỏ, đối với quá trình phát triển công nghiệp trên địa bàn tỉnh, trong các giai đoạn tới.

IV. ĐÁNH GIÁ THỊ TRƯỜNG VÀ KHẢ NĂNG CẠNH TRANH MỘT SỐ SẢN PHẨM CHỦ YẾU

1. Triển vọng xuất khẩu hàng hóa của Việt Nam sang Trung Quốc

Tiềm năng thị trường Trung Quốc là rất lớn với tốc độ tăng trưởng kinh tế ở mức tương đối cao và ổn định cùng một thị trường với gần 1,4 tỉ người tiêu dùng đang trong quá trình chuyển biến mạnh mẽ về cơ cấu tiêu dùng. Dự báo đến năm 2020, tổng kim ngạch thương mại XNK của Trung Quốc sẽ vào khoảng 5.000 tỉ USD, trong đó hàng hóa nhập khẩu có thể lên đến 2.000 tỷ USD.

Nhu cầu thị trường Trung Quốc đối với những mặt hàng XK chủ lực của Việt Nam trong giai đoạn trước mắt vẫn là: dầu thô, than đá, thủy hải sản, rau quả, đồ gỗ, các loại quặng, hạt điều và nhiều loại nông sản khác, đặc biệt là nhu cầu đối với nhóm hàng năng lượng như dầu thô, than đá, cao su, trong tương lai sẽ là bô xít Alumin, sản phẩm cao su, hàng điện tử và nhiều loại mặt hàng khác.

Như vậy, thị trường Trung Quốc sẽ vẫn tiếp tục giữ vị trí là thị trường trọng điểm và rất quan trọng đối với Việt Nam. Tuy nhiên cho đến nay, hàng XK của Việt Nam mới chỉ chiếm một thị phần khiêm tốn trong dung lượng này.

Dự báo cơ cấu mặt hàng XK tiểu ngạch từ Việt Nam sang Trung Quốc sẽ chuyển dịch từ các nguyên liệu thô, các mặt hàng nông, lâm, thuỷ sản chưa qua chế biến sang các mặt hàng đã qua chế biến. Trong đó:

- Nhóm hàng nguyên, nhiên liệu, khoáng sản và quặng, có xu hướng giảm dần, trong một vài năm tới nhóm hàng này sẽ không còn trong cơ cấu hàng hoá xuất khẩu tiểu ngạch.

- Nhóm hoa quả tươi các loại gồm thanh long, nhãn, dưa hấu, chôm chôm, mận, xoài, vải, chuối quả xanh, thảo quả và các loại hoa quả nhiệt đới khác sẽ có xu hướng tăng trưởng cao, đặc biệt là các hình thức sơ chế, bao bì đóng gói theo tiêu chuẩn.

- Nhóm hàng cao su và các sản phẩm bằng cao su sẽ duy trì mức tăng trưởng ổn định như hiện nay.

- Nhóm các sản phẩm nông sản khác, gồm hạt tiêu, chè khô, chè chế biến, cà phê, gừng, ớt, sắn lát khô, tinh bột sắn, ngũ cốc, hạt điều, mía cây nguyên liệu, lạc và các mặt hàng nông sản khác cũng sẽ được mở rộng và tăng cường xuất khẩu tiểu ngạch sang Trung Quốc.

- Nhóm các mặt hàng lương thực, thực phẩm chế biến dự báo sẽ tăng mạnh trong thời gian tới do các DN đang triển khai mở rộng và phát triển hệ thống phân phối hàng hoá Việt Nam tại thị trường các tỉnh biên giới Trung Quốc.

- Nhóm hàng thuỷ, hải sản sẽ tăng dần tỷ trọng xuất khẩu tiểu ngạch qua các cửa khẩu biên giới của các tỉnh Hà Giang, Lào Cai, Điện Biên và Lai Châu sang thị trường tỉnh Vân Nam và các tỉnh Tây Nam của Trung Quốc.

- Nhóm hàng công nghiệp, mặt hàng gỗ và các mặt hàng khác cũng sẽ có nhiều triển vọng phát triển xuất khẩu tiểu ngạch sang Trung Quốc trong những năm tới.

2 Đặc điểm và triển vọng thị trường cả nước đối với một số nhóm ngành, sản phẩm



2.1. Ngành khai thác và chế biến khoáng sản

- Quặng apatit:

Nhu cầu quặng Apatit cho sản xuất phân supe đơn, phân lân nung chảy, phân bón DAP, cho sản xuất phốt pho vàng…


Каталог: Uploads
Uploads -> -
Uploads -> 1. Most doctors and nurses have to work on a once or twice a week at the hospital
Uploads -> Kính gửi Qu‎ý doanh nghiệp
Uploads -> VIỆn chăn nuôi trịnh hồng sơn khả NĂng sản xuất và giá trị giống của dòng lợN ĐỰc vcn03 luậN Án tiến sĩ NÔng nghiệp hà NỘI 2014
Uploads -> Như mọi quốc gia trên thế giới, bhxh việt Nam trong những năm qua được xem là một trong những chính sách rất lớn của Nhà nước, luôn được sự quan tâm và chỉ đạo kịp thời của Đảng và Nhà nước
Uploads -> Tác giả phạm hồng thái bài giảng ngôn ngữ LẬp trình c/C++
Uploads -> BỘ TÀi nguyên và MÔi trưỜng
Uploads -> TRƯỜng đẠi học ngân hàng tp. Hcm markerting cơ BẢn lớP: mk001-1-111-T01
Uploads -> TIÊu chuẩn quốc gia tcvn 8108 : 2009 iso 11285 : 2004
Uploads -> ĐỀ thi học sinh giỏi tỉnh hải dưƠng môn Toán lớp 9 (2003 2004) (Thời gian : 150 phút) Bài 1

tải về 2.21 Mb.

Chia sẻ với bạn bè của bạn:
1   2   3   4   5   6   7   8   9   ...   17




Cơ sở dữ liệu được bảo vệ bởi bản quyền ©hocday.com 2024
được sử dụng cho việc quản lý

    Quê hương